Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Cái đẹp - phạm trù cơ bản và trung tâm của mỹ học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.89 KB, 13 trang )

Cái đẹp - phạm trù cơ bản và trung tâm của mỹ học
LỜI MỞ ĐẦU
Trước hết, cần hiểu rằng, Mỹ học là một khoa học hợp thành của
khoa học Triết học dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Mỹ học là khoa học nghiên cứu toàn bộ qui
luật, hiện tượng thẩm mỹ trong hoạt động của đời sống con người gồm
khách thể thẩm mĩ, chủ thể thẩm mĩ và nghệ thuật. Trong đó, cái đẹp là
phạm trù cơ bản và trung tâm, hình tượng là tiếng nói trọng tâm, lý tưởng
thẩm mỹ là cơ sở để định hướng thẩm mỹ, nghệ thuật là thành tựu cao
nhất của đời sống thẩm mĩ.
Khách thể thẩm mỹ là một hệ thống gồm 5 phạm trù khát quát toàn
bộ hiện tượng, quy luật thẩm mỹ trong tự nhiên, xã hội và trong nghệ
thuật. Đó là phạm trù cái đẹp, cái xấu, cía bi, cái hài, cái trác tuyệt. Tuy
nhiên, trong một chừng mực nhất định, chúng ta chỉ bàn đến phạm trù cái
đẹp. Một câu hỏi đặt ra là: Cái đẹp là gì. Tại sao cái đẹp lại được coi là
phạm trù cơ bản và trung tâm của Mỹ học. Lý giải được điều này cũng có
nghĩa khẳng định được vị trí của cái đẹp trong đời sống thẩm mỹ.
NỘI DUNG
I. BẢN CHẤT CÁI ĐẸP
Cái đẹp có mặt kháp nơi trong cuộc sống quanh ta, được biểu hiện
qua muôn vàn những sự vật hiện tượng với những kích thước, màu sắc,
hình dáng, phẩm chất khác nhau. Từ những cái đẹp của thế giới tự nhiên
do tạo hoá sinh ra như sông, núi, biển… cho đến những thành phố, làng
mạc, nhà cửa… do bàn tay con người làm ra, và ngay cả bản thân con
người với những hành động, cử chỉ, ánh mắt, lời nói và hình thể đều chứa
đựng trong đó những yếu tố của cái đẹp. Đặc biệt trong nghệ thuật, chúng
ta có thể tìm thấy vô số cái đẹp trong những bức tranh, pho tượng, bộ
phim hay cuốn sách.
Cái đẹp gần gũi và thân thiết với mỗi con người trong cuộc sống
hàng ngày. Tuy nhiên, cái đẹp là phạm trù phức tạp, từ xưa tới nay con
người luôn gặp phải trở ngại trong việc đưa ra một chân lý khái quát, phổ


biến về cái đẹp. Không dễ gì nhận diện được bản chất mang tính khái quát
của nó và khó khăn hơn nữa là cái đẹp không hoàn toàn mang tính khách
quan. Trong việc đánh giá về cái đẹp có một phần rất quan trọng nếu
không muốn nói là quyết định, ở phía chủ quan. Mà nói đến chủ quan là
nói đến những tiêu chuẩn đánh giá rất khác biệt nhau do những thước đo
thực tiễn xã hội và cá nhân không giống nhau. Đó là lý do giải thích vì
sao nhân loại đã mất hàng ngàn năm đi tìm kiếm một khái niệm phổ biến
về cái đẹp mà vẫn chưa thể minh định được rõ ràng.
Trải qua hàng ngàn năm với các trường phái Mỹ học khác nhau.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, Mỹ học Mác-Lênin khẳng định rằng Bản chất của cái đẹp là sự
thống nhất biện chứng giữa 2 nhân tố khách quan và chủ quan.
Cái đẹp gắn liền với ý thức chủ quan, với sự đánh giá của con
người, nhưng đó không phải là những ý niệm được mang từ bên ngoài vào
sự vật mà nó phải xuất phát từ cơ sở khách quan, từ chính những phẩm
2
chất thẩm mỹ tồn tại bên trong bản thân sự vật. Cơ sở của những quan
niệm chủ quan về cái đẹp bắt nguồn từ chính cái đẹp khách quan tức là từ
những thuộc tính của sự vật có khả năng gợi lên ở con người một thái độ
thẩm mĩ tích cực. Đó là kích thước, đường nét, màu sắc, âm thanh, nhịp
điệu v.v. Được kết hợp với nhau theo một trật tự và tỉ lệ hài hoà toàn vẹn
và cân đối. Hài hoà là sự kết hợp thống nhất giữa yếu tố theo những tỉ lệ
nhất định hết sức uyển chuyển giữa các bộ phận, các mảng khối v.v… Sự
toàn vẹn biểu hiện sự cân đối, tỷ lệ hoà hợp cả cái bên ngoài và yếu tố
bên trong giữa chất và lượng giữa hình thức và nội dung. Cấu trúc hài
hoà, toàn vẹn và cân đối là những phẩm chất quan trọng tạo nên cái đẹp.
Tuy nhiên, bản chất của cái đẹp không chỉ gắn liền với phẩm chất khách
quan của sự vật; hài hoà, cân đối, mực thước, toàn vẹn mà còn bao hàm
trong đó cả quan niệm chủ quan của con người. Một cái đẹp là có tính
khách quan, hàm chứa yếu tố hài hoà - toàn vẹn. Song vấn đề là ở chỗ cái

gì qui định và thừa nhận tính hài hoà - toàn vẹn đối với các sự vật và hiện
tượng của con người. Tại sao con người lại cho rằng như thế này là hài
hoá, như thế kia là toàn vẹn. Giải quyết vấn đề này gắn liền với lịch sử
hình thành ý thức thẩm mĩ, chuẩn mực đánh giá cái đẹp.
Đánh giá cái đẹp trong quan hệ khách thể, chủ thể trước hết là một
sự đánh giá phức tạp, nó đạt tới cái chung thông qua cái riêng. Cái đẹp
được đánh giá mang tính chủ thể và bộc lộ qua cá nhân. Rộng hơn cái đẹp
được bộc lộ qua nhóm người. Theo nguyên tắc này, quan niệm về cái đẹp
được qui định bởi tính dân tộc. Mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng, ngôn ngữ,
phong tục tập quán, lối sống riêng… Những sự vật, hiện tượng, lý tưởng,
hành vi, nếp sống, nếp nghĩ… được xem là đẹp phụ thuộc rất lớn vào bản
sắc riêng đó.
Ngoài tính dân tộc, tính giai cấp, cái đẹp còn mang tính nhân loại.
Thể hiện những qui chuẩn chung cho mọi nhóm người, mọi dân tộc, mọi
giai cấp. Cái đẹp mang tính nhân loại còn được thể hiện khi chủ thể tiếp
xúc với khách thể đã vượt qua mọi đặc tính riêng, có tính bộ phận để cùng
3
qui tụ và vươn tới những chuẩn mực chung có tính chung của toàn thể con
người.
Tính thời đại của cái đẹp liên quan đến tính vĩnh hằng qui chuẩn
đẹp, chúng nằm trong mối liên hệ biện chứng. Dù là thời đại nào cũng có
những quy chuẩn cái đẹp riêng. Song cái qui chuẩn có tính thời đại đó lại
cần những yếu tố của cái chung mà mọi thời đại đều có thể chấp nhận.
Thực tế, đó là cái qui chuẩn có tính vĩnh hằng mà mọi người, mọi thời đại
đều chấp nhận. Trước hết chính là cái yếu tố hài hoà - toàn vