Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Giải pháp tăng doanh thu, giảm chi phí nhằm tăng lợi nhuận tại công ty Hiệp Hưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 79 trang )

Chương I: Lý luận cơ bản về doanh thu, chi phí và lợi nhuận
doanh nghiệp.
1.1. Chi phí của doanh nghiệp
Mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản
cho các chủ sở hữu. Bởi vậy, doanh nghiệp phải bỏ ra những khoản chi phí
nhất định trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh. Tuỳ theo loại
hình kinh doanh của doanh nghiệp mà tỷ trọng các bộ phận chi phí có thể
không giống nhau và cũng tuỳ theo cách tiếp cận khác nhau, người ta có
thể xem xét các loại chi phí dưới các giác độ khác nhau.
1.1.1. Chi phí sản xuất và chi phí tiêu thụ sản phẩm.
a. Chi phí sản xuất của doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải tiêu hao các
loại vật tư, nguyên vật liệu, hao mòn máy móc thiết bị, trả công cho người
lao động v.v…Do vậy, có thể hiểu chi phí sản xuất của một doanh nghiệp
là biểu hiện bằng tiền của tất cả các hao phí về vật chất và về lao động
doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định.
Các chi phí này phát sinh có tính thường xuyên và gắn liền với quá trình
sản xuất sản phẩm. Do đặc điểm của chi phí sản xuất là chi phí hàng ngày
gắn liền với từng vị trí sản xuất, từng loại sản phẩm và từng loại hoạt động
sản xuất kinh doanh, việc tổng hợp, tính toán chi phí sản xuất cần được tiến
hành trong từng khoảng thời gian nhất định, không phân biệt các sản phẩm
sản xuất đã hoàn thành hay chưa. Để quản lý và kiểm tra chặt chẽ việc thực
hiện các định mức chi phí, tính toán được kết quả tiết kiệm chi phí ở từng
bộ phận sản xuất và toàn doanh nghiệp, kiểm tra và phân tích quá trình phát
sinh chi phí và hình thành giá thành sản phẩm, ta cần phân loại chi phí sản
xuất. Thông thường, ta có thể phân loại chi phí sản xuất như sau:
Thứ nhất: Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố, tức là sắp xếp các chi
phí có cùng tính chất kinh tế vào mỗi loại, mỗi loại là một yếu tố chi phí,
theo cách phân loại này chi phí sản xuất bao gồm 3 nhóm yếu tố sau:
• Chi phí vật tư (nguyên vật liệu trực tiếp)
• Lương công nhân trực tiếp


• Chi phí sản xuất chung
Thứ hai: Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục tính giá thành.
Cách phân loại này dùa vào công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh
của chi phí để sắp xếp chi phí thành những khoản mục nhất định, qua đó
phân tích tác động của từng khoản mục chi phí đến giá thành.
Thứ ba: Phân loại chi phí sản xuất thành chi phí cố định và chi phí
biến đổi. Để quản lý tốt chi phí, ngoài phân loại chi phí các doanh nghiệp
cần phải xem xét cơ cấu chi phí sản xuất để định hướng thay đổi tỷ trọng
mỗi loại chi phí sản xuất. Cơ cấu chi phí sản xuất là tỷ trọng giữa các yếu
tố chi phí trong tổng số chi phí sản xuất. Các doanh nghiệp trong cùng một
ngành và giữa các ngành khác nhau có cơ cấu chi phí sản xuất khác nhau.
Cơ cấu chi phí sản xuất chịu tác động của nhiều nhân tố như: Loại hình và
quy mô sản xuất của từng doanh nghiệp, trình độ kỹ thuật, trang thiết bị,
điều kiện tự nhiên, công tác tổ chức, năng lực quản lý, trình độ tay nghề
của công nhân v v…
Nghiên cứu cơ cấu chi phí sản xuất nhằm:
+ Xác định tỷ trọng và xu hướng thay đổi của từng yếu tố chi phí sản
xuất.
+ Kiểm tra giá thành sản xuất và có biện pháp hạ giá thành sản phẩm.
b. Chi phí tiêu thụ sản phẩm.
Đối với các doanh nghiệp, tiêu thụ sản phẩm là hết sức quan trọng.
Khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ ảnh hưởng quyết định tới quy mô
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để thực hiện tiêu thụ sản phẩm,
doanh nghiệp cũng phải bỏ những chi phí nhất định.
Chi phí lưu thông sản phẩm bao gồm: Chi phí trực tiếp tiêu thụ sản
phẩm, chi phí hỗ trợ marketing và phát triển.
Chi phí trực tiếp tiêu thụ sản phẩm bao gồm: Chi phí chọn lọc, đóng
gói: chi phí bao bì, vận chuyển, bảo quản, chi phí thuê kho bến bãi…
Chi phí hỗ trợ marketing và phát triển bao gồm: chi phí điều tra
nghiên cứu thị trường; chi phí quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, chi phí bảo

hành sản phẩm…Tỷ trọng của chi phí này có xu hướng tăng trong điều kiện
nền kinh tế thị trường phát triển.
c. Giá thành sản phẩm.
Nghiên cứu chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chưa cho biết lượng
chi phí cần thiết để hoàn thành sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm hoặc
một đơn vị sản phẩm nhất định. Mặt khác, trong hoạt động sản xuất kinh
doanh khi quyết định lùa chọn phương án kinh doanh một loại sản xuất nào
đó, doanh nghiệp cần phải tính đến lượng chi phí bỏ ra để sản xuất và tiêu
thụ một sản phẩm hoặc một khối lượng sản phẩm đó. Do vậy, doanh nghiệp
cần phải xác định giá thành sản phẩm.
"Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí của doanh
nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất hoặc để sản xuất và tiêu thụ một
loaoị sản phẩm nhất định".
Giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất có sự giống nhau và khác
nhau: Chi phí sản xuất hợp thành giá thành sản phẩm, nhưng không phải
toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đều được tính vào giá thành sản
phẩm trong kỳ. Giá thành sản phẩm phản ánh lượng chi phí để hoàn thành
sản xuất hoặc sản xuất và tiêu thụ 1 đơn vị hay 1 khối lượng sản phẩm nhất
định, còn chi phí sản xuất và lưu thông sản phẩm thể hiện số chi phí mà
doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong một thời kỳ nhất
định (thường là một năm).
Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, có thể phân biệt giá
thành sản xuất và giá thành tiêu thụ sản phẩm. Giá thành sản xuất sản phẩm
(đối với xây dựng là giá thành thi công) bao gồm toàn bộ chi phí bỏ ra để
hoàn thành việc sản xuất sản phẩm. Giá thành tiêu thụ sản phẩm còn được
gọi là giá thành toàn bộ sản phẩm bao gồm toàn bộ chi phí để hoàn thành
cả sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Trên giác độ kế hoạch hoá, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
được phân biệt thành giá thành kế hoạch và giá thành thực tế.
Các doanh nghiệp hoạt động luôn phải quan tâm tới việc giảm chi phí,

