Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

luận văn tài nguyên môi trường Nghiên cứu ảnh hưởng của hoạt động khai thác than của mỏ than Phấn Mễ đến môi trường nước thị trấn Giang Tiên, Phú Lương, Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.15 KB, 65 trang )

Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Những vấn đề về môi trường và có liên quan đến môi trường bắt đầu
được người ta quan tâm vào cuối thế kỉ XVIII, khi quá trình khai thác tài
nguyên thiên nhiên đi kèm với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các nước Tây
Âu và Bắc Mỹ. Cho đến ngày nay, thế giới không ngừng đẩy mạnh các hoạt
động bảo vệ môi trường. Hàng loạt các biện pháp được đề xuất thực hiện và
đã đạt được không ít thành tựu trong lĩnh vực này. Song chúng ta vẫn đứng
trước những thách thức gay gắt về môi trường trên quy mô toàn cầu. Chớnh vì
thế, các nước trên thế giới có liên quan chặt chẽ với nhau và quan hệ mật thiết
với các vấn đề môi trường toàn cầu của từng nước. Việt Nam cũng không
nằm ngoài quy luật đó. Cùng với quá trình xây dựng phát triển lớn mạnh của
đất nước thì ngành năng lượng ngày càng được chú ý quan tâm hơn, đặc biệt
là ngành than – vàng đen của Tổ quốc. Hoạt động khai thác than đã và đang
trực tiếp, gián tiếp tạo công ăn việc làm, mang lại thu nhập ổn định, phục vụ
đời sống sinh hoạt của nhân dân địa phương đồng thời đóng góp một lượng
lớn cho ngân sách quốc gia. Tuy nhiên hoạt động khai thác than cũng là
nguyên nhân chính làm cho các vấn đề môi trường nói chung và môi trường
nước nói riêng ngày càng trở nên bức xúc ở các địa phương.
Tại thị trấn Giang Tiên, Mỏ than Phấn Mễ là một trong những đơn vị sản
xuất kinh doanh hiệu quả đóng góp rất lớn vào nguồn ngân sách chung của thị
trấn. Ngoài ra nhờ hoạt động của Mỏ đã đem lại công ăn việc làm cho hàng
trăm lao động của thị trấn, đảm bảo đời sống của nhõn dân. Song chúng ta
cũng không thể phủ nhận những tác động tiêu cực do hoạt động khai thác than
của mỏ than Phấn Mễ đem lại cho môi trường nói chung và môi trường nước
1
của địa phương nói riêng. Vì vậy việc xác định rõ những ảnh hưởng xấu đó để
tìm ra các biện pháp khắc phục là vô cùng bức thiết hiện nay.
Xuất phát từ những yêu cầu trên của địa phương và nguyện vọng của bản
thân cùng với sự nhất trí của khoa Tài nguyên và Môi trường, Trường Đại học


Nông Lâm, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của hoạt
động khai thác than của mỏ than Phấn Mễ đến môi trường nước thị trấn
Giang Tiờn, Phỳ Lương, Thỏi Nguyờn”. dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ
Dương Thị Thanh Hà.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Đánh giá thực trạng môi trường nước nhằm xác định ảnh hưởng do
hoạt động khai thác than của mỏ than Phấn Mễ tới môi trường nước tại thị
trấn Giang Tiờn- Phỳ Lương- Thỏi Nguyờn.
- Giúp cho chính quyền địa phương cũng như các nhà quản lí môi trường
thấy được thực trạng công tác quản lí môi trường ở địa phương.
- Đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm giảm thiểu những ảnh hưởng xấu
của khai thác than tới môi trường nước tại địa phương.
1.3. Ý nghĩa của đề tài.
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học.
- Tạo cho sinh viên có cơ hội vận dụng lí thuyết vào thực tiễn, rèn luyện
khả năng tổng hợp phân tích số liệu.
- Là điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu và học hỏi những kinh nghiệm
sau khi ra trường.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn.
Những kết quả của đề tài là cơ sở giúp cho:
- Phòng TN & MT huyện Phú Lương, cán bộ môi trường thị trấn Giang
Tiên thực hiện công tác quản lí và BVMT hiệu quả hơn.
2
- Ban lãnh đạo Mỏ than Phấn Mễ thấy được hiện trạng môi trường nước
để từ đó có những cải tiến về công nghệ, trang thiết bị … trong khai thác và
xử lí môi trường nước, đẩy mạnh công tác BVMT được tốt hơn.
1.4. Yêu cầu của đề tài.
- Chấp hành đúng chính sách môi trường của nhà nước, quy trình, quy
phạm, quy định của ngành tài nguyên môi trường.
- Các số liệu thu được phản ánh trung thực, khách quan.

- Kết quả đánh giá ảnh hưởng của hoạt động khai thác than của mỏ than
Phấn Mễ đến môi trường nước thị trấn Giang Tiên phải chính xác.
- Các kiến nghị đưa ra phải có tính khả thi.
3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Khái niệm về môi trường, ô nhiễm môi trường, ô nhiễm môi trường nước
2.1.1.1. Các khái niệm môi trường
- Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có
quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống,
sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. Đây là khái niệm
tổng quát về môi trường.
- Môi trường là tập hợp các điều kiện và hiện tượng bên ngoài có ảnh
hưởng tới một vật thể hoặc sự kiện.
- Môi trường sống là tổng thể các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới
sự sống và sự phát triển của cơ thể sống.
-Môi trường sống của con người là tổng hợp các điều kiện vật lý, hoá
học, sinh học, xã hội bao quanh con người và có ảnh hưởng tới sự sống, sự
phát triển của từng cá nhân và toàn bộ cộng đồng người.
- Theo Luật Môi trường Việt Nam sửa đổi năm 2005: “ Môi trường bao
gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo có liên quan mật thiết với nhau
bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát
triển của con người và sinh vật.
* Một số khái niệm liên quan đến môi trường
- Suy thoái môi trường là sự suy giảm về chất lượng và số lượng của
thành phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu đối với con người và sinh vật.
- Sự cố môi trường là tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt
động của con người hoặc biến đổi thất thường của tự nhiên, gây ô nhiễm, suy
thoái hoặc biến đổi môi trường nghiêm trọng.

