Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

luận văn tài nguyên môi trường TÁC ĐỘNG CỦA ĐẬP THỦY ĐIỆN TRÊN SÔNG MÊKONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.05 KB, 47 trang )

BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
CỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN
Nâng cao vai trò và sự tham gia của cộng đồng trong bảo vệ môi trường
thông qua tăng cường công tác phổ biến thông tin môi trường cho cộng đồng
Các tác giả:
Dương Thị Tơ, Cục Bảo vệ Môi trường
Tô Kim Oanh, Cục Bảo vệ Môi trường
Hà Nội, 12/2003
MỤC LỤC
I.1. Giới thiệu chung……………………………………………………………………3
I.2. Cơ sở lý thuyết…………………………………………………………………… 4
I.3. Học thuyết Kuznets………………………………………………………………….4
I.4. Tính toán chi phí - lợi ích cho việc đưa ra các quyết định kiểm soát ô nhiễm của các
cơ quan quản lý bảo vệ môi trường…………………………………………………5
I.5. Lý thuyết về mô hình ‘tam giác’ (delta) trong quản lý môi trường - cơ sở cho việc
huy động cộng đồng tham gia quản lý môi trường thông qua phổ biến thông tin môi
trường……………………………………………………………………………… 6
I.6. Bài học kinh nghiệm của một số nước trên thế giới…………………………… 8
I.7. Chương trình điều tra các chất thải độc hại của Mỹ (Chương trình TRI)………… 8
I.8. Cộng đồng các nước thuộc khối OECD và công ước Aarhus…………………… 10
I.9. Các chương trình phổ biến thông tin môi trường của Trung Quốc……………… 11
I.10. Các chương trình phổ biến thông tin môi trường ở các nước ASEAN…………….15
II. Triển khai công tác huy động cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường và phổ
biến thông tin môi trường ở Việt Nam………………………………………….18
II.1. Những yếu tố thuận lợi có thể hỗ trợ và thúc đẩy công tác huy động cộng đồng tham
gia bảo vệ môi trường và phổ biến thông tin môi trường cho cộng đồng……18
II.2. Thực thi các chương trình phổ biến thông tin môi trường cho cộng đồng ở Việt
Nam……………………………………………………………………………… 19
II.2.1. Chương trình thử nghiệm phổ biến thông tin môi trường cho cộng đồng ở Hà
Nội (2001-2002)


……………………………………………………………………….20
II.2.2. Chương trình giảm thiểu ô nhiễm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở thành
phố Hồ Chí Minh (1994-2000)…………………………………………………………
38
II.2.3. Chương trình xã hội hoá thông tin môi trường tại Hải phòng (10/2001-2/2002)
….42
II.3. Kết luận và kiến nghị…………………………………………………………… 45
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………………… 46
Phần phụ lục
Phụ lục 1: Bảng xếp hạng các cơ sở tham gia chương trình thử nghiệm ở Hà Nội…… 47
Phụ lục 2: Một số hình ảnh về chương trình thử nghiệm ở Hà Nội…………………… 49
Phụ lục 3: Giới thiệu về “Sách xanh 2001-2002” của thành phố Hồ Chí Minh”……… 50
2
I. GIỚI THIỆU CHUNG
Kể từ những thập kỷ cuối của thế kỷ 20, cùng với sự phát triển nhanh chóng
và vượt bậc cả về kinh tế, xã hội và khoa học kỹ thuật ở trên thế giới, các vấn đề về
ô nhiễm môi trường cũng đã nảy sinh và cũng ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Ngày nay, gần như mọi quốc gia trên hành tinh dù là giàu hay nghèo, là nước phát
triển, đang phát triển hay là kém phát triển thì cũng đều đã nhận thức rõ được vai
trò và tầm quan trọng của việc phòng ngừa ô nhiễm và bảo vệ môi trường. Việc giải
quyết các vấn đề môi trường ngày càng được nhận thức rõ rằng không phải là vấn
đề của riêng một quốc gia hay một nhóm hưởng lợi nào mà là vấn đề của toàn thể
nhân loại và đòi hỏi trách nhiệm và sự tham gia của từng cá nhân sinh sống trên
hành tinh này. Chính vì vậy mà công tác huy động sự tham gia của các cộng đồng
trong mọi hoạt động bảo vệ môi trường và phát triển bền vững cũng ngày càng
được nhiều chính phủ quan tâm và tăng cường.
Tuy nhiên, do việc hiểu biết về các vấn đề môi trường của công chúng ở rất
nhiều trình độ và cấp độ khác nhau, nên để họ tham gia một cách tích cực và có khả
năng đem lại những hiệu quả rõ rệt nhất thì các chính phủ cần phải tập trung các nỗ
lực để giải quyết vấn đề quan trọng là làm thế nào để người dân hiểu biết chính xác

và cẵn kẽ những vấn đề môi trường diễn ra xung quanh họ và trang bị cho họ những
kỹ năng thiết yếu nhất để có thể tham gia hiệu quả nhất trong các chương trình và
mục tiêu bảo vệ môi trường chung.
Chìa khoá cho việc huy động công chúng tham gia tích cực và hữu hiệu
trong các hoạt động quản lý bảo vệ môi trường chính là ‘cung cấp và phổ biến cho
cộng đồng thông tin về các vấn đề môi trường ở ngay chính nơi mà họ sinh sống.
Quan điểm và cách tiếp cận mới này hiện đã được thử nghiệm ở rất nhiều nước
khác nhau trên toàn thế giới, bao gồm cả những nước có nền kinh tế rất phát triển
như Mỹ, Hà Lan, Đức, các nước Tây Âu, những nước đang phát triển với tốc độ
nhanh chóng như Trung Quốc, Ấn Độ, các nước châu Mỹ La tinh, v.v và đã thu
được những thành công nhất định.
Trong một vài năm gần đây, cùng với sự phát triển nhanh chóng của công
nghệ thông tin thì một xu thế mới về ứng dụng những thành tựu của công nghệ
thông tin trong các công tác quản lý bảo vệ môi trường cũng đã xuất hiện ở nhiều
nước trên thế giới và ngày càng được phổ biến rộng rãi hơn.
Với mục tiêu cung cấp một nghiên cứu tổng quan về thực tế phát triển những
xu thế mới trên trong công tác quản lý bảo vệ môi trường, báo cáo tổng quan này
giới thiệu một cách sơ lược một vài cơ sở lý thuyết chính yếu nhất và mô tả kinh
nghiệm triển khai áp dụng các cách tiếp cận mới về sử dụng phổ biến thông tin môi
trường cho cộng đồng như công cụ hỗ trợ tích cực cho hoạt động quản lý nhà nước
về bảo vệ môi trường ở một vài nước trên thế giới. Với mỗi ví dụ cụ thể, nhóm tác
giả cũng cố gắng phân tích và chỉ ra một vài bài học kinh nghiệm cụ thể. Đặc biệt
nhất, báo cáo tổng quan này cung cấp một bức tranh tổng thể về tiến trình áp dụng
cách tiếp cận mới này ở Việt Nam thông qua các hoạt động của chương trình thử
nghiệm phổ biến thông tin môi trường cho cộng đồng của Hà Nội trong khuôn khổ
3
dự án “Tăng cường năng lực thể chế quản lý thông tin môi trường” do Ngân hàng
Thế giới tài trợ cho Chính phủ Việt Nam trong thời gian 2000-2002. Bên cạnh đó
cũng có mô tả một vài chương trình thử nghiệm khác nữa ở Hải Phòng và thành phố
Hồ Chí Minh. Với mỗi chương trình, đều có nêu rõ các mục tiêu, những hoạt động

chính, những điểm khó khăn và thuận lợi và những mặt còn hạn chế, tồn tại sau một
thời gian thử nghiệm cách tiếp cận mới này. Ở phần cuối của báo cáo, cũng đã nêu
một số kết luận và kiến nghị chung nhất để giúp tiếp tục vàmở rộng quy mô triển
khai các chương trình thử nghiệm này ở Việt Nam.
Cùng với việc ban hành Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 22 tháng 4 năm 2004 về việc phê duyệt “Kế hoạch xử lý triệt để
các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng”, hy vọng rằng báo cáo tổng quan
này sẽ góp một phần rất nhỏ bé trong việc cung cấp những thông tin tham khảo
giúp triển khai một trong những giải pháp cơ bản để hiện thực hoá các mục tiêu của
kế hoạch này. Đó là “Đẩy mạnh công tác giáo dục và truyền thông trên các phương
tiện thông tin đại chúng về việc triển khai thực hiện Kế hoạch. Động viên, khuyến
khích mọi người dân và từng cộng đồng dân cư chủ động và tích cực tham gia vào
việc phòng ngừa, xử lý ô nhiễm và khắc phục suy thoái môi trường”.
I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Học thuyết Kuznets
Cách đây vài thế hệ, nhà kinh tế học người Mỹ Simon Kuznets đã nhận ra
rằng sự bất bình đẳng về thu nhập thường do phát triển gây ra và chỉ giảm sau khi
tích luỹ các khoản hoàn lại do tăng trưởng. Tương tự như vậy, một số nhà nghiên
cứu đã đưa ra đường cong môi trường Kuznets, trên đó mô tả mức độ ô nhiễm từ
công nghiệp, phương tiện vận tải chạy bằng động cơ và các hộ gia đình sẽ tăng cho
đến khi phát triển đạt đến ‘mức đủ’ để tạo ra các khoản phúc lợi dành cho việc thực
hiện kiểm soát ô nhiễm. Tuy nhiên, việc xác định ‘mức đủ’ thì trong thực tế quả thật
là không dễ dàng chút nào bởi vì đối với mỗi nước khác nhau, tiến trình phát triển
hoàn toàn khác nhau do những điều kiện về văn hoá, xã hội và tự nhiên không hề
giống nhau.
Thực tế phát triển của một số nước đang phát triển trong những thập niên
cuối của thế kỷ trước cho đến nay đã cho thấy học thuyết này ít có ý nghĩa thực tiễn,
hay có thể nói là không hề đúng trong trường hợp phát triển của một số quốc gia
đông dân đang phát triển ở châu Á như Trung Quốc, Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan
và Việt Nam hay các quốc gia ở châu Mỹ La Tinh như Braxin, Mêhicô, v.v.