hạ giá thành sản phẩm. Hạ giá thành sản phẩm là điều kiện cơ bản để doanh
nghiệp thực hiện totó tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp có thể hạ giá bán để
tiêu thụ sản phẩm và thu hồi vốn nhanh. Đồng thời, hạ giá thành là yếu tố
quan trọng để tăng lợi nhuận.
Hạ giá thành sản phẩm trong kỳ được xác định cho những sản phẩm
so sánh được thông qua 2 chỉ tiêu: mức giảm giá thành và tỷ lệ hạ giá thành
sản phẩm. Riêng đối với sản phẩm xây dựng cơ bản, người ta chỉ so sánh
giá thành thực tế với giá thành kế hoạch hoặc giá thành dự toán của khối
lượng sản phẩm trong cùng một kỳ.
Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của
doanh nghiệp.
- Sù tiến bộ của khoa học - kỹ thuật và công nghệ.
- Tổ chức lao động khoa học và chiến lược sử dụng lao động.
- Tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính.
1.1.2. Chi phí hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
* Khái niệm: Chi phí hoạt động kinh doanh bao gồm các chi phí có
liên quan đến quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Đây cũng là một cách tiếp cận phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
* Phân loại: Dùa vào các yếu tố chi phí, chi phí hoạt động kinh doanh
được chia thành các loại sau:
- Chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực (gọi tắt là chi phí vật
tư). Chi phí vật tự phụ thuộc vào 2 yếu tố là mức tiêu hao vật tư và giá vật
tư.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định (KHTSCĐ). Chi phí khấu hao tài
sản cố định được xác định dùa vào nguyên giá TSCĐ cần tính khấu hao và
tỷ lệ tính KHTSCĐ.
- Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương.
- Chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài.
- Thuế và các chi phí khác.

Dùa vào nội dung các yếu tố chi phí: chi phí hoạt động kinh doanh
được chia thành các khoản mục chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
Chi phí sản xuất trực tiếp bao gồm:
- Chi phí vật tư trực tiếp: là chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu sử dụng
trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ.
- Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương, tiền công, các
khoản trích nép bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của công nhân trực tiếp tạo
ra sản phẩm và dịch vụ.
- Chi phí sản xuất chung: là chi phí sử dụng chung cho hoạt động sản
xuất, chế biến của phân xưởng (bộ phận kinh tế) trực tiếp tạo ra sản phẩm
và dịch vụ như: chi phí vật liệu, công cụ lao động nhỏ, khấu hao TSCĐ
thuộc phân xưởng (bộ phận kinh doanh), tiền lương, các khoản trích bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của nhân viên phân xưởng (bộ phậnkd) theo quy
định, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền phát sinh ở phân
xưởng (bộ phận kinh doanh).
* Giá thành sản xuất:
Giá thành sản xuất = = + +
= = - -
* Giá vốn hàng bán.
Giá vốn hàng bán = +
= -
Riêng đối với doanh nghiệp thương mại.
= = +
= -
* Chi phí bán hàng: gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ
sản phẩm hàng hoá và dịch vụ như: tiền lương, các khoản phụ cấp phải trả
cho nhân viên bán hàng, tiếp thị, đóng gói, bảo quản, khấu hao tài sản cố
định, chi phí vật liệu, bao bì, dụng cụ, đồ dùng, chi phí dịch vụ mua ngoài,
chi phí bảo hành, quảng cáo.
* Chi phí quản lý doanh nghiệp: Bao gồm các chi phí quản lý kinh

doanh, quản lý hành chính và các chi phí chung khác có liên quan tới toàn
bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: tiền lương và các khoản
phụ cấp trả cho ban giám đốc và nhân viên quản lý ở các phòng ban, chi
phí vật liệu để dùng cho văn phòng, khấu hao tài sản cố định dùng chung
cho doanh nghiệp, các khoản thuế, lệ phí, bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua
ngoài thuộc văn phòng doanh nghiệp và các chi phí khác chung cho toàn
doanh nghiệp như lãi vay, dự phòng, phí kiểm toán, tiếp tân, tiếp khách,
công tác phí…
1.1.3. Chi phí hoạt động tài chính và chi phí hoạt động bất thường.
Chi phí hoạt động tài chính bao gồm: là các khoản chi phí và các
khoản lỗ có liên quan đến hoạt động đầu tư tài chính, bao gồm:
- Chi phí hoạt động liên doanh liên kết
- Chi phí thiệt hại do kinh doanh thua lỗ
- Chi phí mua bán chứng khoán
- Chi phí của quá trình đầu tư kinh doanh bất động sản, thuê tài sản.
- Lãi phải trả về vay vốn đầu tư tài chính
- Trích thêm số chênh lệch về dự phòng giảm giá đầu tư tài chính.
Chi phí hoạt động bất thường bao gồm: là những khoản chi phí phát
sinh khách quan khi xây dựng kế hoạch tài chính doanh nghiệp chưa tính
đến, chẳng hạn như:
- Giá trị còn lại của tài sản cố định khi thanh lý, nhượng bán.
- Chi phí về thanh lý, nhượng bán tài sản cố định.
- Bị phạt do vi phạm hợp đồng
- Bị phạt truy nép thuế.
- Các khoản chi phí kế toán ghi nhầm hay bỏ sót khi vào sổ.
- Chênh lệch phải thu khó đòi và dự phòng phải thu khó đòi không
đủ hoặc khoản thu khó đòi mất ngay chắc chắn khi chưa lập dự
phòng.
1.2. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm và thu nhập của doanh nghiệp.
1.2.1. Tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm.

Tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được coi là hoạt động xuất bán
sản phẩm cho đơn vị mua để nhận được số tiền và sản phẩm đó. Như vậy,
việc lùa chọn thời điểm để xác định qúa trình tiêu thụ hoàn thành là một
trong những khâu quan trọng liên quan đến rất nhiều vấn đề khác trong
hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp như: công tác quản lý thu thuế,
quản lý tiền mặt, quản lý khoản phải thu…
Quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được coi là hoàn thành
khi doanh nghiệp nhận được sự chấp nhận trả tiền của bên mua hàng.
Việc lùa chọn thời điểm này, một mặt giúp công tác quản lý thu thuế
của cơ quan thuế được dễ dàng, tiện lợi và mặt khác, cũng thúc đẩy các
doanh nghiệp nhanh chóng hoàn thành việc thu tiền đảm bảo vốn cho chu
kỳ kinh doanh tiếp theo.
Khi hoàn thành việc tiêu thụ sản phẩm cũng có nghĩa là doanh nghiệp
có doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Doanh thu của doanh nghiệp là số tiền mà
khách hàng chấp nhận trả. Đây là bộ phận thường chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng doanh thu của doanh nghiệp. Như vậy việc tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp luôn gắn chặt chẽ với tình hình biến động của thị trường.
Điều đó cho thấy: việc lùa chọn sản phẩm kinh doanh, chọn thị trường tiêu
thụ, việc chọn thời điểm tiêu thụ cũng như các quyết định về giá cả của
doanh nghiệp liên quan chặt chẽ đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm và thu
nhập của doanh nghiệp.
1.2.2. Doanh thu của doanh nghiệp.
Căn cứ vào nguồn hình thành, doanh thu của doanh nghiệp bao gồm:
- Doanh thu từ hoạt động kinh doanh
- Doanh thu từ hoạt động tài chính
- Doanh thu từ hoạt động bất thường
Doanh thu của doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với toàn bộ hoạt
động của doanh nghiệp, nó là nguồn để doanh nghiệp trang trải các chi phí,
thực hiện tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng, thực hiện nghĩa vụ
với Nhà nước.

Đối với các loại hình hoạt động với các hoạt động khác nhau, doanh
thu cũng khác nhau.
Đối với các cơ sở sản xuất, khai thác, chế biến…Doanh thu là toàn bộ
tiền bán sản phẩm, nửa thành phẩm, bao bì, nguyên vật liệu.
Đối với ngành xây dựng: Doanh thu là giá trị công trình hoàn thành
bàn giao.
Đối với ngành vận tải: Doanh thu là tiền cước phí.
Đối với ngành thương nghiệp, ăn uống: Doanh thu là tiền bán hàng.
Đối với hoạt động đại lý, uỷ thác: Doanh thu là tiền hoa hồng.
Đối với ngành kinh doanh dịch vụ: Doanh thu là tiền bán dịch vụ.
Đối với hoạt động kinh doanh tiền tệ: Doanh thu là tiền lãi.
Đối với hoạt động bảo hiểm: Doanh thu là phí bảo hiểm
Đối với hoạt động cho thuê: Doanh thu là tiền thuê.
Đối với hoạt động biểu hiện văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao:
Doanh thu là tiền bán vé.
1.2.3. Thu nhập hoạt động tài chính và thu nhập bất thường.
Thu nhập hoạt động tài chính là số tiền thu được từ các hoạt động đầu
tư tài chính hợc kinh doanh về vốn. Thu nhập hoạt động tài chính bao gồm:
- Thu về khoản đầu tư mua bán chứng khoán
- Thu về hoạt động đầu tư liên doanh
- Thu về hoạt động kinh doanh bất động sản
- Thu về đầu tư cho vay
- Thu về cho thuê tài sản cố định dài hạn
- Thu về khoản chênh lệch bán ngoại tệ
- Thu từ tiền lãi do bán trả góp
- Thu từ việc hoàn nhập khoản chênh lệch dự phòng, giảm giá đầu tư
tài chính.
Thu nhập hoạt động bất thường là khoản thu nhập không tính đến
trong kỳ khi xây dựng kế hoạch tài chính nhưng trên thực tế vẫn phát sinh,
gồm:

- Thu từ thanh lý, nhượng bán tài sản cố định.
- Thu tiền phạt, bồi thường do khách hàng vi phạm hợp đồng, kỷ
luật.
- Thu ở khoản nợ khó đòi đã xử lý ở kỳ trước, các khoản thu nhập
kinh doanh năm trước bỏ sót năm nay mới phát hiện.
- Tài sản thừa chờ giải quyết được xử lý
- Hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho và phải thu khó đòi.
1.3. Lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.3.1. Khái niệm và bản chất của lợi nhuận.
a. Quan điểm về lợi nhuận.
Trong học thuyết giá trị thặng dư C. Mác là người******* gốc lợi
nhuận. Lợi nhuận của doanh nghiệp, địa tô của điền chủ, lợi tức của tiền
cho vay đều là các hình thức chuyển hoá của giá trị thặng dư. Trước Marx,
các nhà kinh tế cổ điển Anh từ A. Smith đến D. Ricardo đều mới dừng lại ở
thuyết tiền công mà chưa đưa ra được một luận chứng về lợi nhuận.
* Phái trọng thương cho rằng: "Lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh vực
lưu thông".
* Phái trọng nông lại quan niệm: "Giá trị thặng dư hay sản phẩm thuần
tuý là tặng vật chất của thiên nhiên và nông nghiệp là ngành duy nhất tạo ra
sản phẩm thuần tuý".
Như vậy, cả phái trọng thương và trọng nông chưa chỉ ra được nguồn
gốc của lợi nhuận và chỉ thấy được sự tồn tại của lợi nhuận trong từng lĩnh
vực sản xuất riêng lẻ.
Phái cổ điển như A. Smith là người đầu tiên tuyên bố rằng: "Lao động
là nguồn gốc sinh ra giá trị và giá trị thặng dư" và chính ông lại khẳng định:
"Giá trị hàng hoá bao gồm tiền công, lợi nhuận, địa tô". A. Smith là người
đầu tiên đã nêu được nguồn gốc thật sự của giá trị thặng dư. Còn
D.Ricacdo cho rằng: "Gía trị do lao động của công nhân sáng tạo ra, là
nguồn gốc sinh ra tiền lương cũng là lợi nhuận, địa tô". D. Ricacdo xem lợi
nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công và trước sau nhất quán quan

điểm cho rằng: "Giá trị là do công nhân tạo ra lớn hơn số tiền công mà họ
nhận được". Như vậy cả A. Ricacdo đã không thấy được sự khác nhau giữa
giá trị thặng dư và lợi nhuận.
Robert owen, người đại diện cho chủ nghĩa xã hội không tưởng, phê
phán lợi nhuận, coi đó là một cái gì không đúng đắn, bất công, làm tăng giá
cả và là nguyên nhân chủ yếu của khủng hoảng thừa.
Theo A. Marshall thì "Lợi nhuận là tiền công trả cho năng lực điều
hành và tổ chức hoạt động kinh doanh".
Như vậy, trước K. Marx các nhà kinh tế học có những tư tưởng, quan
niệm rất khác nhau về lợi nhuận.
Kế thừa những gì tinh tuý nhất của những nhà kinh tế học tư sản cổ
điển, kết hợp với việc nghiên cứu sâu sắc nền sản xuất tư bản chủ nghĩa,
đặc biệt là nhờ có lý luận vô giá về giá trị thặng dư được quan niệm là con
đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra mang hình thái biến tướng là lợi nhuận. Theo
K. Marx thì "Giá trị thặng dư hay cái phần trội lên trong toàn bộ giá trị của
hàng hoá, trong đó lao động thặng dư hay lao động không được trả công
của công nhân đã được vật hoá thì gọi là lợi nhuận".
Các nhà kinh tế học hiện đại như P. A. Samuelson và W.D. Nordhaus
cho rằng "Lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra, bằng tổng số thu về trừ
đi tổng chi phí" hay cụ thể hơn "Lợi nhuận do định nghĩa là chênh lệch
giữa tổng thu nhập của một doanh nghiệp và tổng chi phí". Theo David
Begg, Stanley Fisher và Busch thì "Lợi nhuận là lượng dôi ra của doanh thu
so với chi phí".
Tóm lại, xét về mặt lượng thì tất cả các quan điểm đều thống nhất: lợi
nhuận là số thu dôi ra so với số chi phí bỏ ra; lợi nhuận là kết quả tài chính
cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng để
đánh giá hiệu quả hoạt động kinh tế của doanh nghiệp.
b. Nguồn gốc của lợi nhuận.
Lợi nhuận là kết quả, mục tiêu tài chính cao nhất của hoạt động sản
xuất kinh doanh, là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp,

nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vậy lợi nhuận
từ đâu mà có?
Theo kinh tế chính trị tư bản chủ nghĩa, muốn tạo ra một sản phẩm lao
vụ dịch vụ nào thì doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng chi phí nhất định.
Giá trị của sản phẩm được cấu tạo từ:
GT = C + V + M
Trong đó:
C: Giá trị tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trình tạo ra sản phẩm
dịch vụ
V: Tiền lương trả cho công nhân tham gia vào quá trình sản xuất
m: Giá trị mới do lao động sống tạo ra.
Xét ở góc độ doanh nghiệp, để tạo ra sản phẩm dịch vụ thì doanh
nghiệp phải bỏ ra hai bộ phận chính là ( C+ V). Khi (C + V) hay tư bản ứng
trước chuyển thành K (chi phí sản xuất tư bản) thì số tiền nhà tư bản nhận
được trội hơn so với chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi đó giá trị thặng
dư, được coi là kết quả của toàn bộ ứng trước, được gọi là lợi nhuận.
Theo K. Marx nếu hàng hoá được bán ra theo giá trị của nó tức là đã
thực hiện được lợi nhuận. Lợi nhuận đó bằng phần giá trị thừa ra ngoài chi
phí sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên, nhà sản xuất cũng ã thể bánhh dưới giá
trị của nó mà vẫn thực hiện được một giá trị thặng dư hay nói cách khác là
vẫn có lợi nhuận.
Kinh tế học hiện đại dùa vào lý luận về lợi nhuận của K. Marx đã
phân tích khá sâu sắc về nguồn gốc lợi nhuận của doanh nghiệp. Thật vậy,
khi tiến hành sản xuất kinh doanh ai cũng muốn thu được lợi nhuận cao, để
thu được lợi nhuận cao mét doanh nghiệp phải nhìn thấy được những cơ
hộimà người khác bỏ qua, phát hiện ra sản phẩm mới, tìm phương pháp sản
xuất mới tốt hơn để có chi phí sản xuất thấp hoặc phải liều lĩnh, maọ hiểm
hơn mức bình thường. Nhưng nói chung để tiến hành tốt các hoạt động sản
xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận cao nhất thì chi phí thấp nhất là nguồn
gốc để tạo ra và tăng lợi nhuận trong mỗi doanh nghiệp. Ngoài ra có những

doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao nhờ kiểm soát được thị trường, độc
quyền kinh doanh về một loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ nhất định.
Nói tóm lại, lợi nhuận của doanh nghiệp được bắt nguồn từ hai yếu tố:
* Thu từ các nguồn lực chi phí mà doanh nghiệp đã đầu tư cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình.
* Phần thưởng cho sự mạo hiểm, sáng tạo đổi mới trong hoạt động sản
xuất kinh doanh và sự độc quyền trong cung ứng sản xuất hàng hoá dịch
vụ.
1.3.2. Vai trò của lợi nhuận.
Trong nền kinh tế thị trường sôi động hiện hiện nay, lợi nhuận là mối
quan tâm hàng đầu và là động lực của doanh nghiệp. Lợi nhuận ngoài ý
nghĩa là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính, hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, nó còn có vai trò hết sứ quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp nói riêng và đối với nền kinh tế đất nước nói
chung. Có thể khái quát vai trò của lợi nhuận trên các khía cạnh sau:
* Thứ nhất, lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh và là cơ sở để xác định hiệu quả hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là số chênh lệch giữa doanh thu và chi phí bỏ ra. Lợi nhuận
bao gồm doanh thu từ tất cả hoạt động sản xuất kinh doanh chính, phụ, liên
doanh liên kết và các hoạt động khác của doanh nghiệp đem lại mức độ
nhiều hay Ýt của mỗi bộ phận có ảnh hưởng tới tổng hợp lợi nhuận của
doanh nghiệp.
Lợi nhuận đo được từ hoạt động sản xuất kinh doanh lại là kết quả
tổng hợp của tất cả các khâu, từ khâu chuẩn bị sản xuất tới khâu tiêu thụ
sản phẩm, chất lượng của mỗi khâu sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả cuối
cùng. Qua xem xét chỉ tiêu lợi nhuận người ta có thể đánh giá được phần
lớn chất lượng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Thứ hai, lợi nhuận là nguồn tài chính quan trọng để thực hiện tái sản
xuất mở rộng, bù đắp thiệt hại rủi ro trong kinh doanh, thực hiện khuyến

khích vật chất cung xnhư cải thiện đời sống người lao động.
Sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh doanh nghiệp thu được một
khoản lợi nhuận nhất định, một phần của lợi nhuận sẽ dùng để trả lương
cho cán bộ công nhân viên và trích lập các quỹ để bảo hộ đời sống của
người lao động. Người lao động nhận được tiền công vừa đảm bảo cho nhu
cầu vật chất cần thiết cho cuộc sống vừa thực hiện tái sản xuất mở rộng sức
lao động. Doanh nghiệp có lợi nhuận thì thu nhập của người lao động được
đảm bảo. Bên cạnh đó tác dụng của lợi nhuận còn giúp cho doanh nghiệp
mở rộng quy mô sản xuất. Nhờ có vốn bổ sung thêm từ lợi nhuận doanh
nghiệp mới chủ động trong việc đầu tư phát triển kinh doanh cả chiều sâu
lẫn chiều rộng, đầu tư mua sắm máy móc thiết bị mới, ứng dụng công nghệ
mới vào sản xuất kinh doanh, tăng mức vốn lưu động từ đó tăng năng suất
lao động, tăng khối lượng sản xuất, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản
phẩm, phục vụ tối đa nhu cầu của người tiêu dùng và nâng cao khả năng
chiếm lĩnh thị trường. Đối với doanh nghiệp thương mại nhờ có thêm vốn
doanh nghiệp sẽ mở rộng thêm mạng lưới tiêu thụ, tăng khối lượng luân
chuyển, đa dạng chủng loại hàng hoá kinh doanh nhờ vậy mà quy mô kinh
doanh tăng lên. Doanh nghiệp có lợi nhuận cao càng khẳng định vị trí của
doanh nghiệp trên thương trường.
* Thứ ba, đối với toàn bộ nền kinh tế, lợi nhuận của doanh nghiệp còn
là nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước và là cơ sở để tăng thu
nhập quốc dân.
Ở đây, ta lại thấy được vai trò của lợi nhuận không quan trọng đối với
bản thân mỗi doanh nghiệp mà cả xã hội, bởi lẽ mỗi doanh nghiệp không
chỉ hoạt động kinh doanh riêng lẻ, tách rời, mà nó là một mắt xích trong
chuỗi xích liên hệ giữa các doanh nghiệp, giữa con người. Mặt khác, lợi
nhuận còn góp phần tăng thu ngân sách Nhà nước thông qua việc doanh
nghiệp nép thuế thu nhập doanh nghiệp. Nhà nước thu thuế sau đó điều hoà
lợi Ých kinh tế giữa các doanh nghiệp, đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng thêm
các cơ sở sản xuất mới đảm bảo thực hiện tái sản xuất mở rộng trên quy mô

toàn xã hội, giải quyết vấn đề lao động cho nhân dân, bảo hộ cho những
ngành sản xuất chủ chốt.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận.
Vì sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp, đảm bảo chữ tín và hưng
thịnh trong kinh doanh, quan điểm xác định đối với người lãnh đạo, người
quản lý tài chính doanh nghiệp khôn khéo là thu được "lợi nhuận tối ưu".
Với quan điểm đó đòi hỏi doanh nghiệp chấp hành nghiêm túc luật
pháp, đi sâu nghiên cứu các quy luật của cơ chế thị trường và những nhân
tố ảnh hưởng đến lợi nhuận để xác định phương pháp đúng đắn, hữu hiệu,
tận dụng tốt thời cơ nhằm đạt được mức lợi nhuận mong muốn trong kỳ kế
hoạch.
Trong điều kiện sản xuất kinh doanh hiện naym, kết quả sản xuất kinh
doanh của một doanh nghiệp thường bao gồm: kết quả hoạt động kinh
doanh, kết quả hoạt động tài chính và kết quả bất thường. Trong đó kết quả
thu được từ hoạt động kinh doanh vẫn là chỉ tiêu cơ bản, chính vì vậy việc
xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận sẽ là nội dung cơ bản để trên
cơ sở đó phấn đấu tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, cụ thể, ta phải xây
dựng được mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra và doanh thu đạt được sao cho
lợi nhuận thu được tối đa.
* ảnh hưởng của nhân tố doanh thu tiêu thụ sản phẩm đến lợi nhuận.
Kết thúc quá trình sản xuất, sản phẩm được tiêu thụ trên thị trường,
doanh nghiệp thu được một khoản tiền bán hàng, đó là doanh thu tiêu thụ
sản phẩm của doanh nghiệp. Dưới góc độ chu chuyển vốn của doanh
nghiệp, doanh thu tiêu thụ là sự tái tạo vốn kinh doanh đã bỏ ra ban đầu. Về
nguyên lý thì nguồn tái tạo này có đặc điểm là phải luôn luôn lớn hơn số
vốn đã bỏ ra ban đầu và đã được chuyển hoá vào giá thành sản phẩm tiêu
thụ. Đây chính là nguyên tắc cao nhất để bảo toàn và phát triển vốn kinh
doanh và đó cũng là dấu hiệu thành công của doanh nghiệp.
Trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, doanh thu tiêu thụ tỷ
lệ thuận với lợi nhuận của doanh nghiệp, nghĩa là khi doanh thu tiêu thụ

càng lớn sẽ cho ta càng nhiều lợi nhuận và ngược lại. Tuy nhiên doanh thu
lại bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các yếu tố như: thị trường, giá cả, khối lượng
hàng hoá tiêu thụ…và sự biến động của các yếu tố này cũng tác động
không nhỏ đến lợi nhuận.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, chất lượng hàng hoá, sản phẩm,
dịch vụ là nhân tố quan trọng bậc nhất, giữ vai trò quyết định đối với nhân
tố khối lượng và giá cả. Chất lượng tạo nên giá trị sử dụng của hàng hoá,
dịch vụ mà người mua nhận được. Chất lượng được thể hiện trước hết ở
phẩm chất, ngoài ra chất lượng cũng được thể hiện ở kiểu, mốt, màu sắc,
tác dụng của sản phẩm, hàng hoá và sự phù hợp với thị hiếu của người tiêu
dùng.
Thị trường là nơi thể hiện tập trung nhất, đầy đủ nhất mối quan hệ
cung cầu về hàng hoá, vì vậy phương châm sản xuất của doanh nghiệp là
phải hướng ra thị trường và do thị trường quyết định. Để doanh nghiệp có
thể bán được sản phẩm trên thị trường nhà kinh doanh phải thực sự quan
tâm đến chất lượng sản phẩm vì chất lượng sản phẩm luôn gắn liền với uy
tín của doanh nghiệp trong kinh doanh. Đó là con đường làm ăn lâu dài của
doanh nghiệp. Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng cần mở rộng tiếp thị, nhằm
tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất tăng doanh thu và lợi nhuận.
Yếu tố giá bán cũng có quan hệ chặt chẽ với khối lượng doanh thu
tiêu thụ sản phẩm. Giá cả được xác định tuỳ thuộc vào quan hệ cung cầu,
thị hiếu tiêu dùng, ức mua của đồng tiền và tình hình cạnh tranh trên thị
trường. Vì vậy, việc xác định giá bán hợp lý là một giải pháp tốt để tăng
nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, tăng vòng quay vốn. Doanh nghiệp phải
dùa trên cơ sở nghiên cứu thị trường để định đoạt giá cả sao cho bù đắp
được chi phí kinh doanh mà vẫn đảm bảo thu được lợi nhuận, muốn vậy
doanh nghiệp cần phải chủ động tham gia xác định các phương án giá cả,
đề xuất các biện pháp phù hợp với sự diễn biến của tình hình kinh tế, tình
hình thị trường.
Với cơ chế giá cả linh hoạt, trong kinh doanh từng mặt hàng thường