4
- Khủng hoảng môi trường: là các suy thoái chất lượng MT sống ở quy
mô toàn cầu, đe doạ cuộc sống loài người trên Trái Đất như sa mạc hoá,
nguồn nước và biển bị ô nhiễm nghiêm trọng thủng tầng ụzụn.
- Tai biến môi trường: là quá trình gây hại vận hành trong hệ thống MT,
phản ánh tính nhiễu loạn và tính bất ổn của hệ thống. Có 3 giai đoạn:
Nguy cơ ( hiểm hoạ ): Đã tồn tại các yếu tố gây hại nhưng chưa gây mất
ổn định cho hệ thống.
Giai đoạn phát triển: tập trung và gia tăng các yếu tố tai biến, xuất
hiện trạng thái mất ổn định nhưng chưa vượt qua ngưỡng an toàn của hệ
thống MT.
Giai đoạn sự cố: trạng thái mất ổn định đã vượt qua ngưỡng an toàn của
hệ thống, gây ra các thiệt hại không mong đợi cho con người (sức khoẻ,tớnh
mạng, sản nghiệp) ==> thiên tai hoặc sự cố MT.
- An ninh môi trường: là trạng thái mà một hệ thống MT có khả năng
đảm bảo điều kiện sống an toàn cho con người và sinh vật cư trú trong hệ
thống đó.
- Tị nạn môi trường: con người và sinh vật buộc phải rời khỏi nơi cư trú
truyền thống của mình tạm thời hay vĩnh viễn do sự huỷ hoại môi trường gây
nguy hiểm cho cuộc sống của họ.Trờn thế giới cứ khoảng 225 người lại có
một người phải tị nạn môi trường (TS. Lê Văn Thiện, 2007) [10].
2.1.1.2. Ô nhiễm môi trường
- ễ nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường
không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người,
sinh vật.
- Nguyờn nhõn gây ô nhiễm chủ yếu do hoạt động của các hoạt động của
con người gây ra như sản xuất công nghiệp, sinh hoạt, giao thông vận tải…
Ngoài ra, ô nhiễm còn do một số hoạt động của tự nhiên: núi lửa phun nham
thạch gây nhiều bụi bặm, thiên tai… tạo điều kiện cho nhiều loại vi sinh vật
gây bệnh phát triển.

5
2.1.1.3. Ô nhiễm nước.
a. Khái niệm: Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính
chất vật lớ, hoỏ học, sinh học của nước, với sự xuất hiện của các chất lạ ở thể
rắn, lỏng làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm
giảm độ đa dạng sinh vật trong nước.
b. Các nguồn gây ô nhiễm nước
* Nguồn gốc tự nhiên: Sự ô nhiễm nước có nguồn gốc tự nhiên là do sự
nhiễm mặn, nhiễm phèn, gió bão, lũ lụt Nước mưa rơi xuống mặt đất, mái
nhà, đường phố, đô thị, khu công nghiệp kéo theo các chất bẩn xuống sông,
hồ hoặc các sản phẩm của hoạt động sống của sinh vật, vi sinh vật kể cả
xác chết của chúng. Sự ô nhiễm này còn gọi là sự ô nhiễm không xác định
được nguồn.
* Nguồn gốc nhân tạo: Sự ô nhiễm nhân tạo chủ yếu là do xả nước thải
từ cỏc vựng dân cư, khu công nghiệp, hoạt động giao thông vận tải, thuốc trừ
sâu, thuốc diệt cỏ, các phương tiện giao thông vận tải, đặc biệt là giao thông
vận tải đường biển.
- Nước thải sinh hoạt: là nước thải phát sinh từ các hộ gia đình, bệnh
viện, khách sạn, cơ quan trường học chứa các chất thải trong quá trình vệ
sinh, sinh hoạt của con người.
Thành phần cơ bản của nước thải sinh hoạt là các chất hữu cơ dễ bị
phân huỷ sinh học (cacbonhydrat, protein, dầu mỡ), chất dinh dưỡng
(photpho, nitơ ), chất rắn và vi trùng.
Tuỳ theo mức sống và lối sống mà lượng thải cũng như tải lượng các
chất có trong nước thải của mỗi người là khác nhau. Nhìn chung mức sống
càng cao thì lượng nước thải và tải lượng thải càng cao.
Tải lượng trung bình các tác nhân gây ô nhiễm nước chính do một
người đưa vào môi trường trong một ngày được nêu trong bảng sau:
6
Bảng 2.1. Tải lượng tác nhân ô nhiễm do con người đưa vào hàng ngày

TT Tác nhân ô nhiễm Tải lượng (g/người/ngày)
1 BOD
5
45 -54
2 COD (1,6 – 1,9 )ìBOD
5
3 Tổng chất rắn hoà tan(TDS) 170 – 220
4 Tổng chất rắn lơ lửng (TSS) 70 – 145
5 Clo( Cl
-
) 4 – 8
6 Tổng nitơ (tính theo N) 6 -12
7 Tổng photpho ( tính theo P ) 0,8 - 4
(Nguồn: Dư Ngọc Thành,2008) [9]
- Nước thải đô thị: là loại nước thải tạo thành do sự gộp chung nước thải
sinh hoạt, nước thải vệ sinh và nước thải của các cơ sở thương mại, công
nghiệp nhỏ trong khu đô thị. Nước thải đô thị thường được thu gom vào hệ
thống cống thải thành phố, đô thị để xử lí chung.
Thông thường ở các đô thị có hệ thống cống thải, khoảng 70 – 90%
tổng lượng nước sử dụng của đô thị sẽ trở thành nước thải đô thị và chảy vào
đường cống.
Nhìn chung nước thải đô thị có thành phần tương tự như nước
thải sinh hoạt.
- Nước thải công nghiệp: là nước thải từ các cơ sở sản xuất công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải.
Khác với nước thải sinh hoạt hay đô thị, nước thải công nghiệp không
có thành phần cơ bản giống nhau, mà phụ thuộc vào ngành sản xuất công
nghiệp cụ thể. Ví như nước thải của các xí nghiệp chế biến thực phẩm thường
chứa lượng lớn các chất hữu cơ, nước thải của các xí nghiệp thuộc da ngoài
các chất hữu cơ cũn cú cỏc kim loại nặng…