Ví dụ như ở Trung Quốc chẳng hạn, nếu theo học thuyết Kuznets thì với tình
hình phát triển như trong giai đoạn vài thập niên cuối thế kỷ 20, chắc chắn một
nước nghèo và đông dân như Trung Quốc sẽ có mức ô nhiễm tăng rất nhanh. Song
may mắn thay, các số liệu trong năm 2000 cho thấy rằng chất lượng không khí
trung bình ở các khu đô thị của Trung Quốc không thay đổi mấy hoặc là được cải
thiện hơn so với thời kỳ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ trước.
4
2.2. Tính toán chi phí lợi ích cho việc đưa ra các quyết định kiểm soát ô nhiễm
của các cơ quan quản lý bảo vệ môi trường
Những hiểu biết và kinh nghiệm thông thường, như học thuyết Kuznets
chẳng hạn thường cho rằng không thể giải quyết được tình trạng ô nhiễm ở các
nước đang phát triển cho đến tận khi các nước này cũng đạt được mức độ giàu có
như các nước phát triển hiện nay. Thực tế mở rộng thương mại toàn cầu và mở cửa
biên giới, một xu thế khuyến khích các ngành công nghiệp gây ô nhiễm chuyển từ
các nước phát triển giàu có sang các nước nghèo đang trong giai đoạn vươn lên với
hy vọng phát triển một cách nhanh chóng dựa vào công nghiệp hoá đất nước, dường
như phần nào khẳng định quan điểm ‘bi quan’ này. Nhưng may mắn thay, trong
những thập niên gần đây, cùng với sự biến chuyển sâu sắc về nhận thức, các nước
nghèo đang phát triển cũng đã phần nào thấy rõ rằng chi phí cho việc ‘giảm thiểu ô
nhiễm’ cũng có khả năng đem lại những lợi ích to lớn hơn nhiều so với chi phí đã
bỏ ra. Ở nhiều quốc gia đang phát triển khác nhau, các nhà quản lý môi trường đã
không ngừng thử nghiệm những phương pháp mới và tìm những đồng minh mới
trên mặt trận ‘phòng chống ô nhiễm’ và bảo vệ môi trường. Một trong những xu thế
mới đó là việc áp dụng các phương pháp quản lý truyền thống nhưng có tính đến
các yếu tố về chi phí - lợi ích để khuyến khích các cơ sở gây ô nhiễm thay đổi hành
vi.
Hình 1: Chi phí và lợi ích của việc giảm ô nhiễm
Hình 1 mô tả mối quan hệ giữa chi phí giảm thiểu ô nhiễm và những lợi ích mà xã
hội có thể thu được từ việc đầu tư cho giảm thiểu ô nhiễm dựa trên tính toán những
thiệt hại về mặt xã hội có thể tránh được khi áp dụng những biện pháp đầu tư giảm

thiểu ô nhiễm đó. Đường kẻ xiên từ dưới lên (một nét đậm và một nét nhạt) cho
thấy là cứ mỗi một đơn vị ô nhiễm tăng lên sẽ tạo nên mức độ thiệt hại lớn hơn so
với đơn vị ô nhiễm trước đó gây ra. Đường kẻ xiên từ trên xuống (nét đơn) cho thấy
là đòi hỏi giảm thiểu ô nhiễm càng cao tương đương với mức chi phí càng cao hơn.
Dựa vào đồ thị này, các nhà quản lý có thể đưa ra những quyết định hợp lý nhằm
lựa chọn các phương án quản lý tối ưu nhất. Theo đó thì, tại điểm giao nhau của hai
đường sẽ là phương án lựa chọn tối ưu nhất (nghĩa là ô nhiễm có thể tăng hay giảm
chút ít trong khuôn khổ cho phép thì vẫn không ảnh hưởng đến phúc lợi xã hội
5
Phí ô
nhiễm
tối ưu
Ô nhiễm
tối ưu
Thiệt hại biên xã hội (MSD)
Ô nhiễm
Chi phí ($)
Chi phí biên giảm ô nhiễm (MAC)
Xã hội được lợi ít hơn từ
việc đầu tư cho kiểm soát
ô nhiễm (MAC>MSD)
Xã hội được lợi nhiều hơn từ
việc đầu tư cho kiểm soát ô
nhiễm (MAC<MSD)
chung). Nếu các nhà quản lý nhằm mục tiêu kiểm soát ô nhiễm vào điểm đánh dấu
bằng ô vuông thứ ba (từ trái qua phải) khi mà mức chi phí giảm ô nhiễm thấp hơn
rất nhiều so với mức thiệt hại biên thì có nghĩa là chi phí cho việc kiểm soát ô
nhiễm nhằm kiểm soát các mức thiệt hại xã hội có thể sẽ có lợi hơn nhiều hơn so
với việc chi phí để khắc phục hậu quả ô nhiễm. Hay nói cách khác là xã hội sẽ được
hưởng lợi nhiều hơn do áp dụng lựa chọn quản lý này. Hiện nay, cơ quan quản lý

môi trường của nhiều nước đã có những nghiên cứu nhằm tiến hành tính toán chi
phí - lợi ích để giúp đưa ra những quyết định quản lý đúng đắn và có căn cứ khoa
học.
2.3. Lý thuyết về mô hình ‘tam giác’ (delta) trong quản lý môi trường – cơ sở
cho việc huy động cộng đồng tham gia quản lý môi trường thông qua phổ biến
thông tin môi trường
Ngày nay, cùng với việc phát triển ngày càng mạnh mẽ của công nghệ thông
tin và truyền thông (ICT), công tác quản lý bảo vệ môi trường cũng đang dần
chuyển từ mô hình quản lý truyền thống theo kiểu ‘quả đấm’ với việc kết hợp các
biện pháp kiểm soát bằng mệnh lệnh (các quy chế, luật định) với các biện pháp kinh
tế (như các hình thức phạt, lệ phí) sang mô hình quản lý mới theo kiểu ‘tam giác’
(delta) với việc áp dụng mạnh mẽ các tiến bộ của ICT trong quản lý bảo vệ môi
trường. Trong mô hình quản lý môi trường mới này, như được mô tả ở hình 2, cả 3
thành phần cơ bản là (1) các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường, (2) thị trường và (3) cộng đồng đều được huy động để tham gia một cách
tích cực và hiệu quả trong các hoạt động bảo vệ môi trường. Trong đó:
- Các cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm: xây dựng và ban hành các văn
bản pháp lý và các tiêu chuẩn nhằm điều tiết ô nhiễm và quản lý bảo vệ môi
trường, đưa ra các quyết định quản lý dựa vào việc áp dụng các biện pháp
kinh tế, và củng cố các hoạt động nhằm thực thi hiệu quả hệ thống các văn
bản pháp luật liên quan;
- Thị trường với chức năng tạo nên những cơ chế hoạt động kinh doanh, tiếp
thị sẽ giúp tạo những ảnh hưởng tích cực nhằm làm thay đổi hành vi của các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, các dự án xây dựng, v.v. hay những thành
phần kinh tế khác gây ô nhiễm thông qua tất cả các hoạt động như sản xuất,
tiêu dùng và đầu tư;
- Các cộng đồng có vai trò tích cực trong việc cùng tham gia và hợp tác trong
quản lý bảo vệ môi trường như giám sát thực thi luật và các hành vi gây ô
nhiễm.
Và một điều đặc biệt quan trọng là, mô hình này chỉ có thể vận hành được và

hoạt động có hiệu quả nếu như ‘thông tin về môi trường’ được chia sẻ và trao đổi
một cách thông suốt giữa 3 thành phần chủ chốt nêu trên.
Trong mô hình quản lý mới này, một mối quan hệ tương hỗ có tác động qua
lại được hình thành giữa 3 thành phần cơ bản: các cơ quan quản lý của Chính phủ,
thị trường và cộng đồng thông qua việc trao đổi và giao lưu thông tin. Đối với các
nhà quản lý môi trường, thông tin thực sự cần thiết để họ có thể thu nhận và hiểu
được những tác động của các cơ chế quản lý mà họ áp dụng. Thông tin chính xác và
6
phong phú thật sự là yếu tố cần thiết và hữu dụng đối với các cơ quan quản lý để họ
có thể đưa ra các quyết định chính sách một cách hợp lý, chính xác và có căn cứ
khoa học. Thông tin cũng thực sự cần thiết đối với thị trường để có thể điều tiết hiệu
quả hành vi của các nhà sản xuất và tiêu dùng về mặt môi trường. Hơn thế nữa,
thông tin cũng còn là biện pháp hiệu quả giúp người tiêu dùng có thể xác định và
giám sát các hành vi của các đối tượng liên quan nhằm gây áp lực bắt họ phải áp
dụng các biện pháp cải thiện môi trường.
Hình 2. Mô hình quản lý bảo vệ môi trường theo kiểu ‘tam giác’
Nếu đứng trên phương diện quản lý thì mô hình ‘tam giác’ này thực sự là sự
kết hợp chặt chẽ và hiệu quả giữa các biện pháp quản lý khác nhau mà đã được
trình bày ở trên, đó là:
- Kiểm soát và mệnh lệnh thông qua hệ thống các văn bản pháp luật của Chính
phủ
- Áp dụng các biện pháp kinh tế thông qua thị tường
- Phổ biến thông tin cho cộng đồng để thu hút sự tham gia của họ trong các
hoạt động bảo vệ môi trường