dẫn đến các trường hợp hoặc thời kỳ có lãi hay lãi cao, hoà vốn, lỗ vốn.
Một mặt hàng đem bán ở các thị trường khác nhau, ở những thời điểm khác
nhau và thậm chí ở cùng một thời điểm giá bán ra vẫn có thể khác nhau.
Đối với mặt hàng mới hợp với thị hiếu và thị trường đỏi hỏi lớn, có thểđưa
ra bán giá cao, sau đó bán giá trung bình, đến khi nhu cầu đã được đáp ứng
tương đối thoả mãn hoặc hàng hoá, sản phẩm đã lạc hậu về một…thì phải
bán với giá thấp hơn để đảm bảo vòng quay vốn, thu hồi vốn để chuyển
sang kinh doanh mặt hàng mới. Vì vậy, việc xây dựng chính sách giá cả
cần hết sức mềm dẻo và linh hoạt, không nên đặt giá quá cao vì sẽ không
được người tiêu dùng chấp nhận, dẫn tới hàng bị ứ động, doanh thu giảm;
cũng khôg nên bán hàng với giá quá thấp vì như vậy sẽ làm doanh nghiệp
không thu được nhiều lợi nhuận, thậm chí không đủ bù đắp giá vốn. Do đó,
việc định giá của hàng hoá sản phẩm phải căn cứ vào giá thành, quan hệ
cung cầu trên thị tửờng. Doanh nghiệp phải biết sử dụng giá như một công
cụ để tác động vào cầu, kích thích tăng cầu của người tiêu dùng. Chẳng
hạn, trong khi doanh nghiệp mới khai trương hoặc bị sức Ðp của cạnh
tranh, hàng hoá bị tồn đọng nhiều, doanh nghiệp có thể bán rẻ ở mức nhất
định để kích thích cầu, tăng lượng hàng bán ra. Ngược lại, khi cung cầu
giảm cầu tăng, doanh nghiệp ở vị trí "độc quyền" thì cũng có thể giữ giá
hoặc tăng giá ở mức cần thiết. Nhưng để làm được những điều này doanh
nghiệp luôn luôn cần có những thông tin chính xác về giá cả của hàng hoá.
Thông tin chính xác, phân tích và xử lý thông tin đúng đắn để có những
quyết định đúng thời cơ là một nhân tố quan tọng trong việc kinh doanh
thành công.
Nhằm đảm bảo "chữ tín" trong kinh doanh, vì sự tăng trưởng lâu dài
của doanh nghiệp, nhà quản lý tài chính khôn khéo thường hành động theo
phươngchâm: "Thu lãi lớn trên cơ sở đạt doanh thu cao với giá cả hợp lý
mà người tiêu dùng dễ chấp nhận". Theo phương châm đó, doanh nghiệp
cần phải đưa ra các biện pháp nhằm thu hót khách như: quảng cáo, khuyến
mại…

Về phương diện tài chính, việc đẩy nhanh tốc độ thanh toán, giảm bớt
các khoản nợ phải thu, xử lý tốt các khoản nợ khó đòi cũng là một phương
pháp để đảm bảo thực hiện tốt chỉ tiêu doanh thu. Hơn nữa, có doanh thu
doanh nghiệp mới có nguồn tài chính để trang trải các khoản chi phí đầu
vào, vì vậy doanh nghiệp cần phải thực hiện tốt các khâu thanh toán tiền
bán hàng. Do đó, công tác thanh toán tiền cũng là một nhân tố ảnh hưởng
đến mức doanh thu bán hàng. Nếu công tác này được tiến hành đúng
phương thức, thủ tục sẽ thu được tiền nhanh, tránh được trường hợp bên
mua từ chối chấp nhận thanh toán.
Ngoài ra, công tác tổ chức bán hàng cũng là một nhân tố quan trọng
thúc đẩy kết quả tiêu thụ. Nếu doanh nghiệp tổ chức nhiều hình thức bán
hàng, bán lẻ, bán đại lý, bán qua kho,…tất yếu sẽ tiêu thụ được nhiều hàng
hơn. Việc quảng cáo, chào hàng, giới thiệu sản phẩm, thái độ phục vụ
khách hàng cũng là yếu tố quan trọng làm tăng doanh thu. Bên cạnh đó,
doanh nghiệp cũng cần lùa chọn nguồn hàng thích hợp để tiết kiệm chi phí
đầu vào làm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận.
Qua tìm hiểu, nghiên cứu những phần trên đây cho thấy việc đảm bảo
đẩy mạnh doanh thu đòi hỏi doanh nghiệp phải có trình độ tổ chức quản lý
tốt bởi đó là phần công việc rất quan trọng trong việc tạo nên thu nhập và
lợi nhuận cho doanh nghiệp.
* ảnh hưởng của nhân tố chi phí đến lợi nhuận.
Để thực hiện các mục tiêu kinh doanh của mình, doanh nghiệp phải bỏ
ra những chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh. Cpsx kinh doanh của
doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của các yếu tố phục vụ cho quá trình
sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Chi
phí kinh doanh cũng là biểu hiện của hao phí lao động cá biệt mà doanh
nghiệp phải bỏ ra trong kỳ. Đồng thời, nó là căn cứ để xác định số phải bù
đắp từ thu nhập của doanh nghiệp, chỉ có trên cơ sở bù đắp đầy đủ, kịp thời
chi phí đó mới đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Theo các ngành nghề kinh doanh khác nhau, nội dung cấu thành chi

phí kinh doanh cũng khác nhau. Sự khác nhau đó do đặc điểm sản xuất
kinh doanh của từng doanh nghiệp quyết định. Nhưng nhìn chung thì nội
dung chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được cấu thành bởi ba
bộ phận: chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm và các khoản thuế gián
thu gắn với sản xuất và kinh doanh.
* Chi phí sản xuất:
Chi phí sản xuất được chia thành hai loại là chi phí bất biến và chi phí
khả biến. Chi phí bất biến là chi phí rất Ýt thay đổi khi khối lượng sản
phẩm thay đổi. Ngược lại, cpkhả biến là chi phí thay đổi theo khối lượng
sản phẩm sản xuất ra. Như vậy khi lượng sản phẩm thay đổi sẽ dẫn tới sự
thay đổi của tổng chi phí sản xuất. Tuy nhiên sự tương quan về sự thay đổi
hai thành phần của chi phí sản xuất lại không giống nhau. Lợi dụng đặc
điểm này người ta có thể đưa ra những biện pháp sau đây để giảm chi phí
và tăng lợi nhuận. Một là, phương pháp giảm chi phí tuyệt đối được sử
dụng trong điều kiện giữ nguyên khối lượng sản phẩm ở đầu ra nhưng lại
giảm chi phí bất biến ở đầu vào, thông qua việc sắp xếp lại biên chế, tinh
giản công tác quản lý, phục vụ….Hai là, phương pháp giảm tương đối chi
phí, phương pháp này hướng vào việc đầu tư, tăng chi phí sản xuất ở đầu
vào (chi phí khả biến) nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản
phẩm và do đó đem lại nhiều lợi nhuận.
* Chi phí tiêu thụ:
Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trải qua các khâu: sản xuất
(hoặc mua vào), dự trữ, bán ra. Mọi chi phí trực tiếp, gián tiếp phát sinh
trong tất cả các khâu này đều thuộc chi phí lưu thông hàng hoá. Chi phí lưu
thông hàng hoá là biểu hiện bằng tiền về hao phí vật chất và tiền lương liên
quan đến các khâu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá mà doanh nghiệp phải chi ra
trong thời kỳ nhất định. Nó được bù đắp từ doanh thu trong kỳ và là một bộ
phận chi phí quan trọng trong chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
* Các khoản thuế gián thu:
Thuế là nhân tố khách quan có quan hệ ngược chiều với lợi nhuận của