- Nước chảy tràn: là nước chảy tràn từ mặt đất do mưa hoặc do thoát
nước từ đồng ruộng là nguồn gây ô nhiễm nước sông, hồ. Nước chảy tràn qua
đồng ruộng đồng có thể cuốn theo các chất rắn, hoá chất bảo vệ thực vật, phân
7
bón. Nước chảy tràn qua khu vực dân cư, đường phố, cơ sở sản xuất công
nghiệp, có thể làm ô nhiễm nguồn nước do chất rắn, dầu mỡ, hoá chất, vi
trùng (Dư Ngọc Thành, 2008) [9].
c. Tác nhân và thông số ô nhiễm nguồn nước.
* Tác nhân và thông số ô nhiễm hoỏ lớ nguồn nước.
- Màu sắc: Nước tự nhiờn sạch thường trong suốt và không màu, cho
phép ánh sáng mặt trời chiếu xuống tầng nước sâu. Khi nước chứa nhiều chất
rắn lơ lửng, các loại tảo, chất hữu cơ…nú trở nên kém thấu quang với ánh
sáng mặt trời.Các sinh vật sống ở đáy thường bị thiếu ánh sáng. Các chất rắn
trong môi trường nước làm cho sinh vật hoạt động trở nên khó khăn hơn, một
số trường hợp có thể gây tử vong cho sinh vật. Chất lượng nước suy giảm làm
ảnh hưởng xấu tới hoạt động bình thường của con người.
- Mựi và vị: nước tự nhiên sạch không có mùi hoặc có mùi vị dễ chịu.
Khi trong nước có sản phẩm phân huỷ chất hữu cơ, chất thải công nghiệp, các
kim loại thì mùi vị trở nên khó chịu.
- Độ đục: nước tự nhiên sạch thường không chứa các chất rắn lơ lửng
nên trong suốt và không màu. Do chứa các hạt sét và mùn, vi sinh vật, hạt bụi,
cỏc hoỏ chất kết tủa thì nước trở nên đục. Nước đục ngăn cản quá trình chiếu
sáng của Mặt trời. Các chất rắn ngăn cản hoạt động bình thường của người và
sinh vật khác.
- Nhiệt độ: Nhiệt độ nước tự nhiên phụ thuộc vào khí hậu, thời tiết của
lưu vực hoặc môi trường khu vực. Nước thải công nghiệp, đặc biệt là nước
thải của các nhà nhiệt điện, nhà máy điện hạt nhân thường có nhiệt độ cao
hơn nước tự nhiờn trong khu vực. Chất thải làm tăng nhiệt độ môi trường
nước làm cho quá trình sinh, lớ, hoỏ của môi trường nước thay đổi, dẫn tới
một số loài sinh vật sẽ không chịu đựng được sẽ chết đi hoặc chuyển đi nơi

khác, một số còn lại phát triển mạnh mẽ. Sự thay đổi nhiệt độ nước thông
thường không có lợi cho sự cân bằng tự nhiên của hệ sinh thái nước.
8
- Chất rắn lơ lửng: Chất rắn lơ lửng là các hạt chất rắn vô cơ hoặc hữu
cơ, kích thước bé, rất khó lắng trong nước như khoỏng sột, bụi than, mựn…
Sự có mặt của chất rắn lơ lửng trong nước gây nên độ đục, màu sắc và các
tính chất khác.
- Độ cứng: Gây ra độ cứng của nước là do trong nước có chứa các muối
Ca và Mg với hàm lượng lớn.
- Độ dẫn điện: độ dẫn điện của nước có liên quan đến sự có mặt của ion
trong nước. Các ion này thường là muối của kim loại như NaCl, KCl, SO
4
2-

nước có tính độc hại cao thường liên quan đến các ion hoà tan trong nước.
- Độ pH có ảnh hưởng tới điều kiện sống bình thường của các sinh vật
nước. Sự thay đổi pH trong nước thường liên quan đến sự hiện diện các hoá
chất axit hoặc kiềm, sự phân huỷ hữu cơ, sự hoà tan một số anion SO
4
2-
, NO
3

- Nồng độ oxy tự do trong nước: nồng độ oxy tự do trong nước nằm
trong khoảng từ 8 – 10 ppm, dao động mạnh phụ thuộc nhiệt độ, sự phân huỷ
hoá chất, sự quang hợp của tảo…Khi nồng độ oxy tự do trong nước thấp sẽ
làm giảm hoạt động của các sinh vật trong nước nhiều khi dẫn đến chết.
- Nhu cầu oxy hoá (BOD): là lượng oxy mà vi sinh vật cần dùng để oxy
hoỏ cỏc chất hữu cơ có trong nước.
- Nhu cầu oxy hoỏ hoỏ học (COD): là lượng oxy cần thiết cho quá trình

oxy hoỏ các hợp chất hoá học bao gồm cả chất hữu cơ và vô cơ.
* Tỏc nhõn hoá học
- Kim loại nặng: như Hg, Cd, As,Zn… khi có nồng độ lớn đều làm nước
bị ô nhiễm. Kim loại nặng không tham gia hoặc ít tham gia vào quá trình sinh
hoá và thường tích luỹ lại trong cơ thể của sinh vật. Vì vậy chúng rất độc hại
đối với sinh vật.
- Các nhúm anion NO
3
-
, PO
4
3-
, SO
4
2-
, các nguyên tố N, S, P ở nồng độ thấp
là các chất dinh dưỡng với tảo và các sinh vật dưới nước. Ngược lại khi ở nồng độ
cao sẽ gây ra sự phú dưỡng hoặc biến đổi sinh hoá trong cơ thể người và vật.
9
- Thuốc bảo vệ thực vật: là những chất độc có nguồn gốc tự nhiên hoặc
tổng hợp hoá học, được dùng để phòng trừ sâu bệnh trong nông nghiệp. Tuy
nhiên trong sản xuất chỉ có một phần thuốc tác dụng trực tiếp lên côn trùng và
sâu hại còn lại chủ yếu rơi vào nước, đất và tích luỹ trong môi trường hay các
sản phẩm nông nghiệp.
- Cỏc hoá chất hoà tan khác như cỏc nhúm xyanua, phenol, các hợp chất
tẩy rửa… gây độc rất lớn cho nước.
* Tác nhân sinh học
Sinh vật trong môi trường nước có nhiều dạng khác nhau. Bên cạnh
những sinh vật có ích còn có nhiều nhóm sinh vật gây hoặc truyền bệnh cho
người và sinh vật khác. Trong số này đáng chú ý là các loại vi khuẩn, siêu vi

khuẩn và kí sinh trùng gây bệnh như các loại bệnh thương hàn, tả, lị, siờu vi
khuẩn viêm gan B…
Nguồn gây ô nhiễm sinh học cho môi trường nước chủ yếu là phõn,
rỏc, nước thải sinh hoạt, xác chết sinh vật….( Nguyễn Thị Lợi, 2006) [4].
2.1.2. Nguồn nước thải và đặc điểm nước thải công nghiệp
2.1.2.1. Nguồn nước thải.
a. Khái niệm: Nguồn nước thải là nguồn phát sinh ra nước thải và là
nguồn gây ô nhiễm môi trường nước chủ yếu.
b. Phân loại: Có nhiều cách phân loại nguồn nước thải.
* Phân loại theo nguồn thải: có 2 loại là nguồn gây ô nhiễm xác định và
không xác định.
- Nguồn xác định (hay nguồn điểm): là nguồn gây ô nhiễm có thể xác
định được vị trí, bản chất, lưu lượng xả thải và các tác nhân gây ô nhiễm (ví
dụ như mương xả thải).
- Nguồn không xác định là nguồn gây ô nhiễm không có điểm cố định,
không xác định được vị trí, bản chất, lưu lượng và tác nhân gây ô nhiễm.
Nguồn này rất khó để quản lí (ví dụ như nước mưa chảy tràn qua ruộng đồng
đổ vào ao hồ kênh rạch).
10
* Phân loại theo tác nhân gây ô nhiễm thì gồm có tác nhân lớ hoỏ, tác
nhân hoá học, tác nhân sinh học.
* Phân loại theo nguồn gốc phát sinh thì gồm có 4 nguồn nước thải là
nguồn nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nước thải nông nghiệp và
nguồn nước thải tự nhiên. ( Lê Văn Thiện, 2007)[10].
2.1.2.2. Đặc điểm nguồn nước thải công nghiệp.
Hiện nay người ta quan tâm nhiều tới ba nguồn thải chính là nguồn nước
thải bệnh viện, nguồn nước thải công nghiệp và nguồn thải sinh hoạt. Đặc
biệt nguồn nước thải công nghiệp là một thách thức lớn cho hệ thống sông
hồ của nhiều nước trên thế giới và nhất là ở Việt Nam do những đặc tính
độc hại của nó.