II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Trong những năm gần đây, một làn sóng áp dụng cách tiếp cận mới (dựa trên
cơ sở lý thuyết như đã trình bày ở trên) là sử dụng phương tiện thông tin để thu hút
sự tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý môi trường nói chung và đặc biệt

là trong công tác kiểm soát ô nhiễm công nghiệp đã xuất hiện ở nhiều nước như
Pháp, Hà Lan, Canađa, Mỹ, Côlômbia, Braxin, Inđônêxia, Philippin, Thái Lan,
Trung Quốc. Ở những nước này, các cơ quan quản lý môi trường đang áp dụng
nhiều chương trình cải cách và đổi mới trong công tác quản lý môi trường và cưỡng
chế tuân thủ luật pháp về bảo vệ môi trường theo hướng sử dụng ‘phổ biến cho
cộng đồng thông tin về hành vi môi trường’ của các cơ sở sản xuất, kinh doanh hay
các đối tượng mà hoạt động của chúng có khả năng gây ảnh hưởng đến môi trường
như một công cụ hữu hiệu nhằm giám sát thực thi hệ thống luật pháp về bảo vệ môi
trường và tạo áp lực bắt các cơ sở phải tự điều chỉnh hành vi để đảm bảo tuân thủ
luật.
7
Chính phủ
(Các biện pháp kiểm soát - hướng dẫn)
Thị trường
(Các biện pháp kinh tế mang tính thị trường)
Cộng đồng
(Các biện pháp phổ biến thông tin)
Thành phần
gây ô nhiễm
Nhìn chung cách thức áp dụng và triển khai các chương trình phổ biến thông
tin môi trường cho cộng đồng ở các nước khác nhau cũng có những điểm khác
nhau, song đều tập trung vào một mục tiêu chung là ‘huy động sự tham gia tích cực
và hiệu quả của cộng đồng trong các hoạt động bảo vệ môi trường’.
3.1. Chương trình điều tra các chất thải độc hại của Mỹ (Chương trình TRI)
 Giới thiệu chung về chương trình
Năm 1986, Quốc hội Mỹ đã thông qua đạo luật về việc thực thi chương trình
điều tra các chất thải độc hại trên toàn nước Mỹ (Chương trình TRI). Theo đó,
chương trình TRI hàng năm sẽ điều tra việc phát thải đối với hơn 350 hoá chất độc
gây ô nhiễm và công bố tên, địa điểm và các loại phát thải độc hại (theo tên hoá
chất và phương tiện phát thải) của các nhà máy có quy mô từ 10 nhân công trở lên

và sử dụng ít nhất 10.000 pao (1 pao = 0,454kg) bất cứ loại hoá chất nào nằm trong
danh mục. Các phương tiện truyền thông và các nhóm môi trường đã theo dõi sát
sao các bản báo cáo công bố hàng năm này.
Các nhà khoa học và các tổ chức phi chính phủ ở Mỹ đã sử dụng các phương
tiện truyền thông như internet để thông tin cho cộng đồng về những rủi ro tương đối
của các hoá chất khác nhau và cung cấp cho các cộng đồng những kiến thức cơ bản
nhằm giúp họ có khả năng nhận dạng các chất gây ô nhiễm chính và tự đánh giá các
vấn đề ô nhiễm chung gây bởi các hoá chất này. Quỹ Bảo vệ Môi trường, với sự hỗ
trợ của Cơ quan bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA) đã duy trì thường xuyên một trang
web hoàn chỉnh (http:// www.scorecard.org) để thu hút sự tham gia của các cộng
đồng trong chương trình này. Tại trang web này, người truy cập có thể khai thác
thông tin về phát thải các loại hoá chất độc hại trong danh mục 350 hoá chất của
chương trình TRI từ các nhà máy của Mỹ tại các địa điểm khác nhau trên toàn nước
Mỹ. Bên cạnh những báo cáo công bố những số liệu rất thô điều tra về phát thải 350
loại hoá chất trong khuôn khổ chương trình TRI, trang web cũng rất chú trọng tới
việc phổ biến kiến thức liên quan để giúp cộng đồng có được những kỹ năng cơ bản
nhất giúp họ tham gia tích cực và hiệu quả trong chương trình này thông qua việc
trang bị cho họ các kỹ năng về nhận biết và đánh giá tình trạng ô nhiễm gây bởi các
hoá chất độc hại tại nơi mình sinh sống và báo cáo với các đơn vị chức trách hoặc
phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng về những tình trạng này. Đây là
một trong những cách mà chương trình TRI khai thác nhằm huy động sự tham gia
của cộng đồng trong các hoạt động giám sát và tạo nên sức ép của cộng đồng để
buộc các cơ sở gây ô nhiễm điều chỉnh các hành vi của mình. Không chỉ gây ảnh
hưởng với các cộng đồng, TRI còn có những tác động mạnh mẽ tới giới tài chính
thông qua việc phổ biến thông tin điều tra về hoá chất của các cơ sở sản xuất, kinh
doanh. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng giá cổ phiếu của các cơ sở thương mại đã
tụt giảm nhanh chóng sau khi chương trình TRI công bố các số liệu về phát thải các
chất ô nhiễm của các cơ sở này.
Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều chuyên gia, việc phổ biến thông tin điều
tra ở dạng ‘thô’cho công chúng không kèm theo những diễn giải cần thiết và cảnh

8
bảo đúng mức về các rủi ro, đôi khi có những tác động ngược do việc cảnh báo
công chúng một cách không cần thiết hoặc là tạo áp lực bắt các cơ sở phải áp dụng
những biện pháp giảm thiểu ô nhiễm với các mức chi phí rất cao trong khi hiệu quả
thực sự đem lại về mặt lợi ích xã hội lại không cao lắm.
 Những bài học kinh nghiệm
- Tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc triển khai chương trình phổ biến thông
tin môi trường: Để chuẩn bị cho việc đầu tư tài chính cho công tác điều tra,
thu thập, xây dựng và quản lý thông tin cũng như phổ biến thông tin cho
cộng đồng, Quốc hội Mỹ đã thông qua 1 đạo luật quy định riêng về mục tiêu,
nội dung, việc tổ chức triển khai các hoạt động trong khuôn khổ chương
trình cũng như việc huy động tài chính để thực thi chương trình. Theo Đạo
luật này, Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA) chịu trách nhiệm chủ trì và
phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai chương trình.
- Trong triển khai các hoạt động phổ biến thông tin môi trường cho cộng đồng
cần phải chú trọng đến việc diễn giải và trình bày thông tin một cách dễ hiểu
và dễ cảm nhận đối với công chúng để tránh những tác động không mong
muốn ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất và phát triển chung.
3.2. Cộng đồng các nước thuộc khối OECD và công ước Aarhus
Cũng giống như ở Mỹ, các nước phát triển thuộc khối OECD cũng đã sớm
nhận thức được rõ vai trò ‘giám sát’ của cộng đồng trong việc hỗ trợ các cơ quan
Chính phủ thực thi các hoạt động nhằm kiểm soát ô nhiễm, sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường để đảm bảo phát triển bền vững và sức
khoẻ cho cộng đồng. Kết quả của sự nhận thức này được thể hiện rõ nét qua việc 38
nước thành viên đã cùng nhau thông qua và ký kết “Công ước về truy cập thông
tin công cộng, sự tham gia của công chúng trong các quá trình ra quyết định và
quyền được tiếp cận với toà án trong các lĩnh vực về môi trường” (thường được gọi
là công ước Aarhus) tại hội nghị Bộ trưởng Môi trường châu Âu lần thứ tư họp tại
Aarhus ngày 25/6/1988. Đây được đánh giá là văn bản tiến bộ nhất ở cấp quốc tế có
quy định các vấn đề liên quan đến phổ biến thông tin môi trường cho cộng đồng và

huy động sự tham gia của cộng đồng trong các hoạt động quản lý bảo vệ môi
trường.
Tuy nhiên, nhận thức này chỉ thực sự được sáng rõ và được pháp lý hoá một
cách cụ thể vào năm 1998 trong bản khuyến nghị số C(98)67/Final/ về thông tin
môi trường được Hội đồng châu Âu phê chuẩn trong phiên họp 992 ngày 3/4/1998,
mà trong đó đã nhận thức được một cách rất cụ thể là:
- Việc công khai hoá thông tin và để dân chúng được tiếp cận một cách rộng
rãi với các thông tin về các vấn đề môi trường sẽ là cơ sở và tạo nên định
hướng cần thiết cho việc: (i) xây dựng các chính sách mang tính chi phí - lợi
ích cao hơn, (ii) tạo trách nhiệm lớn hơn của tất cả các bên liên quan trong
các hoạt động bảo vệ môi trường, (iii) tăng cường nhận thức và sự tham gia
của dân chúng.
9
- Nhận thức của công chúng về các điều kiện và rủi ro môi trường là cần thiết
cho việc bảo vệ sức khoẻ con người và môi trường.
Trên cơ sở những nhận thức này, bản khuyến nghị đã đề nghị:
- Các nước thành viên tiến hành các hoạt động cần thiết trong khuôn khổ của
luật pháp quốc gia của mình nhằm tăng cường khả năng quần chúng được
tiếp cận với các nguồn thông tin về môi trường do các cơ quan quản lý nắm
giữ và quản lý. Theo từng cách riêng, các nước thành viên phải xác định
khuôn khổ những thông tin nào cần thiết phải phổ biến rộng rãi và hình thức
phổ biến như thế nào;
- Mọi thông tin môi trường thích hợp phải được cung cấp cho bất kỳ đối tượng
nào, trả lời cho bất kỳ yêu cầu chính đáng nào với mức thu phí hợp lý và
đảm bảo các quy định của từng nước về bí mật riêng tư và bí mật quốc gia;
- Các nước thành viên phải thúc đẩy việc phổ biến đầy đủ thông tin môi
trường cho cộng đồng.
- Thúc đẩy việc báo cáo có hiệu quả và theo định kỳ của các tổ chức kinh
doanh về các thông tin thích hợp và kịp thời về các vấn đề môi trường có liên
quan trong các hoạt động của cơ sở thí dụ các mức phát tán ô nhiễm, sử dụng

tài nguyên thiên nhiên, rủi ro tiềm tàng do các hoạt động hay các sản phẩm
gây hại cũng như thông tin về những thành tựu và tiến bộ về mặt bảo vệ môi
trường của các cơ sở kinh doanh.
- Thúc đẩy việc phổ biến thông tin thích hợp để công chúng có thể đánh giá
được những hậu quả môi trường do những hoạt động của các tổ chức kinh
doanh hoặc của các cá nhân để tiến hành các biện pháp phòng ngừa, kể cả
trong các trường hợp khẩn cấp.
Đáp lại những khuyến nghị đã được nêu ra, nhiều nước trong khối OECD đã
có những hành động tích cực để triển khai mạnh mẽ và hiệu quả công tác phổ biến
thông tin môi trường cho cộng đồng. Các văn bản luật liên quan đến trách nhiệm
cung cấp thông tin môi trường cho cộng đồng của các bên liên quan đã được xây
dựng và chính thức ban hành ở nhiều nước trong khối này (Ví nhụ như luật thông
tin môi trường của Cộng hoà Séc, của Anh). Bên cạnh đó, cơ quan quản lý nhà nước
về bảo vệ môi trường ở các nước này cũng đã có rất nhiều nỗ lực nhằm tăng cường
công tác thu thập, xử lý và quản lý thông tin cũng như phổ biến thông tin môi
trường cho cộng đồng dưới những hình thức hợp lý, dễ hiểu và thiết thực đối với
công chúng để tạo sự tham gia hiệu quả và hợp lý của cộng đồng trong các hoạt
động bảo vệ môi trường. Việc cung cấp thông tin về các nỗ lực và kết quả bảo vệ
môi trường của các cơ sở kinh doanh, sản xuất đã được pháp chế hoá ở nhiều nước
châu Âu. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện nhằm nâng cao vai trò ‘thẩm định’ của
công chúng trong các hoạt động đánh giá tác động môi trường và thẩm định các dự
án phát triển ở các nước như Đức, Pháp, Hà Lan, v.v.
3.3. Trung Quốc
Xuất phát từ một nghiên cứu về “Kinh tế ô nhiễm công nghiệp ở Trung
Quốc” do Viện Quy hoạch môi trường thuộc Học viện Nghiên cứu khoa học môi
trường của Trung Quốc thực hiện năm 1998, Cơ quan Bảo vệ Môi trường Quốc gia
10
của Trung Quốc (SEPA) đã xây dựng đề xuất dự án “Xây dựng hệ thống thông tin
công nghiệp ở các thành phố và phổ biến thông tin môi trường cho cộng đồng ở
Trung Quốc” để xin tài trợ của Ngân hàng Thế giới. Tháng 10/1998, Ngân hàng