doanh nghiệp, thuế tăng làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp và ngược
lại. Thật vậy, thuế có ảnh hưởng tới lợi nhuận thông qua thuế suất. Thuế
suất tăng làm chi phí về thuế tăng, dẫn đến giá thành tăng. Khi giá thành
tăng nếu doanh nghiệp tăng giá bán thì lượng hàng hoá tiêu thụ sẽ giảm,
dẫn đến tổng doanh thu giảm, lợi nhuận giảm. Ngoài thuế doanh thu, thuế
xuất khẩu thì thuế nhập khẩu cũng ảnh hưởng không Ýt tới giá bán hàng
hoá, thuế nhập khẩu tăng làm giá vốn hàng bán tăng trong khi giá bán
không tăng do đó làm giảm lợi nhuận. Còn thuế VAT không chỉ làm tăng
giá hàng hoá dịch vụ mà đôi khi với việc khấu trừ thuế, hoàn thuế chậm sẽ
có ảnh hưởng không tốt đến việc quay vòng vốn phục vụ quá trình sản xuất
kinh doanh của công ty.
Các khoản thuế gián thu mà các doanh nghiệp phải nép được coi là
những khoản chi phí của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp cần phải lùa
chọn những phương án đầu tư sản xuất loại hàng hoá nào để được khuyến
khích về thuế hoặc có mức thuế thấp để tăng lợi nhuận.
1.3.4. Xác định lợi nhuận doanh nghiệp.
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của doanh nghiệp trong một
thời kỳ nhất định, là số chênh lệch giữa doanh thu thuần với toàn bộ chi
phí.
Trong nền kinh tế thị trường có sự tham gia của nhiều thành phần kinh
tế và cơ chế hạch toán kinh tế độc lập phạm vi kinh doanh của doanh
nghiệp được mở rộng và yêu cầu quản lý cũng dẫn đến sự phân biệt các bộ
phận lợi nhuận. Nhưng nhìn chung thì lợi nhuận cua doanh nghiệp có thể
phân chia thànhh các bộ phận như sau:
+ Lợi nhuạn hoạt động sản xuất kinh doanh
+ Lợi nhuận hoạt động tài chính
+ Lợi nhuận hoạt động bất thường
* Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
= - - -
Doanh thu bán hàng là giá trị của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ mà

doanh nghiệp đã bán, đã cung cấp cho khách hàng. Giá trị của hàng bán
được thoả thuận và ghi trong hợp đồng kinh tế về mua bán và cung cấp sản
phẩm, hàng hoá, dịch vụ. Doanh thu bán hàng có thể được hoặc chưa thu
được tiền ngay sau khi doanh nghiệp đã cung cấp sản phẩm, hàng hoá, dịch
vụ cho khách hàng.
Doanh thu thuần là doanh thu bán hàng sau khi đã trừ đi các khoản
giảm trừ. Các khoản giảm trừ bao gồm: chiết khấu thanh toán, chiết khấu
thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, các khoản thuế phải
nộp…
Chiết khấu thanh toán là số tiền giảm từ cho người mua vì đã sớm
thanh toán tiền trước thời hạn thoả thuận trong hợp động hoặc vì một lý do
ưu đãi khác. Chiết khấu thương mại là số tiền ưu đãi do khách hàng mua
sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ với số lượng lớn.
Giảm giá hàng bán là số tiền người bán giảm từ cho người mua trên
giá đã thoả thuận trong hợp đồng do hàng bán kém phẩm chất, không đúng
quy cách…
Giá trị hàng bán bị tra lại phản ánh giá trị của số lượng sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ trong kỳ nhưng bị khách hàng trả lại do hàng
kém phẩm chất, không đúng quy cách, chủng loại…như trong hợp đồng đã
ký kết.
Các khoản thuế phải nép như: Thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế tiêu
thụ đặc biệt (TTĐB), thuế xuất khẩu.
Tổng chi phí tương ứng với lượng hàng hoá, sản phẩm, lao vụ, dịch
vụ…sử dụng vào sản xuất trong kỳ được xác định:
Phần còn lại của doanh thu thuần sau khi đã từ đi giá vốn hàng bán gọi
là lợi tức gộp. Lợi tức gộp mà doanh nghiệp thu được từ hoạt động sản xuất
kinh doanh còn phải bù đắp những chi phí chưa được tính vào giá trị vốn
của hàng bán. Đó là chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
* Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: Là khoản chênh lệch giữa thu
nhập hoạt động tài chính với chi phí hoạt động tài chính.

= -
* Lợi nhuận từ hoạt động bất thường:
= -
Lợi nhuận bất thường là số chênh lệch giữa khoản thu với khoản chi
ngoài dự tính của doanh nghiệp hay là những khoản thu không mang tính
chất thường xuyên hoặc là những khoản thu có dự tính nhưng Ýt có khả
năng xảy ra do nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan mang lại.
* Lợi nhuận trước thuế (thu nhập trước thuế) của doanh nghiệp được
hiểu là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí bỏ ra để đạt được doanh
thu đó. Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp bao gồm lợi nhuận từ hoạt
động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt
động bất thường. Lợi nhuận trước thuế là cơ sở để tính thuế thu nhập doanh
nghiệp.
= + +
* Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp: là phần chênh lệch giữa lợi
nhuận trước thuế và thuế thu nhập doanh nghiệp.
= Lợi nhuận trước thuế x
Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế - Thuế thu nhập DN
Trong nền kinh tế thị trường, dnb có tồn tại và phát triển được hay
không phụ thuộc rất lớn vào việc doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận
hay không. Lợi nhuận là một chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của
doanh nghiệp, là nguồn quan trọng để doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản
xuất. Trên phạm vi xã hội, lợi nhuận là nguồn để thực hiện tái sản xuất xã
hội. Tuy vậy, lợi nhuận không phải chỉ tiêu duy nhất đánh giá chất lượng
hoạt động của một doanh nghiệp. Bởi vì lợi nhuận là chỉ tiêu tài chính cuối
cùng nên nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố chủ quan, khách quan. Do
vậy, để đánh giá chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp, người ta phải
kết hợp chỉ tiêu lợi nhuận với các chỉ tiêu về tỉ suất lợi nhuận như tỷ suất
lợi nhuận trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu…
1.3.5. Phân phối lợi nhuận.