Đặc điểm nguồn nước thải công nghiệp chứa nhiều hoá chất độc hại (kim
loại nặng như Hg, As, Pb, Cd…); các chất hữu cơ khú phõn huỷ sinh học
(phenol, dầu mỡ…) các chất hữu cơ dễ phân huỷ sinh học từ cơ sở sản xuất
thực phẩm. Tuy nhiên nước thải công nghiệp không có đặc điểm chung mà
thành phần tính chất tuỳ thuộc vào quá trình sản xuất cũng như quy mô xử lí
nước thải. Nước thải của các cơ sở chế biến lương thực thực phẩm có chứa
nhiều chất phân huỷ sinh học; trong khi nước thải ngành công nghiệp thuộc
da lại chứa nhiều kim loại nặng, sunfua, nước thải ngành sản xuất acquy lại
chứa nồng độ axit và chì cao.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước.
2.2.1. Tình hình khai thác than trên thế giới.
Cho tới nay than đá là nguồn năng lượng chủ yếu của loài người với
tổng trữ lượng trên 700 tỷ tấn, có khả năng đáp ứng nhu cầu con người
khoảng 180 năm. Đặc biệt trong năm 2002, cùng với sự phục hồi của nền
kinh tế, người ta cũng nhận thấy những dấu hiệu tăng trưởng trở lại của ngành
sản xuất muội than trên thế giới mặc dù doanh số của sản phẩm này luôn đạt
ở mức cao trong năm 2000 đã giảm xuống mức thấp nhất trong năm 2001. Sự
phát triển trong tương lai của loại vật liệu này phụ thuộc rất nhiều vào ngành
sản xuất các sản phẩm cao su vì ngành này tiêu thụ nhiều muội than nhất.
11
Theo số liệu của SRL (Viện Nghiên cứu Stanford), năm 2001 công suất
muội than thế giới vào khoảng 8,5 triệu tấn, trong khi đó năm 2000, thị
trường Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản chỉ tiêu thụ có 3,8 triệu tấn muội than.
Khoảng 70% sản lượng muội than của thế giới được sử dụng làm chất gia
cường trong lốp ô tô và các loại xe cộ khác, 20% dùng cho sản xuất các sản
phẩm khác như ống cao su, dây curoa, các sản phẩm cơ khí và đúc, giầy dép.
10% còn lại được sử dụng làm bột màu trong mực in, sơn và chất dẻo. Theo
SRL, tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành sản xuất muội than vào khoảng
1 - 2%/năm, gần giống như sự tăng trưởng của ngành sản xuất các sản phẩm
cao su.

Muội than được sản xuất bằng quá trình oxy hóa một phần các
hyđrocacbon lỏng và khí ở nhiệt độ cao hơn 2000
0
F. Phụ thuộc vào kích
thước hạt, cầu trúc, độ tinh khiết và phương pháp sản xuất, muội than được
phân thành các loại như: muội lò, muội đèn, muội xương và muội axetylen
hay còn gọi là muội nhiệt. Hơn 90% sản lượng muội than thế giới là muội lò,
một vật liệu thương mại. 10% còn lại cú cỏc ứng dụng đặc biệt hoặc có giá
cao hơn muội lò.
Ba nhà sản xuất muội than lớn nhất thế giới là Degussa AG, Đức; Cabot
Corp., Boston (Mỹ) và Columbian Chemicals Co. Ngoài ra cũng còn một số
cơ sở lớn khác như Engineered Carbon Co.; Taiwan - based China Syntheric
Rubber; Tokai Carbon (Nhật Bản); và lndia’s Aitya Biria Group v.v
Nói chung, lợi nhuận mà các nhà sản xuất thu được từ muội than vẫn
tiếp tục còn bị nhiều sức ép. Theo một nhà phân tích thị trường về muội than
thì có thể là trong một vài năm tới, một số nhà sản xuất nhỏ vẫn sẽ phải dừng
sản xuất và doanh số của muội than sẽ tăng trung bình khoảng từ 1 đến 2%
hàng năm.
2.2.2. Tình hình khai thác than ở Việt Nam.
Nước ta ngành công nghiệp than đã ra đời và trải qua quá trình phát triển
hơn 120 năm. Tổng cộng đã khai thác được 278 triệu tấn than sạch. Trong
12
thời Pháp thuộc, từ năm 1883 đến tháng 3/1955 đã khai thác trên 50 triệu tấn
than sạch, đào hàng trăm km đường lũ, búc và đổ thải hàng chục triệu m
3
đất
đá. Từ năm 1995 đến 2001 đã khai thác được gần 228 triệu tấn than sạch, đào
1041km đường lũ; búc và đổ thải 795 triệu m
3
đất đá trên diện tích bãi thải

hàng trăm ha; sử dụng hàng triệu m
3
gỗ chống lò, hàng trăm ngàn tấn thuốc
nổ và hàng triệu tấn nhiên liệu các loại; trong đó, riêng từ năm 1995 đến 2001
(khi Tổng công ty Than Việt Nam được thành lập) đã khai thác 73,4 triệu tấn
than sạch (bằng 26,4% tổng sản lượng toàn ngành khai thác từ trước tới nay),
đào 504,5km đường lũ; búc và đổ thải 237,2 triệu m
3
đất đá (đạt 48,5% tổng
số đường lò và 29,8% tổng khối lượng đất đá của toàn ngành từ năm 1995
đến 2001).
Than ở Việt Nam có 5 loại chính:
- Than antraxit
- Than mỡ
- Than bùn
- Than ngọn lửa dài
- Than nâu.
Than antraxit (than đá)
Trữ lượng than đá được đánh giá là 3,5 tỷ tấn trong đó ở vùng Quảng
Ninh trên 3,3 tỷ tấn (tính đến độ sâu - 300m); còn lại gần 200 triệu tấn là nằm
rải rác ở các tỉnh: Thỏi nguyờn, Hải Dương, Bắc giang,
- Than antraxit Quảng Ninh: than ở Quảng Ninh được phân theo cỏc
vựng và cấp trữ lượng :
- Cấp A+B: 466 triệu tấn, chiếm 14%
- Cấp C1: 1.813 triệu tấn, chiếm 54,5%
- Cấp C2: 1.046 triệu tấn, chiếm 31,5%
Trong đó, cấp A+B/A+B+C1 chỉ chiếm 20,4%, chưa đạt 50%, thể hiện
mức độ tin cậy chưa cao, nhiều khoáng sàng cần phải thăm dò bổ sung trước
khi đầu tư hoặc khai thác.
13

Bể than Quảng Ninh được phát hiện và khai thác rất sớm, đã bắt đầu
cách đây gần 100 năm dưới thời thuộc Pháp. Hiện nay và có lẽ trong tương
lai, sản lượng than khai thác từ các mỏ ở bể than Quảng Ninh chiếm khoảng
90% sản lượng than toàn quốc.Trong địa tầng chứa than của bể than Quảng
Ninh gồm rất nhiều vỉa than:
- Dải phía Bắc (Uụng Bớ-Bảo Đài) có từ 1 đến 15 vỉa, trong đó có 6-8
vỉa có giá trị công nghiệp.
- Dải phía Nam (Hòn Gai, Cẩm Phả) có từ 2 đến 45 vỉa, có giá trị công
nghiệp là 10-15 vỉa.
Phân loại theo chiều dày, của bể than Quang Ninh:
- Vỉa rất mỏng <0,5m chiếm 3,57% tổng trữ lượng.
- Vỉa mỏng: 0,5-1,3m, chiếm 27%
- Vỉa trung bình: 1,3-3,5m chiếm 51,78%
- Vỉa dày >3,5-15m chiếm 16,78%
- Vỉa rất dày >15m chiếm 1,07%.
Tính chất đặc trưng của than Antraxit tại cỏc khoỏng sàng bể than
Quảng Ninh là kiến tạo rất phức tạp, tầng chứa than là những dải hẹp, đứt
quãng dọc theo phương của vỉa, góc dốc của vỉa thay đổi từ dốc thoải đến
dốc đứng (9
o
-51
o
). Các mỏ than có nhiều vỉa, với cấu tạo và chiều dày vỉa
thay đổi đột ngột.
Đối với việc khai thác than ở bể Quảng Ninh trước đây, có thời kỳ sản
lượng lộ thiên đã chiếm đến 80%, tỷ lệ này dần dần đã thay đổi, hiện nay còn
60%, trong tương lai sẽ còn xuống thấp hơn. Vỡ cỏc mỏ lộ thiên lớn đã và sẽ
giảm sản lượng, đến cuối giai đoạn 2015-2020 có mỏ không còn sản lượng;
các mỏ mới lộ thiên lớn sẽ không có, nếu có là một số mỏ sản lượng dưới 0,5-
1 triệu tấn/năm. Tỷ lệ sản lượng than hầm lò tăng, nói lên điều kiện khai thác

khó khăn tăng, chi phí đầu tư xây dựng và khai thác tăng, dẫn tới giá thành
sản xuất tăng cao. Cho nên, tuy trữ lượng địa chất của bể than Quảng Ninh là
trên 3 tỷ tấn, nhưng trữ lượng kinh tế là 1,2 tỷ tấn và trữ lượng công nghiệp
14
đưa vào quy hoạch xây dựng giai đoạn từ nay đến 2010-2020 mới ở mức 500-
600 triệu tấn. Mức độ khai thác xuống sâu là -150m. Còn từ -150m đến
-300m, cần phải tiến hành thăm dò địa chất, nếu kết quả thăm dò thuận lợi,
thiết bị và công nghệ khai thác tiên tiến, việc đầu tư cho mức dưới -150m sẽ
được xem xét vào sau năm 2020.
Do đó, đối với than Antraxit Quảng Ninh, để đảm bảo khai thác bền
vững, thì sản lượng khai thác tối đa hợp lý cũng chỉ nên là 15 triệu tấn/năm ở
giai đoạn 2010-2015.
- Than antraxit ở cỏc vựng khỏc.
Có nhiều trữ lượng than đá antraxit khác nằm rải rác ở các tỉnh: Hải
Dương, Bắc Giang, Thỏi Nguyờn, Sơn La, Quảng Nam, với trữ lượng từ vài
trăm nghìn tấn đến vài chục triệu tấn. ở các nơi này, quy mô khai thác thường
từ vài nghìn tấn đến 100-200 nghìn tấn/năm. Tổng sản lượng hiện nay không
quá 200 nghìn tấn.
Than mỡ
Trữ lượng tiềm năng được đánh giá sơ bộ là 27 triệu tấn, trong đó trữ
lượng địa chất là 17,6 triệu tấn, chủ yếu tập trung ở 2 mỏ Làng Cẩm (Thỏi
Nguyờn) và mỏ Khe Bố (Nghệ An). Ngoài ra, than mỡ cũn cú ở các tỉnh: Sơn
La, Lai Châu, Hoà Bình song với trữ lượng nhỏ.
Than mỡ được dùng chủ yếu cho ngành luyện kim với nhu cầu rất lớn
sau năm 2000, nhưng trữ lượng than mỡ ở ta lại rất ít, điều kiện khai thác rất
khó khăn. Sản lượng than mỡ khó có khả năng cao hơn 0,2-0,3 triệu tấn/năm,
trong khi nhu cầu sẽ tăng đến 5-6 triệu tấn/năm vào giai đoạn 2010-2020.
Than bùn
Than bùn ở Việt Nam nằm rải rác từ Bắc đến Nam, nhưng chủ yếu tập
trung ở đồng bằng sông Cửu Long (với hai mỏ than lớn là U-Minh-Thượng