Thế giới và SEPA đã ký thoả thuận hợp tác về việc triển khai thực hiện dự án nói
trên ở Trung Quốc. Trong khuôn khổ dự án này, hai hoạt động chính sau đây được
đã thực hiện:
- Tăng cường và thúc đẩy các công cụ quản lý thông tin môi trường cho các cơ
quan quản lý thông qua việc xây dựng và phát triển chương trình mô hình
hoá ô nhiễm công nghiệp ở các thành phố và hỗ trợ các cơ quan quản lý xây
dựng các chiến lược kiểm soát môi trường dựa trên các phương pháp tính
toán ‘chi phí - lợi ích”;
- Lựa chọn một số thành phố tham gia triển khai thử nghiệm các chương trình
phổ biến thông tin môi trường;
Để triển khai thực thi dự án, SEPA đã phối hợp rất chặt chẽ với các cơ quan
nghiên cứu, các trường đại học khác nhau và chính quyền địa phương ở các thành
phố được lựa chọn làm địa điểm triển khai các chương trình thử nghiệm trong tất cả
các khâu liên quan như: đánh giá nhu cầu, thiết kế các chương trình giám sát và tính
toán ô nhiễm, triển khai các hoạt động điều tra, thu thập thông tin và phổ biến thông
tin trên các phương tiện truyền thông và mạng internet.
Các đối tượng được thử nghiệm trong dự án này là ô nhiễm môi trường
không khí và nước gây bởi các hoạt động công nghiệp ở các thành phố. Do vậy, hệ
thống thông tin kiểm soát ô nhiễm công nghiệp đã được thiết kế bao gồm 5 hợp
phần cơ bản sau:
- Thông tin phục vụ quản lý cơ sở
- Thông tin phục vụ phân tích các kịch bản ô nhiễm của cơ sở
- Thông tin phục vụ mô hình hoá ô nhiễm không khí của cơ sở
- Thông tin phục vụ mô hình hoá ô nhiễm nước của cơ sở
- Đánh giá tổng hợp về cơ sở
Các tiêu chí đánh giá hành vi ứng xử về môi trường của cơ sở bao gồm các
yếu tố sau:
- Nhóm các tiêu chí đánh giá chung về cơ sở: Tên, địa điểm, loại hình, chủ sở
hữu, quy mô, sản phẩm chính, sản lượng, tiêu dùng nước và năng lượng
- Nhóm các tiêu chí đánh giá về hành vi ô nhiễm: các thông số về phát thải ô

nhiễm và các biện pháp xử lý ô nhiễm mà cơ sở áp dụng
- Nhóm các tiêu chí về tác động đối với môi trường: những đóng góp vào tình
hình ô nhiễm của khu vực gây bởi các hoạt động của cơ sở
- Nhóm các tiêu chí về quản lý môi trường: việc thực thi các quy định và tiêu
chuẩn về môi trường của cơ sở
- Nhóm các tiêu chí về sản xuất sạch hơn: việc áp dụng sản xuất sạch hơn và
ISO14000 của cơ sở
- Nhóm các tiêu chí về phân hạng cơ sở: đánh giá phân hạng cơ sở theo cách
dễ hiểu để công bố cho công chúng.
11
 Chương trình thử nghiệm phổ biến thông tin môi trường ở thành phố Huhhot
(Hô Hoà)
Các bước triển khai chương trình thử nghiệm phổ biến thông tin môi trường
cho cộng đồng ở thành phố Huhhot (Hô Hoà) của Trung Quốc được trình bày trong
sơ đồ dưới đây:
Các tiêu chí đánh giá hành vi ứng xử về môi trường áp dụng cho các cơ sở ở
thành phố Hô Hoà:
Màu Ý nghĩa Các tiêu chí
Xanh lá
cây
Cơ sở dẫn đầu
về môi trường
Cơ sở đã có chứng nhận về áp dụng ISO14000
hoặc đã nhận được giải thưởng là ‘đơn vị văn
minh’ của vùng Nội Mông
Xanh da
trời
Có kết quả môi
trường đáng tin
cậy

Có mức phát thải SO
2
, bụi khói và COD (theo
tổng thải lượng) nhỏ hơn mức 60% của tiêu chuẩn
theo luật định
Vàng Phát thải ô
nhiễm tuân thủ
các quy định và
tiêu chuẩn hiện
hành
Có mức phát thải SO
2
, bụi khói và COD (theo
tổng thải lượng) đạt tiêu chuẩn quốc gia
Đỏ Cảnh báo về
mức độ gây ô
nhiễm
Có một trong 3 chỉ số sau SO
2
, bụi khói và COD
(theo tổng thải lượng) vượt tiêu chuẩn quy định
Đen Cần phải xử lý ô
nhiễm trong một
thời hạn nhất
định
Không có chỉ số nào trong số các thông số kể trên
đạt tiêu chuẩn quốc gia
Với sự tham gia của 107 cơ sở (bao gồm 56 cơ sở sản xuất công nghiêp và
51 cơ sở kinh doanh), chương trình thử nghiệm ở thành phố Hô Hoà đã được thực
thi từ tháng 11/1999 đến hết tháng 12 năm 2000 thông qua 2 giai đoạn:

12
Xác định các mục tiêu và phạm
vi của chương trình thử nghiệm
Tổ chức thu thập thông tin, xử lý và phân
tích thông tin
Đánh giá phân hạng theo các
tiêu chí
Xác định các tiêu chí đánh giá để phân
hạng
Lựa chọn các phương tiện
truyền thông và cách thức phổ
biến thông tin
Tiêu chuẩn hoá và hệ thống hoá chương
trình phổ biến thông tin
- Giai đoạn 1: 11/1999 – 1/2000
- Giai đoạn 2: 1-12/2000
Kết quả đạt được của chương trình được đánh giá theo bảng 1 trình bày dưới
đây:
Bảng 1. Đánh giá kết quả chương trình thử nghiệm ở Hô Hoà (Trung Quốc)
Màu Sản xuất Kinh doanh Tổng cộng
Số lượng % Số lượng % Số lượng %
Xanh lá cây 0 0 0 0 0 0
Xanh da trời 2 3,6 9 17,6 11 10,3
Vàng 11 19,6 20 39,2 31 29,0
Đỏ 37 66,1 19 37,3 56 52,3
Đen 6 10,7 3 5,9 9 8,4
Tổng số 56 100 51 100 107 100
 Chương trình thử nghiệm phổ biến thông tin môi trường ở thị trấn Chấn
Giang (Trung Quốc)
Các bước thực thi chương trình:

Các tiêu chí đánh giá phân hạng áp dụng cho các cơ sở tham gia chương
trình thử nghiệm ở Chấn Giang, Trung Quốc:
Møc - lo¹i
Tu©n thñ
MÇu Tiªu chÝ ®Ó xÕp lo¹i tr¹ng th¸i
m«i trêng
Môc tiªu Vai trß
khuyÕn
13
Lựa chọn các cơ sở
tham gia chương trình
Gửi phiếu điều tra đề nghị
các cơ sở tham gia điền thông
tin và quan trắc các nguồn
gây ô nhiễm
Xây dựng CSDL về các
nguồn gây ô nhiễm và
CSDL về các cơ sở công
nghiệp liên quan
Phân tích dữ liệu
Kiểm chứng thông
tin thu được
Đánh giá
hành vi ứng
xử về môi
trường
Thảo luận với các
cơ quan liên quan
trong hệ thống
Chính phủ

Phổ biến các kết quả đánh giá về hành vi ứng xử môi trường
thông qua báo chí và các phương tiện truyền thông khác
khích
Không
tuân thủ
Đen
Đỏ
Nhà máy không nỗ lực trong
kiểm soát ô nhiễm, gây ra những
thiệt hại lớn đối với chất lợng
môi trờng
Nhà máy có cố gẵng trong kiểm
soát ô nhiễm, nhng tìng trạng
môi trờng của họ không thoả
mãn tiêu chuẩn kiểm soát ô
nhiễm Quốc gia
Khuyến khích
nhà máy áp
dụng công
nghệ sạch
hơn và hệ
thống quản lý
môi trờng cao
hơn
áp lực
từ phía
cộng
đồng,
thậm
chí phạt

công
khai
Báo động.
Cảnh báo
Vàng Tình trạng môi trờng của nhà
máy đạt đợc tiêu chuẩn kiểm
soát ô nhiễm môi trờng Quốc
gia, nhng vẫn cha thoả mãn tiêu
chuẩn lợng thải cơ bản, hoặc nhà
máy đã bị phạt hành chính, hoặc
vi phạm luật hay quy định hoặc
gây ra sự cố ô nhiễm bình thờng
Tạo áp lực để
nhà máy nỗ
lực trong việc
bảo vệ môi tr-
ờng, để đạ đ-
ợc yêu cầu về
quản lý môi
trờng
Cộng
đồng
công
nhận
Tuân thủ
Lam
Lục
Tình trạng môi trờng của nhà
máy đạt tiêu chuẩn kiểm soát ô
nhiễm địa phơng và Quốc gia

một cách hoàn hảo và thoả mãn
yêu cầu quản lý môi trờng.
Nhà máy áp dụng công nghệ
sạch hơn và đợc cấp giấy chứng
chỉ ISO 14000, và tình trạng môi
trờng đạt tới mức quốc tế hoặc
tột đỉnh ở Trung quốc.
3.4. Cỏc nc ASEAN
Kinh nghim ca Inụnờxia
Chng trỡnh tiờn phong ca Inụnờxia minh ho cho mụ hỡnh qun lý mi
ny bt u t nhng nm 1980. Chớnh ph Inụnờxia ó giao trỏch nhim cho
BAPEDAL C quan Kim soỏt ụ nhim Quc gia, cng ch thi hnh cỏc tiờu
chun v phỏt thi ca cỏc nh mỏy cụng nghip. Song hot ng cng ch cũn
yu kộm do kinh phớ qun lý hn hp v nn hi l gõy cn tr cho tũa ỏn. Trong
khi ú sn lng cụng nghip hng nm vn tng hn 10%. n gia nhng nm
1990, Chớnh ph ó bt u lo lng n nguy c thit hi nghiờm trng do ụ nhim.
ng u vi tỡnh hỡnh khú khn ú, BAPEDAL quyt nh khi xng
chng trỡnh xp hng v cụng khai hoỏ kt qu hot ng mụi trng ca cỏc nh
mỏy Inụnờxia. BAPEDAL hy vng sc ộp c to nờn t chng trỡnh ph
bin thụng tin ny cú th mang li mt phng thc thỳc y tuõn th cỏc quy ch
qun lý mụi trng vi chi phớ thp cng nh to ra cỏc c ch khuyn khớch mi
cỏc nh qun lý doanh nghip chp nhn cỏc cụng ngh sch hn. Chng trỡnh
ny cú tờn l PROPER Chng trỡnh kim soỏt, ỏnh giỏ v xp hng ụ nhim.
Trong khuụn kh chng trỡnh PROPER, BAPEDAL xp hng hot ng mụi
trng ca tng c s gõy ụ nhim v biu din h thng xp hng ny theo mu
sc nh sau:
14
- Cỏc nh mỏy c xp hng mu en l cỏc nh mỏy khụng cú bt k c
gng no kim soỏt ụ nhim v gõy ra nhng thit hi nghiờm trng v
mụi trng;

- Cỏc nh mỏy c xp hng mu l cỏc nh mỏy ó t chc mt s hot
ng kim soỏt ụ nhim song thiu s tuõn th;
- Cỏc nh mỏy c xp hng mu xanh da tri l cỏc nh mỏy tuõn th trit
cỏc tiờu chun quc gia v cú qui trỡnh kim soỏt phỏt thi;
- Cỏc nh mỏy c xp hng mu xanh lỏ cõy l cỏc nh mỏy cú qui trỡnh
sn xut v qun lý cht thi vt ỏng k cỏc tiờu chun quc gia;
- Cỏc nh mỏy c xp hng mu vng l cỏc nh mỏy thc hin dc cỏc
tiờu chun quc t.
Trong giai on th nghim chng trỡnh PROPER, c bt u t nm
1995, BAPEDAL ó ỏnh giỏ mc ụ nhim 187 nh mỏy (c quan ny ó
quyt nh tp trung vo ụ nhim nc trc tiờn l vỡ h ó cú s liu v kinh
nghim trong lnh vc ny). Nhúm cỏc nh mỏy c a vo chng tỡnh th
nghim bao gm cỏc c s gõy ụ nhim c va v ln, nm mt s cỏc lu vc
sụng trờn o Sumatra, Kalimantan v Java. Nhng ỏnh gỏi ban u cho thy 2/3
cỏc nh mỏy khụng tuõn th cỏc quy ch qun lý mụi trng ca Inụnờxia. Theo
tiờu chun phng tõy thỡ kt qu núi trờn tht ỏng bun, song vn cú 1/3 cỏc nh
mỏy c ỏnh giỏ l cú tuõn th mc dự BAPEDAL khụng cú kh nng cng ch
thc thic cỏc qui ch qun lý.
Ph bin thụng tin cho cng ng l mt hot ng chớnh tr v l mt s
kin trờn phng tin truyn thụng, vỡ th lónh o BAPEDAL ó cõn nhc k
lng cỏc chin lc ph bin cỏc kt qu. Thỏng 6/1995, Phú tng thng
Inụnờxia ó ch trỡ mt bui l cụng khai trc qun chỳng chỳc mng nhng
gng tt ú l 5 nh mỏy c xp hng mu xanh l thnh tớch vt mc cỏc
yờu cu chớnh thc. Sau khi trao gii thng cho cỏc c s hot ng tt ny,
BAPEDAL ó thụng bỏo riờng cho cỏc nh mỏy khỏc v xp hng ca h, v cho
cỏc nh mỏy khụng tuõn th mt thi hn 6 thỏng lm sch trc khi ph bin
ton b thụng tin cho cng ng. ó xy ra vic tranh ginh th hng khi cỏc nh
mỏy cú cỏc mc xp hng mu v mu en xem xột cỏc phng ỏn ca mỡnh, v
n thỏng 12/1995 ó cú nhng thay i rừ nột. Sau 6 thỏng, s cỏc nh mỏy mu
xanh da tri (s nh mỏy tuõn th) ó tng thờm 18%. Nh vy, ngay c trc khi

thụng tin c ph bin, PROPER ó thnh cụng ỏng k.
Tháng 12/1995, BAPEDAL đã thực hiện cam kết của mình về công khai hoá
hoàn toàn: phổ biến các mức xếp hạng theo nhóm công nghiệp trong vòng vài tháng
để thu hút sự chú ý của các phơng tiện truyền thông. Đến tháng 12/1996, nghĩa là 1
năm sau đó, đã có những cải thiện rõ rệt. Số các nhà máy tuân thủ, lúc đầu chỉ
chiếm 1/3 tổng số các nhà máy đa vào thử nghiệm nay đã l.ên đến một nửa. Nhóm
màu xanh da trời tăng 54%. Nhóm các nhà máy đỏ giảm khoảng 24% và nhóm màu
đen vẫn tiếp tục giảm. Chỉ còn lại 1 nhà máy đợc xếp hạng màu đen (giảm 83% so
với con số ban đầu). Nh vậy, chỉ sau 18 tháng áp dụng chơng trình phổ biến thông
tin, đã giảm đợc 40% ô nhiễm trong số các nhà máy tham gia thử nghiệm. Và đặc
biệt là, trong thời gian thử nghiệm này cũng đã có 4 nhà máy bị giáng cấp từ màu đỏ
xuống màu đen vào kỳ đánh giá giữa năm 1997. Điều này có thể do điều kiện của
các nhà máy thay đổi hoặc cũng có thể do nhà chức trách thu thập đợc đầy đủ thông
tin hơn để đánh giá các nhà máy này.
15
Nếu so với mô hình quản lý trớc đây ở Inđônêxia, kết quả đáng chú ý này cho
thấy việc xếp hạng và phổ biến thông tin cho cộng đồng có thể là những công cụ
mạnh để cải thiện các điều kiện môi trờng ở các nớc đang phát triển. Có nhiều yếu
tố đóng góp vào sự thành công của chơng trình PROPER.
Một khía cạnh khác nữa của chơng trình này là: với việc phổ biến rộng rãi
thông tin về tình trạng môi trờng của các công ty, rất nhiều thành phần xã hội đợc h-
ởng lợi nh:
- Khi ngời dân có đợc thông tin về tình trạng quản lý môi trờng của các nhà
máy họ ở thế mạnh hơn khi đàm phán và thoả thuận với các nhà máy về kiểm
soát ô nhiễm xunh quanh nhà máy.
- Thông tin tốt hơn cũng ảnh hởng đến thị trờng trong tam giác nh ở mô hình
delta. Với xếp hạng của chơng trình BAPEDAL, thị trờng chứng khoán có thể
định giá chính xác hơn việc thực hiện hoạt động bảo vệ môi trờng của các
công ty và các ngân hàng có thể cân nhắc yếu tố trách nhiệm pháp lý liên
quan đến ô nhiễm trong các quyết định cho vay của mình.

- Đối với ngời tiêu dùng, xếp hạng màu xanh lá cây hay màu vàng mới là đủ:
và việc có thông tin thông qua các phơng tiện nh internet đợc PROPER dùng
có thể ảnh hởng lớn đến các quyết định của họ. Tất cả những yếu tố này buộc
các nhà máy phải làm sạch môi trờng.
- Bản thân BAPEDAL cũng có lợi trong việc phổ biến thông tin cho cộng
đồng. Các tiêu chuẩn môi trờng càng đợc tuân thủ rộng rãi thì uy tín của
BAPEDAL đối với các ngành công nghiệp, các NGO, cộng đồng càng tăng
và năng lực thực hiện chức năng quản lý của cơ quan này cũng đợc nâng lên.
Kinh nghiệm của Philippin
Khi tác động của PROPER bắt đầu trở nên rõ ràng, các nớc khác vẫn còn dè
dặt để ý với câu hỏi: Liệu cái gì đã làm cho chơng trình phổ biến thông tin môi tr-
ờng thành công ở Inđônêxia? Đó là do sự hổ thẹn của các doanh nghiệp hay là do
văn hoá của ngời Inđônêxia, hay là những yếu tố nào khác nữa? Tuy nhiên, sự thành
công của Inđônêxia cũng khiến cho nhiều nớc đang phát triển bắt đầu triển khai
những chơng trình tơng tự.
Tại Philippin, Bộ Môi trờng và Tài nguyên (DERN) đã xây dựng một chơng
trình tơng tự nh PROPER và gọi là chơng trình Ecowatch. Tháng 4 năm 1998,
Ecowatch đã công bố bản báo cáo đầu tiên về 52 nhà máy trong khu vực Manila.
Tổng kết cho thấy có 48 nhà máy đợc xếp vào hạng đỏ hoặc đen, nh vậy có tới 92%
số nhà máy không tuân thủ. Cũng nh ở Inđônêxia, luận cứ để thực hiện chơng trình
phổ biến thông tin cho cộng đồng là sự không thành công của các phơng pháp
truyền thống.
Để xây dựng Ecowatch, Chính phủ Philippin đã theo đuổi chiến lợc giống nh
của BAPEDAL. Tổng thống Fidel Ramos đã chúc mừng các nhà máy đợc xếp hạng
màu xanh da trời tại một buổi lễ công khai (không có nhà máy nào đợc xếp hạng
màu xanh lá cây hoặc vàng). Các nhà máy màu đen và đỏ đợc thông báo riêng về
mức xếp hạng cùng với thời hạn để giảm ô nhiễm. Tháng 11/1998 việc phổ biến
thông tin cho cộng đồng đã đợc thực hiện với sự tham gia của các phơng tiện thông
tin đại chúng. Cũng nh trờng hợp của Inđônêxia, chơng trình đã làm tăng đáng kể số
các nhà máy tuân thủ các qui chế quản lý quốc gia. Mặc dù không có nhà máy nào

đạt đợc mức xanh lá cây hay vàng, nhng số các nhà máy đạt mức xanh da trời đã
tăng từ 8% vào tháng 4/1997 lên 58% vào tháng 11/1998. Số nhà máy đạt mức đỏ đã
giảm nhanh, trong khi các nhà máy đạt mức đen vẫn hầu nh không thay đổi.
16
III. TRIỂN KHAI CÔNG TÁC HUY ĐỘNG CỘNG ĐỒNG THAM GIA
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ PHỔ BIẾN THÔNG TIN MÔI
TRƯỜNG CHO CỘNG ĐỒNG Ở VIỆT NAM
IV.1. Những yếu tố thuận lợi có thể hỗ trợ và thúc đẩy công tác huy động
cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường và phổ biến thông tin môi trường
cho cộng đồng
Nếu xét trên góc độ văn hoá và lịch sử thì có thể nhận định rằng công tác huy
động cộng đồng tham gia trong các hoạt động bảo vệ môi trường là hoàn toàn có
tính khả thi và có khả năng triển khai rộng ở nước ta. Nhận định này được khẳng
định thông qua quan điểm mang tính truyền thống của dân tộc ta là ‘góp gió thành
bão’ để cùng nhau chung lưng đấu cật trong các sự nghiệp chung như các cuộc đấu
tranh chống quân xâm lược chẳng hạn. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là làm thế nào để
dân chúng hiểu và cảm nhận được ‘bảo vệ môi trường thực sự là sự nghiệp chung
của toàn thể dân tộc’. Mặc dù quan điểm ‘bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân’ đã được thể hiện rõ trong các chủ trương đường lối
của Đảng và Chính phủ, song cũng phải thừa nhận rằng điều này vẫn chưa được
nhận thức một cách đầy đủ trong dân chúng. Chắc chắn rằng chúng ta sẽ thu hút
được dân chúng tham gia một cách tích cực và mạnh mẽ trong các hoạt động quản
lý bảo vệ môi trường nếu chú trọng đến việc giúp công chúng hiểu biết cụ thể và rõ
nét về các vấn đề môi trường liên quan cũng như những lợi ích và trách nhiệm của
họ trong các hoạt động bảo vệ môi trường. Điều này chỉ có thể đạt được nếu tạo cơ
sở cho công chúng được tiếp cận thường xuyên và kịp thời với thông tin về tình
trạng môi trường ở quanh họ và theo những cách thức hợp lý.
Phổ biến thông tin môi trường cho cộng đồng là một chủ trương của Đảng và
đã được thể hiện rõ nét trong chỉ thị số 36-CT ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về
tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước. Trong chỉ thị này, bên cạnh việc nhận thức được rõ rằng “Việc tuyên
truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường cho toàn Đảng và toàn
dân, toàn quân chưa được quan tâm đúng mức, chưa phát huy được vai trò của các
đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội, các hội quần chúng, các phong trào quần
chúng về bảo vệ môi trường”, Đảng ta cũng đã có chủ trương coi “Tạo điều kiện
và khuyến khích để người dân thường xuyên nhận được các thông tin về môi
trường như một biện pháp cơ bản bảo vệ môi trường”.
Về mặt pháp lý, công tác phổ biến thông tin môi trường cho cộng đồng đã có
những cơ sở khá vững chắc để có thể triển khai thực thi ở Việt Nam. Đó là:
- Điều 69, Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam đã quy định cụ thể “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo
quy định của pháp luật”.
- Điều 10, Luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam “Các cơ quan nhà nước,
trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm tổ chức
điều tra, nghiên cứu, đánh giá hiện trạng môi trường, định kỳ báo cáo
với quốc hội về tình hình môi trường, xác định khu vực bị ô nhiễm và
17
thông báo cho nhân dân biết, có kế hoạch phòng, chống suy thoái môi
trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường.
IV.2. Thực thi các chương trình phổ biến thông tin môi trường cho cộng đồng
ở Việt Nam
Thực tế mà nói thì vai trò và tầm quan trọng của cộng đồng trong thực thi
các hoạt động bảo vệ môi trường chung đã từ lâu được giới lãnh đạo nhận thức
được ở Việt Nam. Đã có nhiều nỗ lực nhằm nâng cao nhận thức về bảo vệ môi
trường cho quần chúng đồng thời với việc từng bước công khai thông tin về môi
trường để nhân dân nhận biết rõ được hiện trạng môi trường mà họ đang sinh sống
và có những phản ứng tích cực nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường
sống. Tuy nhiên, các hoạt động này mới chỉ được thực hiện ở một vài địa phương
trong cả nước và cũng mới chỉ tập trung nhiều vào 2 mảng hoạt động chính là kiểm

soát ô nhiễm môi trường công nghiệp, xây dựng nếp sống vệ sinh và không gây ô
nhiễm môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Còn chưa có những nỗ lực cụ thể
nhằm nâng cao vai trò của người dân trong việc đánh giá, thẩm định các tác động
môi trường của các dự án phát triển kinh tế - xã hội cũng như sự tham gia của người
dân trong các quá trình xây dựng chính sách và ra quyết định còn chưa được triển
khai mạnh mẽ.
Trong khuôn khổ báo cáo nghiên cứu này, chúng tôi xin giới thiệu một vài
kinh nghiệm triển khai các chương trình phổ biến thông tin môi trường cho cộng
đồng nhằm huy động sự tham gia của cộng đồng trong các hoạt động giám sát thực
thi luật bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất công nghiệp và kinh doanh nhằm
hạn chế ô nhiễm ở các khu công nghiệp và đô thị.
Trong phần này, chúng tôi sẽ trình bày kinh nghiệm triển khai của 4 thành
phố lớn là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đà Nẵng. Nếu xét về thời
gian thì thành phố Hồ Chí Minh là nơi thử nghiệm triển khai chương trình này sớm
nhất (từ năm 1994, ngay những năm đầu tiên mới thực thi Luật Bảo vệ môi trường).
Tuy nhiên, chúng tôi vẫn mong muốn trình bày trước tiên kinh nghiệm triển khai
thực thi chương trình phổ biến thông tin môi trường ở Hà Nội trước tiên bởi vì có lẽ
đây là chương trình được xây dựng một cách bài bản hơn cả và dựa trên việc học
hỏi, đúc rút kinh nghiệm trong nước và quốc tế.
IV.2.1. Chương trình thử nghiệm phổ biến thông tin môi trường cho cộng
đồng ở Hà Nội (8/2001-12/2002)
4.2.1.1. Xuất sứ:
Cũng giống như ở Trung Quốc và Philippin, ở Việt Nam các quan điểm về
cách tiếp cận mới trong quản lý bảo vệ môi trường mà trong đó coi phổ biến thông
tin môi trường cho cộng đồng là một công cụ hữu hiệu giúp huy động cộng đồng
tham gia tích cực trong các hoạt động giám sát các doanh nghiệp thực thi luật pháp
về bảo vệ môi trường được giới thiệu và triển khai thử nghiệm trong khuôn khổ một
dự án hỗ trợ kỹ thuật của Ngân hàng Thế giới.
18
Tháng 6/2000, Cục Môi trường trực thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi

trường trước đây (nay là Cục Bảo vệ Môi trường trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi
trường) đã được Chính phủ giao chủ trì thực hiện dự án “Tăng cường năng lực thể
chế quản lý thông tin môi trường” do Ngân hàng Thế giới tài trợ trong thời hạn 2
năm (Dự án SICEIM). Một trong những hoạt động chính của dự án này là xây dựng
phương pháp luận và thử nghiệm áp dụng cách tiếp cận mới trong quản lý môi
trường với việc sử dụng phổ biến thông tin môi trường như một công cụ hỗ trợ cho
kiểm soát ô nhiễm và quản lý bảo vệ môi trường.
Để triển khai chương trình thử nghiệm này, Cục Môi trường trước đây đã
phối hợp chặt chẽ với sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Hà Nội, Uỷ ban
Nhân dân thành phổ Hà Nội và các cơ quan nghiên cứu liên qua như Viện Khoa học
và Công nghê Môi trường, Khoa Môi trường/Đại học Khoa học Tự nhiên/Đại học
Quốc gia Hà Nội, các cơ quan thông tấn và báo chí cũng như uỷ bân nhân dân các
phường, xã tại địa bàn có các cơ sở công nghiệp tham gia chương trình thử nghiệm.
4.2.1.2. Quy mô thực hiện:
Chương trình được thực hiện trong hai năm từ tháng 1 năm 2001 đến hết
tháng 12 năm 2002 với tổng kinh phí thực hiện khoảng chừng 160.000USD (không
kể kinh phí thuê chuyên gia tư vấn nước ngoài hỗ trợ nghiên cứu xây dựng chương
trình). Trong đó:
- Dự án SICEIM tài trợ khoảng 140.000 USD cho các nghiên cứu chuẩn bị
xây dựng chương trình, xây dựng phương pháp luận, tổ chức các hội nghị,
hội thảo liên quan và các hoạt động triển khai chương trình từ tháng 8/2001
đến hết tháng 6/2002.
- Chính phủ tài trợ khoảng 20.000 USD cho việc duy trì tiếp tục chương trình
từ tháng 6/2002 đến hết tháng 12/2002 và tiến hành đánh giá nhanh các
nguồn gây ô nhiễm chính từ các doanh nghiệp tham gia chương trình nhằm
hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm định hướng phát triển các hoạt động
bảo vệ môi trường tại doanh nghiệp.
Với khuôn khổ thời gian và tài chính như đã trình bày, và dựa vào kết quả
nghiên cứu hiện trạng môi trường công nghiệp, tình hình phát triển kinh tế - xã hội
và phát triển sản xuất ở Hà Nội, cộng với sự tư vấn rộng rãi của nhiều nhà khoa học,

các cán bộ quản lý môi trường, các nhà báo, các nhà quản lý doanh nghiệp thu thập
được trong các hội thảo chuẩn bị, nhóm chuyên gia tư vấn thực hiện chương trình
đã quyết định khoanh vùng các đối tượng, nội dung và quy mô triển khai chương
trình như sau:
- Số lượng và ngành nghề của các cơ sở tham gia: lựa chọn 50 doanh nghiệp
thuộc hai ngành chế biến thực phẩm và dệt nhuộm trên địa bàn Hà Nội
(trên tổng số 273 cơ sở sản xuất của toàn thành phố, theo như thống kê của
sở KHCNMT Hà Nội tại thời điểm chuẩn bị xây dựng chương trình thử
nghiệm).
- Nội dung đánh giá: chỉ tập trung đánh giá các vấn đề liên quan và có tác
động đến tình hình xả thải nước thải của các cơ sở được lựa chọn
19
- Về địa bàn triển khai: Theo thống kê của sở KHCNMT Hà Nội tại thời điểm
này thì trên địa bàn Hà Nội có 9 khu công nghiệp là: Minh Khai – Vĩnh Tuy,
Trương Định – Đuôi Cá, Văn Điển – Pháp Vân, Thượng Đình, Cầu Diễn –
Nghĩa Đô, Gia Lâm – Yên Viên, Đông Anh, Chèm, Cầu Bươu. Trong số đó
có 2 khu công nghiệp lớn nhất là Minh Khai – Vĩnh Tuy và Thượng Đình với
sự tập trung của khoảng 47,7% các cơ sở sản xuất của Hà Nội tại đây và mỗi
năm tạo nên 75% tổng sản lượng công nghiệp của toàn thành phố (Xem bảng
2 về phân bố các cơ sở công nghiệp trên địa bàn Hà Nội). Do vậy dự án đã
quyết định lựa chọn các doanh nghiệp tham gia chủ yếu tập trung ở 4 khu
công nghiệp chính là Thượng Đình, Minh Khai – Vĩnh Tuy, Văn Điển –
Pháp vân và Cầu Bươu.
Bảng 2: Phân bố các cơ sở công nghiệp trên địa bàn Hà Nội
Ngành công nghiệp
Số cơ sở công nghiệp
Thuộc 4 khu CN
được lựa chọn
Thuộc 9 khu
CN hiện có

Trên toàn
thành phố
1. Các cơ sở có hơn 100 công nhân
Chế biến thực phẩm và đồ
uống
13 22 39
Dệt nhuộm 11 18 24
Hoá chất 15 - 53
Giấy và bột giấy - - 10
Cơ khí 10 - 79
Da giầy - - 13
2. Các cơ sở có từ 50 đến 100 công nhân
Chế biến thực phẩm và đồ
uống
9 12 12
Dệt nhuộm 0 0 1
Hoá chất 0 - 10
Giấy và bột giấy 0 - 2
Cơ khí 0 - 7
Da giầy 0 - 0
3. Các cơ sở công nghiệp có dưới 50 công nhân
Chế biến thực phẩm và đồ
uống
- 2 2
Dệt nhuộm - 0 1
Hoá chất - - 8
Giấy và bột giấy - - 6
Cơ khí - - 3
Da giầy - - 1
4.2.1.3. Các bước tiến hành:

20
Do đây là lần đầu tiên thử nghiệm áp dụng chương trình phổ biến thông tin
môi trường ở Việt Nam theo cách tiếp cận mới nên Ban quản lý dự án SICEIM đã
nghiên cứu rất chi tiết kinh nghiệm thực thi ở các nước trong vùng cũng như thực
trạng ô nhiễm công nghiệp trên địa bàn Hà Nội để có thể khoanh vùng đối tượng
tham gia, xác định mục tiêu, các hoạt động và những kết quả dự kiến sẽ thu được từ
chương trình thử nghiệm này. Để chuẩn bị cho việc xây dựng và thiết kế chương
trình, nhiều hội thảo khoa học đã được tổ chức để giới thiệu, truyền bá về mô hình
quản lý mới này đồng thời thu thập các ý kiến tư vấn của các nhà khoa học, quản lý
ở các ngành, các cấp phục vụ cho việc thiết kế chương trình và thử nghiệm triển
khai ở Hà Nội.
Hình dưới đây trình bày sơ đồ các bước tiến hành chương trình thử nghiệm
phổ biến thông tin môi trường cho cộng đồng trong 2 năm từ tháng 1/2001 đến hết
tháng 12/2002.
A. Giới thiệu và truyền bá về cách tiếp cận mới trong quản lý môi trường
Với mục tiêu giới thiệu và truyền bá về cách tiếp cận mới “Sử dụng phổ biến
thông tin môi trường cho cộng đồng như một công cụ hỗ trợ quản lý bảo vệ môi
21
Chuẩn bị triển khai
(1/2001-8/2001)
Xây dựng hệ thống phân hạng
Giới thiệu và truyền bá về
cách tiếp cận mới
Lựa chọn các đối tượng tham
gia chương trình thử nghiệm
Lựa chọn các tiêu chí phân hạng
Xây dựng chiến lược truyền thông
Triển khai chương
trình thử nghiệm
(8/2001-12/2002)

Chuẩn bị các cơ sở pháp lý cần thiết
Quan trắc - Khảo sát thu thập thông tin
Đánh giá phân hạng các cơ sở
Tổ chức các chiến dịch truyền thông
Công bố chính thức các kết quả phân hạng
Hỗ trợ các cơ sở tham gia chương trình cải
thiện công tác bảo vệ môi trường
Giai đoạn 1
8/2001-12/2001
Giai đoạn 2
1/2002-6/2002
Giai đoạn 3
6/2002-12/2002
Tham gia thực hiện
- Các cơ quan quản lý,- Các nhà khoa
học, - Các doanh nghiệp,- UBND các
cấp
C¸c
Tham gia thực hiện:
- Các cơ quan quản lý
- UBND các cấp
- Các cơ sở sản xuất, kinh
doanh
- Các cộng đồng dân cư
- Các nhà khoa học
- Các cơ quan thông tấn,
báo chí
trường”, Cục Môi trường cũng đã phối hợp với Ngân hàng Thế giới tổ chức dịch
sang tiếng Việt và xuất bản cuốn sách “Xanh hoá công nghiệp”, một báo cáo nghiên
cứu đánh giá của Ngân hàng Thế giới về kinh nghiệm triển khai các hoạt động phổ

biến thông tin môi trường cho cộng đồng ở các nước khác nhau trên thế giới. Báo
cáo này được phổ biến rộng rãi tới tất cả các sở KHCNMT trước đây ở 61 tỉnh
thành, các cơ quan quản lý môi trường ở các bộ/ngành, các nhà khoa học và được
đưa lên trang web của Cục Môi trường.
Để chuẩn bị cho việc triển khai thực thi chương trình thử nghiệm và lấy ý
kiến tư vấn nhằm thiết kế, xây dựng chương trình thử nghiệm này, trong thời gian
từ tháng 5 đến tháng 10 năm 2001, Cục Môi trường đã phối hợp với các cơ quan
liên quan tổ chức 3 hội thảo về các chủ đề liên quan và tổ chức giới thiệu rộng rãi
về dự án cũng như các mục tiêu của chương trình thử nghiệm. Có khoảng hơn 200
đại biểu là đại diện cho các cơ quan quản lý, một số sở KHCNMT và các cơ quan
nghiên cứu, khoa học, đại diện các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội đã tham gia
thảo luận về các vấn đề liên quan và đóng góp ý kiến cho nhóm tư vấn thiết kế và
xây dựng chương trình thử nghiệm ở Hà Nội.
B. Xây dựng hệ thống phân hạng
Mục đích của hệ thống phân hạng này là đánh giá nỗ lực của các nhà máy
trong công tác phương ngừa và cải thiện tình trạng ô nhiễm nước dựa trên việc phân
tích các kết quả quản trắc việc tuân thủ TCVN 5945-1995 đối với một số thông số ô
nhiễm nước và các thông tin liên quản để phân hạng các cơ sở theo kết quả BVMT.
Kết quả phân hạng này sẽ được thông báo rộng rãi cho cộng đồng trên các phương
tiện truyền thông đại chúng.
Các thứ hạng: Trong hệ thống phân hạng này, nhóm tư vấn đã đề xuất phân
hạng các cơ sở theo 5 bậc gồm: Xuất sắc, Khá, Đạt, Chưa đạt, Kém. Để cho dễ
hiểu và gần gũi với văn hóa Việt Nam, trong các chiến dịch phổ biến thông tin, năm
thứ hạng trên sẽ được thể hiện dới dạng gán màu như sau:
CƠ SỞ
XUẤT SẮC
CƠ SỞ KHÁ CƠ SỞ ĐẠT
CƠ SỞ
CHƯA ĐẠT
CƠ SỞ KÉM

Màu Vàng
Màu xanh
lục
Màu xanh da
trời
Màu đỏ Màu đen
Các nguyên tắc xây dựng hệ thống đánh giá phân hạng cho chương trình thử
nghiệm ở Hà Nội:
- Phương pháp đánh giá phân hạng phải khoa học, chính xác, mang tính định
lượng cao, có nghĩa là việc đánh giá phải mang tính khách quản, dựa trên
những nguồn thông tin và dữ liệu chính xác, đáng tin cậy.
- Phương pháp đánh giá đơn giản, dễ thực thi.
- Học tập phương pháp đánh giá phân hạng của các nước khác, đặc biệt là các
nước trong khu vực như Trung Quốc, Philipin, Thái Lan và Inđônêxia.
22
Các nguyên tắc trên được nhóm tư vấn nêu ra dựa trên một số điều kiện thực tế
củaViệt Nam là:
- Rất ít các cơ sở sản xuất tự tiến hành quan trắc môi trường,
- Kinh phí dành cho hoạt động quản trắc tuân thủ của các cơ quản quản lý môi
trường quá hạn hẹp,
- Nhận thức chung của cộng đồng về các vấn đề môi trường còn chưa cao,
- Sự nhạy cảm của các vấn đề môi trường do phải cố gắng cân bằng giữa các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và các mục tiêu BVMT.
Phương pháp luận xây dựng hệ thống đánh giá phân hạng cho chương trình
thử nghiệm ở Hà Nội.
Chín tiêu chí được lựa chọn để đưa vào hệ thống đánh giá phân hạng như
trình bày trong sơ đồ là kết quả đợc rút ra từ nhiều cuộc thảo luận tại các hội thảo
chuyên ngành do Dự án SICEIM tổ chức từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2001. Trong
hệ thống phân hạng này, nhóm tư vấn đã cố gắng học hỏi tối đa kinh nghiệm của
các nước đã áp dụng thành công chng trình phổ biến thông tin môi trường cho cộng

đồng và đồng thời có xem xét đến tình hình trong nước để đảm bảo tính khả thi của
hệ thống. Có nhiều lý do để nhóm tư vấn lựa chọn đưa vào hệ thống đánh giá phân
hạng cho chương trình thử nghiệm ở Hà Nội 9 tiêu chí này, có thể trình bày một
cách tóm tắt như sau:
 Tiêu chí 1 (TC1) "Tuân thủ TCVN 5945-1995": Trong hệ thống này,
nhóm tư vấn chỉ lựa chọn một số thông số đặc trưng để quản trắc tuân thủ là
COD, pH, TSS và độ màu đối với ngành dệt nhuộm và BOD, pH, TSS đối
với ngành chế biến thực phẩm. Vấn đề đặt ra là liệu nh vậy đã đủ đánh giá về
tình trạng tuân thủ TCVN 5945-1995 của cơ sở hay chưa? Theo kinh nghiệm
của các nước khác, một cách lý tưởng thì cần phải tiến hành quản trắc việc
tuân thủ tiêu chuẩn môi trường đối với tất cơ các thông số ô nhiễm theo luật
định. Ví dụ nh Trung Quốc, Philippin tiến hành quản trắc tuân thủ tiêu chuẩn
môi trường cho tất cả các thông số ô nhiễm theo luật định (khoảng gần 100
thông số cho cơ môi trường không khí và nước). Tuy nhiên, việc quản trắc
tuân thủ tiêu chuẩn môi trường của tất cơ các thông số theo luật định chắc
chắn sẽ đòi hỏi các cơ quản quản lý môi trường phải chi một khoản kinh phí
khổng lồ cho hoạt động này. Trong điều kiện hạn chế về nhân lực và tài
chính của các cơ quản quản lý của Việt Nam như hiện tại, việc chỉ lựa chọn
quản trắc việc tuân thủ TCVN5945-1995 đối với một số thông số quản trọng
theo như đề xuất của các chuyên gia tư vấn của Dự án SICEIM là hợp lý và
có tính khả thi cao nhất.
 Tiêu chí 2 (TC2) "Khiếu tố": Là tiêu chí thể hiện sự đánh giá của quần
chúng về nỗ lực BVMT của cơ sở. Nếu cơ sở bị cộng đồng khiếu tố về vấn
đề môi trường, như vậy rất có thể cơ sở đã không thực hiện tốt các biện pháp
BVMT và gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến các cộng đồng xung
quanh. Ở đây, "khiếu tố" được hiểu là khiếu tố đã được cơ quan quản lý có
thẩm quuyền xác định là đúng.
23
 Tiêu chí 3 (TC3) "Sự cố môi trường trong 6 tháng gần đây": Là tiêu chí
đánh giá một cách khách quản nỗ lực BVMT của cơ sở. Nếu cơ sở đã để xảy

ra sự cố môi trường thì có thể là do yếu kém trong quản lý và thiếu ý thức
BVMT. Sự cố môi trường được hiểu là sự cố môi trường đã được xác nhận
bởi một cơ quản quản lý có thẩm quuyền.
 Tiêu chí 4 (TC4) "Hệ thống xử lý nước thải": Trong hệ thống phân hạng
này, không phân biệt hệ thống xử lý nước thải là tự động, bán tự động hoặc
thủ công, miễn là cơ sở có ý thức trong việc xử lý nước thải và có đầu tư xây
dựng hệ thống này thì coi như đạt được tiêu chí này.
 Tiêu chí 5 (TC5) "Tự quan trắc môi trường và có hệ thống thông tin
tốt": Các cơ sở đạt được tiêu chí này là các cơ sở có thực hiện yêu cầu tự
giám sát môi trường hàng năm theo như quyết định phê chuẩn báo cáo ĐTM,
có hệ thống lưu trữ tốt các số liệu quản trắc và báo cáo định kỳ cho Sở
KHCN&MT Hà Nội.
 Tiêu chí 6 (TC6) "Đo khối lượng nước sử dụng": Đánh giá ý thức tiết
kiệm tài nguyên của cơ sở. Ngoài ra, tiêu chí này còn được đưa vào nhằm
mục tiêu giúp các chuyên gia phân tích số liệu suy ra được tải lượng ô
nhiễm, dựa vào đó có thể đưa ra các kết luận chính xác hơn để phân hạng cơ
sở.
 Tiêu chí 7 (TC7) "Hợp tác của nhà máy": Đánh giá ý thức tuân thủ luật
pháp về BVMT của cơ sở thông quảa thái độ hợp tác của cơ sở với các cơ
quản quản lý môi trường. Các cơ sở đạt được tiêu chí này nếu ban giám đốc
sẵn sàng tham gia chương trình thử nghiệm và hỗ trợ các cán bộ nghiên cứu,
cán bộ quản lý đến cơ sở tiến hành các điều tra, khảo sát hoặc đo đạc để thu
thập những thông tin cần thiết phục vụ cho việc đánh giá phân hạng cơ sở.
 Tiêu chí 8 (TC8) "Hàng năm có đánh giá sản xuất sạch hơn": Các cơ sở
được đánh giá là đạt được tiêu chí này nếu họ áp dụng toàn bộ hoặc từng
phần chương trình sản xuất sạch hơn thể hiện dưới các hình thức như: có đầu
tư thay đổi công nghệ sạch nhằm hạn chế ô nhiễm; cải tổ và áp dụng các biện
pháp quản lý mới nhằm tiết kiệm các nguồn tài nguyên và hạn chế tối đa việc
phát thải các chất gây ô nhiễm.
 Tiêu chí 9 (TC9) "chương nhận ISO 14.000".

Với cách phân hạng hình cây như trình bày trong hình vẽ dưới đây, có thể sẽ
có nhiều ý kiến cho ràng việc xem xét TC1 đầu tiên để phân hạng các cơ sở sang
nhóm đạt (gồm 3 phân hạng Đạt, Khá và Xuất sắc) hoặc không Đạt (gồm các phân
hạng Chưa đạt và Kém) là hơi khắt khe hoặc nhiều người sẽ lo ngại rằng trong điều
kiện hiện nay, nếu áp dụng cách phân hạng này thì sợ rằng sẽ có rất ít doanh nghiệp
được xếp sang nhóm đạt, liệu như vậy có ảnh hưởng đến việc đánh giá hiệu quả
chương trình thử nghiệm hay không? Tuy nhiên, cũng cần phải nhận rõ ràng, TC1
là tiêu chí đánh giá một cách định lượng nhất việc tuân thủ luật pháp về BVMT của
cơ sở. Việc xếp TC1 lên hàng đầu để đánh giá cũng đảm bảo tính công bằng cho
các cơ sở vì đây là tiêu chí duy nhất có thể định lượng được và thể hiện tình trạng
tuân thủ pháp luật của cơ sở.
24
Bng din gii h thng xp loi mụi trng cụng nghip H Ni

Tiờu chớ Din gii
1
Sự tuân thủ theo các tiêu chuẩn MT của
các nhà máy công nghiệp.
Nồng độ các chất ô nhiễm chính của mỗi cửa xả
thỏa mãn tiêu chuẩn với tỷ lệ số mẫu đạt trên 80%
hoặc nồng độ trung bình của các chất ô nhiễm
chính của mỗi cửa xả đều đạt tiêu chuẩn. Tỷ lệ loại
bỏ chất thi nguy hại đạt 100%.
2
Sự khiếu tố của cộng đồng Từ một lần khiếu tố tin cậy trở lên, gây tác động
thiệt hại trực tiếp tới môi trờng và cộng đồng.
3
Các sự cố môi trờng do nhà máy gây ra Từ một lần xẩy ra sự cố trở lên, gây tác động thiệt
hại trực tiếp tới môi trờng và cộng đồng.
4

Hệ thống xử lý nớc thải (HTXLNT =
WTP)
Có trạm xử lý nớc thai, vận hành thờng xuyên và
theo đúng qui trình, quảy phạm, hay hớng dẫn;
Thực hiện đầy đủ quan trắc môi trờng nh trong báo
cáo ĐTM đã thẩm định.
5
Thực hiện quan trắc môi trờng và có hệ
thống thông tin tốt
Thực hiện đầy đủ quan trắc môi trờng nh trong báo
cáo ĐTM đã thầm định hay trong phiếu đăng ký đạt
tiêu chuẩn môi trờng.
6
Đo lợng nớc sử dụng của nhà máy Có đồng hồ đo lu lợng hay có số liệu tin cậy về lợng
nớc tiêu thụ. Trên cơ sở lợng nớc tiêu thụ và lợng n-
ớc thải ra, xác định hiệu suất sử dụng nớc: E=(Qn -
Qt)/Qn => 1 càng tốt. Trong đó: Qn: lợng nớc cấp;
Qt: lợng nớc thải.
7
Sự hợp tác của nhà máy Tự giác và tình nguyện phối hợp, hợp tác với các cơ
quan quản lý nhà nớc hay cơ quan NCKH về MT.
8
Nhà máy có áp dụng sản xuất sạch hơn Có chơng trình sản xuất sạch hơn, hàng năm thực
hiện từng bớc theo chơng trình đã định.
9
Có ISO 14.000 Đã quả kiểm tra chất lợng về hệ thống QLMT theo
ISO 14.000 và đợc chứng nhận khen thởng đạt ISO
14.000.
25

×