Phân phối lợi nhuận nhằm mục đích chủ yếu tái đầu tư mở rộng năng
lực hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khuyến khích người
lao động nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Về nguyên tắc, lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp được dùng một
phần để chia lãi cổ phần, phần còn lại là lợi nhuận không chia. Tỷ lệ phần
lợi nhuận chia lãi và lợi nhuận không chia tuỳ thuộc và chính sách của Nhà
nước (đối với doanh nghiệp Nhà nước) hay chính sách cổ tức cổ phần của
đại hội cổ đông (đối với các doanh nghiệp khác) ở mỗi doanh nghiệp trong
từng thời kỳ nhất định.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, lợi nhuận sau thuế sau khi nép
phạt và các khoản khác nếu có, được trích lập các quỹ của doanh nghiệp
như quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp
mất việc làm, quỹ khen thưởng và phóc lợi.
* Các quỹ doanh nghiệp.
+ Quỹ đầu tư phát triển: Quỹ này được sử dụng vào các mục đích sau:
Đầu tư mở rộng và phát triển kinh doanh.
Đổi mới, thay thế máy móc, thiết bị dây chuyền công nghệ, nghiên
cứu áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Đổi mới trang thiết bị và điều kiện làm việc trong doanh nghiệp.
Nghiên cứu khoa học, đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ
thuật nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên của doanh nghiệp.
Bổ sung vốn lưu động
Tham gia liên doanh, mua cổ phiếu
Trích nép cấp trên (nếu có)
+ Quỹ dự phòng tài chính: Dùng để bù đắp khoản chênh lệch từ tổn
thất, thiệt hại về tài sản do thiên tại, dịch vụ, hoả hoạn, những rủi ro trong
kinh doanh không được tính trong giá thành và đền bù của cơ quan bảo
hiểm.
Trích nép để hình thành quỹ dự phòng tài chính của Tổng công ty (nếu
là thành viên của Tổng công ty) theo tỷ lệ do Hội đồng quản trị Tổng công

ty quyết định hàng năm và được sử dụng để hỗ trợ các tổn thất, thiệt hại
trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên theo
cơ chế quản lý tài chính của Tổng công ty.
+ Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm: Dùng để trợ cấp cho người lao
động có thời giam làm việc tại doanh nghiệp đủ một năm trở lên bị mất
việc làm và chi cho việc đào tạo lại chuyên môn, kỹ thuật cho người lao
động do thay đổi công nghệ hoặc chuyển sang việc mới, đặc biệt là đào tạo
nghề dự phòng cho lao động nữ của doanh nghiệp.
Trợ cấp cho người lao động mất việc làm do các nguyên nhân khách
quan như: lao động dôi ra vì thay đổi công nghệ, do liên doanh, do thay đổi
tổ chức trong khi chưa bố trí công việc khác, hoặc chưa kịp giải quyết cho
thôi việc.
Mức trợ cấp cho thời gian mất việc làm do Giám đốc và Chủ tịch
Công đoàn doanh nghiệp xét cụ thể theo pháp luật hiện hành.
Doanh nghiệp phải trích nép để hình thành quỹ dự phòng trợ cấp mất
việc làm của Tổng công ty (nếu là thành viên Tổng công ty) theo tỷ lệ do
Hội đồng quản trị Tổng công ty quyết định.
+ Quỹ phóc lợi: Dùng để đầu tư xây dựng hoặc sửa chữa, bổ xung vốn
xây dựng các công trình phóc lợi công cộng của doanh nghiệp, góp vốn đầu
tư xây dựng các công trình phóc lợi chung trong ngành, hoặc với các đơn vị
khác theo hợp đồng thoả thuận; chi cho ccs hoạt động phóc lợi xã hội, thể
thao, văn hoá, phóc lợi công cộng của tập thể công nhân viên doanh
nghiệp, đóng góp cho quỹ phóc lợi xã hội (các hoạt động từ thiện, phóc lợi
xã hội công cộng); trợ cấp khó khăn thường xuyên, đột xuất cho cán bộ
công nhân viên doanh nghiệp.
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể sử dụng quỹ này để chi trợ cấp khó
khăn cho người lao động của doanh nghiệp đã về hưu, mất sức hay lâm vào
hoàn cảnh khó khăn, không nơi nương tựa và chi cho công tác từ thiện xã
hội. Chủ Tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc (nếu doanh nghiệp không có
Hội đồng quản trị) quyết định sử dụng sau khi có ý kiến thoả thuận của

Công đoàn doanh nghiệp.
Doanh nghiệp phải trích nép để hình thành quỹ phóc lợi tập trung của
Tổng công ty (nếu là thành viên Tổng công ty) theo tỷ lệ do Hội đồng quản
trị Tổng công ty quyết định và được sử dụng cho các mục tiêu theo quy chế
tài chính Tổng công ty.
+ Quỹ khen thưởng, dùng để:
Thưởng cuối năm hoặc thưởng định kỳ cho cán bộ công nhân viên
trong doanh nghiệp, mức thưởng do Hội đồng quản trị, Giám đốc (nếu
doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị) quyết định sau khi có ý kiến
tham gia của Công đoàn doanh nghiệp trên cơ sở năng suất lao động, thành
tích công tác và mức lương cơ bản của mỗi cán bộ, công nhân viên trong
doanh nghiệp.
Thưởng đột xuất cho những cá nhân, tập thể trong doanh nghiệp có
sáng kiến kỹ thuật mang lại hiệu quả kinh doanh, mức thưởng do Hội đồng
quản trị, Giám đốc (nếu doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị) quyết
định.
Thưởng cho cá nhân và đơn vị ngoài doanh nghiệp có quan hệ hợp
đồng kinh tế đã hoàn thành tốt những điều kiện của hợp đồng, mang lại lợi
Ých cho doanh nghiệp. Mức thưởng do Hội đồng quản trị hay Giám đốc
quyết định.
Trích nép để hình thành quỹ khen thưởng tập trung của Tổng công ty
nếu là thành viên Tổng công ty) theo tỷ lệ do Hội đồng quản trị Tổng công
ty quyết định và sử dụng để khen thưởng cho các đối tượng theo quy chế
tài chính Tổng công ty.
1.3.6. Các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận.

×