và U-Minh-Hạ).
Cụ thể: - Đồng bằng Bắc Bộ: 1.650 triệu m
3
15
- Ven biển Miền Trung: 490 triệu.m
3
- Đồng bằng Nam Bộ: 5.000 triệu.m
3
Trước đây vùng đồng bằng Nam Bộ được đánh giá có trữ lượng là 1 tỷ
tấn và còn cao hơn nữa. Nhưng nạn cháy rừng đó phỏ huỷ đi rất nhiều trữ
lượng than.
Từ trước tới nay than bùn được khai thác chủ yếu dùng làm chất đốt sinh
hoạt (pha trộn với than antraxit của Quảng Ninh) và làm phân bón ruộng với
quy mô nhỏ, khai thác thủ công là chính, sản lượng khai thác hiện nay được
đánh giá là chưa đến 10 vạn tấn/năm. Khai thác than bùn làm chất đốt hay
làm phân bón đều không có hiệu quả cao, mặt khác việc khai thác than sẽ ảnh
hưởng đến môi trường, môi sinh trong vùng, nhất là ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long. Bờn cạnh đó điều kiện khai thác, vận chuyển tiêu thụ, chế biến sử
dụng than bùn cũng gặp không ít khó khăn.
Than ngọn lửa dài
Chủ yếu tập trung ở mỏ Na Dương (Lạng Sơn), với trữ lượng địa chất
trên 100 triệu tấn. Hiện nay khai thác được thực hiện bằng phương pháp lộ
thiên, than khai thác chủ yếu phục vụ sản xuất xi măng ở Hải Phòng và Bỉm
Sơn với sản lượng trên dưới 100 nghìn tấn/năm. Nhưng do nhà máy Xi măng
Hải Phòng sẽ ngừng hoạt động, nhà máy xi măng Bỉm Sơn được cải tạo với
công nghệ mới, nên không dùng than Na dương từ 1999 trở đi. Than Na
dương là loại than có hàm lượng lưu huỳnh cao, có tính tự chỏy, nờn việc
khai thác, vận chuyển, chế biến sử dụng rất khó khăn và hạn chế. Do đó,
Tổng Công ty Than Việt Nam đang nghiên cứu hợp tác với nước ngoài xây
dựng nhà máy điện trong vùng mỏ, để sử dụng loại than này. Vì nếu không

khai thác, than sẽ tự cháy và phá huỷ nguồn tài nguyên đồng thời gây tác
động xấu hơn đến môi trường.
16
Than nâu
Tập trung chủ yếu ở đồng bằng Bắc Bộ, trữ lượng dự báo 100 tỷ tấn.
Theo đánh giá sơ bộ, than có chất lượng tốt, có thể sử dụng cho sản xuất điện,
xi măng và công nghiệp hoá học. Nhưng để có thể khai thác được, cần tiến
hành thăm dò ở khu vực Bình Minh - Khoái Châu Hưng Yờn, để đánh giá
một cách chính xác trữ lượng, chất lượng than, điều kiện kiến tạo của vỉa
than, nghiên cứu công nghệ khai thác thiết kế. Nói chung việc khai thác than
này rất khó khăn về mặt địa hình, dân cư trong vùng và về phương pháp khai
thác v.v Theo đánh giá của một số nhà nghiên cứu địa chất và khai thác, đối
với than nâu ở đồng bằng sông Hồng thì có thể đưa vào đầu tư xây dựng mỏ
và khai thác từ 2015-2020 trở đi.
Hiện nay, hàng năm ngành than khai thác mỗi năm trên13-14 triệu tấn
than sạch, đào bình quân trên 100km đường lũ, búc và đổ thải trên 50 triệu m
3
đất đá, sử dụng trên 160 ngàn m
3
gỗ, khoảng 15 ngàn tấn thuốc nổ và hàng
chục ngàn tấn nhiên liệu các loại.
Công nghệ, thiết bị khai thác và sàng tuyển than ở hầu hết các đơn vị
đều rất lạc hậu, thậm chí quá cũ, tiêu tốn nhiều nguyờn, nhiờn, vật liệu và có
lượng chất thải cao; đòi hỏi phải được đầu tư đổi mới không những để tăng
năng suất, hiệu quả mà còn để giảm ô nhiễm môi trường; trong khi đó sản
xuất than có hiệu quả thấp, chủ yếu do trên thị trường trong nước giá than còn
được chấp nhận thấp, lượng tiêu thụ chưa cao.
Các cơ sở sản xuất than hiện có tập trung chủ yếu ở ven bờ Vịnh Hạ
Long và Bái Tử Long và số còn lại tập trung ở vùng rừng nỳi. Cỏc khu dân
cư của công nhân mỏ phần lớn ở gần các mỏ, các nhà máy sàng tuyển và các

cơ sở phục vụ sản xuất than. Việc khai thác than ảnh hưởng rất lớn đến sông,
suối, hồ chứa nước, biển (2 vịnh nói trên), rừng, các khu dân cư và một số
thành thị vùng mỏ.( Đoàn Minh Huệ, 2008 )[3].
17
2.2.3. Hiện trạng ô nhiễm môi trường nước Việt Nam
Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá khá nhanh và sự gia tăng dân số
gây áp lực ngày càng nặng nề đối với tài nguyên nước trong vùng lãnh thổ.
Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu công nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô
nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn. Ở các thành phố lớn, hàng trăm
cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do không có
công trình và thiết bị xử lý chất thải. Ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp
là rất nặng. Ví dụ: ở ngành công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và
bột giấy, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ô xy
sinh hoá (BOD), nhu cầu ô xy hoá học (COD) có thể lên đến 700mg/1 và
2.500mg/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng cao gấp nhiều lần giới hạn cho
phép. Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN
-
) vượt
đến 84 lần, H
2
S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH
3
vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép
nờn đó gõy ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong vùng dân cư. Mức độ
ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp tập
trung là rất lớn. Tại cụm công nghiệp Tham Lương, thành phố Hồ Chí Minh,
nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổng lượng nước thải
ước tính 500.000 m
3
/ngày từ các nhà máy giấy, bột giặt, nhuộm, dệt. Ở thành

phố Thỏi Nguyờn, nước thải công nghiệp thải ra từ các cơ sở sản xuất giấy,
luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than; về mùa cạn tổng lượng nước
thải khu vực thành phố Thỏi Nguyờn chiếm khoảng 15% lưu lượng sông Cầu;
nước thải từ sản xuất giấy có pH từ 8,4-9 và hàm lượng NH
4
+
là 4mg/1, hàm
lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mựi khú chịu… Khảo sát một
số làng nghề sắt thép, đúc đồng, nhụm, chỡ, giấy, dệt nhuộm ở Bắc Ninh cho
thấy có lượng nước thải hàng ngàn m
3
/ngày không qua xử lý, gây ô nhiễm
nguồn nước và môi trường trong khu vực.
Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh. ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt không có
18
hệ thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh,
mương). Mặt khác, còn rất nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải, phần
lớn các bệnh viện và cơ sở y tế lớn chưa có hệ thống xử lý nước thải; một
lượng rác thải rắn lớn trong thành phố không thu gom hết được… là những
nguồn quan trọng gây ra ô nhiễm nước. Hiện nay, mức độ ô nhiễm trong cỏc
kờnh, sụng, hồ ở các thành phố lớn là rất nặng. Ở thành phố Hà Nội, tổng
lượng nước thải của thành phố lên tới 300.000 - 400.000 m
3
/ngày; hiện mới
chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải, chiếm 25% lượng nước
thải bệnh viện; 36/400 cơ sở sản xuất có xử lý nước thải; lượng rác thải sinh
hoại chưa được thu gom khoảng 1.200m
3
/ngày đang xả vào các khu đất ven

các hồ, kênh, mương trong nội thành; chỉ số BOD, oxy hoà tan, các chất NH
4
,
NO
2
, NO
3
ở cỏc sụng, hồ, mương nội thành đều vượt quá quy định cho phép ở
thành phố Hồ Chí Minh thì lượng rác thải lên tới gần 4.000 tấn/ngày; chỉ có
24/142 cơ sở y tế lớn là có xử lý nước thải; khoảng 3.000 cơ sở sản xuất gây ô
nhiễm thuộc diện phải di dời. Không chỉ ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh
mà ở các đô thị khác như Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định, Hải
Dương… nước thải sinh hoạt cũng không được xử lý độ ô nhiễm nguồn nước
nơi tiếp nhận nước thải đều vượt quá tiểu chuẩn cho phép (TCCP), các thông
số chất lơ lửng (SS), BOD; COD; Ô xy hoà tan (DO) đều vượt từ 5-10 lần,
thậm chí 20 lần TCCP. ( Cục Bảo vệ môi trường, 2006 ) [1].
Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông
nghiệp, hiện nay Việt Nam có gần 76% dân số đang sinh sống ở nông thôn là
nơi cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc
không được xử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô
nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo báo cáo
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số vi khuẩn Feca coliform trung
bình biến đổi từ 1.500-3.500MNP/100ml ở các vùng ven sông Tiền và sông
Hậu, tăng lên tới 3800-12.500MNP/100 ml ở cỏc kờnh tưới tiêu. Trong sản
19
xuất nông nghiệp, do lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, các nguồn
nước ở sông, hồ, kênh, mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến môi trường
nước và sức khoẻ nhân dân. Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, tổng diện tích
mặt nước sử dụng cho nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2001 của cả nước là
751.999 ha. Do nuôi trồng thuỷ sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo

quy trình kỹ thuật nờn đó gõy nhiều tác động tiêu cực tới môi trường nước.
Cùng với việc sử dụng nhiều và không đúng cỏch cỏc loại hoá chất trong nuôi
trồng thuỷ sản, thỡ cỏc thức ăn dư lắng xuống đáy ao, hồ, lòng sông làm cho
môi trường nước bị ô nhiễm các chất hữu cơ, làm phát triển một số loài sinh
vật gây bệnh và xuất hiện một số tảo độc; thậm chí đã có dấu hiệu xuất hiện
thuỷ triều đỏ ở một số vùng ven biển Việt Nam.
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô
nhiễm môi trường nước, như sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu: nhận thức của người
dân về vấn đề môi trường còn chưa cao… Đáng chú ý là sự bất cập trong hoạt
động quản lý, BVMT. Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản lý,
tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước chưa
sâu sắc và đầy đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường nước là loại ô nhiễm gây
nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống con người
cũng như sự phát triển bền vững của đất nước. Các quy định về quản lý và
bảo vệ môi trường nước còn thiếu (chẳng hạn như chưa có các quy định và
quy trình kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý và bảo vệ nguồn nước). Cơ
chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành và địa phương chưa
đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng. Chưa có chiến
lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo lưu vực và
cỏc vựng lãnh thổ lớn. Chưa có các quy định hợp lý trong việc đóng góp tài
chính để quản lý và bảo vệ môi trường nước, gây nên tình trạng thiếu hụt tài
chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường nước.
20
Ngân sách đầu tư cho bảo vệ môi trường nước còn rất thấp (một số nước
ASEAN đã đầu tư ngân sách cho BVMT là 1% GDP, còn ở Việt Nam mới chỉ
đạt 0,1%). Các chương trình giáo dục cộng đồng về môi trường nói chung và
môi trường nước nói riêng cũn quỏ ớt. Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường
nước còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng (Hiện nay ở Việt Nam trung
bỡnh cú khoảng 3 cán bộ quản lý môi trường/1 triệu dân, trong khi đó ở một

số nước ASEAN trung bình là 70 người/1 triệu dân)
2.2.4. ễ nhiễm môi trường nước ở một số vùng khai thác khoáng sản của
Việt Nam
Khai thác khoáng sản hiện nay đã và đang gây ra những tác hại nguy
hiểm tới môi trường nước của các địa phương. Bình Định đang trên đà phát
triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá - hiện đại hoá tỉnh nhà với tốc độ cao.
Khai thác đá granit: hiện nay tại tỉnh có nhiều đơn vị tham gia khai thác đá
tảng lăn tại thành phố Quy Nhơn, An Nhơn, Phù Mỹ năng lực vốn đầu tư,
công nghệ khai thác ở quy mô nhỏ, lạc hậu, phương pháp khai thác thủ công
kiểu “đào bới thu gom”, khai thác đá tảng lăn thường mang tính nhất thời,
không theo trình tự và quy hoạch. Tình trạng khai thác trờn đó gây ảnh hưởng
môi trường nghiêm trọng: làm mất vẻ mỹ quan, xói mòn, sa bồi; tăng độ đục
và hàm lượng kim loại nặng trong nguồn nước mặt. Điều quan trọng hơn là
với việc khai thác trờn đó gõy tổn thất tài nguyên lớn (từ 20 – 60%) suy thoái
môi trường. Tình trạng đào bới, thu gom tài nguyên khoáng sản bừa bãi dưới
danh nghĩa “tận thu” đang là nguyên nhân của sự xói mòn, bồi lấp ở các khu
vực có tài nguyên khoáng sản và vùng hạ lưu.
Ở khu mỏ thiếc Sơn Dương (Tuyên Quang), tổng lượng nước thải công
nghiệp gồm bùn cát và nước khoảng 2.000 m
3
/ngày được xả ra các đập lắng
với tổng dung tích > 74.000m
3
. Các đập lắng nước này đã làm tăng đáng kể
diện tích mặt nước, thay đổi chế độ thủy văn của suối. Sau một thời gian đổ
thải, hầu hết các hồ và nhiều đoạn suối đã bị lấp đầy bựn, cỏt. Đỏy hồ cao hơn
21
cốt cao tự nhiên từ 5 - 10m làm thay đổi dung tích, lưu lượng và hướng dòng
chảy tự nhiên. Các hồ và suối trước đây là nguồn nước sản xuất nông nghiệp,
hiện nay hoàn toàn không thể sử dụng được.

Bảng 2.2. Một số kết quả phân tích nước ở vùng mỏ thiếc Sơn Dương (mg/l)
TT Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Suối Ngòi Lẹm
(Bắc Lũng)
Nước giếng ở
Đại Từ
1. pH - 7,7 6,1
2. SS mg/l 260 -
3. Fe tổng số mg/l 13,0 8,4
4. Pb mg/l 0,14 0,19
5. Zn mg/l 0,005 0,16
6. Cu mg/l 1,58 0,002
(Nguồn: Sở TN&MT Thỏi Nguyờn, 2009) [14]
Ở các mỏ thiếc, đá quý ở miền Tây Nghệ An, do quá trình đào bới và đổ
thải, các khe Bản Sỏi, Khe Mồng, Tổng Huống - là nguồn cấp nước cho nông
nghiệp của khu vực, bị xói lở bờ, bồi lấp dòng chảy, đổi dòng, giảm khả năng
tưới từ đó gây ra giảm vụ, giảm năng suất cây trồng. Khe Nậm Tôn bị đục và
ô nhiễm trên chiều dài hơn 20 km. Khai thác đá quý ở Quỡ Chõu đó làm một
số suối và công trình thủy lợi bị phá hủy, các hố khai thác sâu là nơi tích tụ
chất thải làm ô nhiễm nguồn nước.
Ở Cổ Định - Thanh Hóa, trước khi khai thác quặng Crụmit, vựng này có
trữ lượng nước mặt tương đối lớn (sụng Lờ, cỏc suối, các hồ, ). Hiện nay,
diện mạo mạng lưới thủy văn của khu vực thay đổi hẳn: Các hồ, suối tự nhiên
bị bồi lấp, làm giảm đáng kể khả năng tiờu thoỏt lũ của khu vực, nhiều moong
khai thác quặng trở thành hồ nước mặt. Tình trạng khai thác, đổ thải bừa bãi
và quá tải đã gây ra sự cố vỡ đê bãi thải năm 1993, làm cho chất thải rắn là
bựn, cỏt từ bãi thải tràn ra ngoài, bồi lấp một một vùng rộng lớn hàng chục
hecta đất canh tác, làm ô nhiễm đất và nguồn nước nông nghiệp, thiệt hại ước

tính hàng trăm triệu đồng. ( Sở TN & MT Thỏi Nguyờn, 2009 )[14].
22
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Phạm vi, đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu.
3.1.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Môi trường nước tại thị trấn Giang Tiờn, Phỳ Lương, Thỏi Nguyờn.
- Phạm vi: Thị trấn Giang Tiờn, Phỳ Lương, Thỏi Nguyờn.
3.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: Thị trấn Giang Tiờn, Phỳ Lương, Thỏi Nguyờn.
- Thời gian: tháng 1/2009 đến tháng 5/2009.
3.2. Nội dung nghiên cứu
3.2.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội thị trấn Giang Tiên.
3.2.2. Khái quát về mỏ than Phấn Mễ; chất lượng, trữ lượng và công nghệ
khai thác than của Mỏ
3.2.3. Chất lượng nước trên địa bàn Thị trấn Giang Tiên.
3.2.4. Tác động của hoạt động khai thác than tới môi trường nước thị trấn
Giang Tiờn, Phỳ Lương, Thỏi Nguyờn
3.2.5. Ý kiến người dân về ảnh hưởng của hoạt động khai thác than đến
môi trường nước thị trấn Giang Tiên.
3.2.6. Một số định hướng và giải pháp khắc phục và giảm thiểu ô nhiễm
môi trường nước tại thị trấn Giang Tiên
3.3. Phương pháp nghiên cứu
* Nghiờn cứu các văn bản pháp luật, văn bản dưới luật đối với cơ sở
khai thác than.
* Phương pháp kế thừa sử dụng tài liệu thứ cấp:
- Tài liệu về tự nhiên kinh tế - xã hội (Nguồn: phòng TN&MT huyện
Phú Lương, UBND thị trấn Giang Tiên ).
23
- Tài liệu, số liệu về hoạt động của mỏ than Phấn Mễ, các báo cáo môi

trường của mỏ than Phấn Mễ (Nguồn: phòng hành chính, cơ điện, kĩ thuật
công nghệ …thuộc mỏ than Phấn Mễ ).
* Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp
Điều tra những ảnh hưởng của khai thác than của mỏ than Phấn Mễ tới
môi trường nước thị trấn Giang Tiên.
- Số hộ điều tra là 50 hộ.
- Cách chọn hộ điều tra là ngẫu nhiên
* Điều tra khảo sát thực địa.
* Phương pháp lấy mẫu
- Lấy các mẫu nước tại các vị trí khác nhau trên địa bàn thị trấn Giang
Tiên và tiến hành phân tích mẫu.
- Phương pháp lấy: Lượng nước được lấy chung cho các phép phân tích
trong phòng thí nghiệm là 2lit/ mẫu. Mẫu nước được đựng trong chai lọ sạch.
Các mẫu được cố định, bảo quản trước khi vận chuyển về phòng thí nghiệm
theo đúng các tiêu chuẩn ban hành (TCVN ).
- Chỉ tiêu phân tích và phương pháp phân tích:
+ Các chỉ tiêu pH, DO được đo bằng thiết bị đo đạc chất lượng nước
trên diện rộng nhằm tránh sai số trong quá trình bảo quản mẫu.
+ Các kim loại nặng (Zn, Cu, Pb…) được phân tích bằng phương pháp
cực phổ và phổ hấp phụ nguyên tử (ASS).
+ Các chỉ tiêu khác như BOD, COD, tổng P và các chỉ tiêu sinh húa
khỏc được phân tích bằng phương pháp so màu, chuẩn độ, định lượng theo
tiêu chuẩn cho phép.
* Phương pháp xử lí số liệu.
- Trên cơ sở những tài liệu thu thập được ta tiến hành phân tích, chọn
lọc, tổng hợp nên những số liệu cần thiết, hợp lí có cơ sở khoa học.
* Phương pháp đối chiếu với tiêu chuẩn Việt Nam.
So sánh kết quả phân tích các mẫu nước được lấy để nghiên cứu với
TCVN nhằm đánh giá hàm lượng các chất ô nhiễm trong nước và mức độ ảnh
24

hưởng của chúng đến chất lượng nguồn nước trong khu vực thị trấn Giang
Tiên. Cụ thể:
- So sánh với TCVN 5945- 2005 ở mức B, để đánh giá chất lượng nước
thải công nghiệp.
- So sánh với TCVN TCVN 6772- 2000 mức I và TCVN 5945- 2005
mức B để đánh giá chất lượng nước thải sinh hoạt.
- So sánh với TCVN 5942- 1995 để đánh giá chất lượng nước mặt.
- So sánh với TCVN 5944- 1995 để đánh giá chất lượng nước ngầm.
* Phương pháp so sánh
So sánh giữa kết quả thu được với thực tế (ý kiến người dân ), từ đó rút
ra được những kết luận về các tác động của khai thác than tới môi trường
nước. Qua đó ta có thể đề suất ra những giải pháp hợp lí.
25

×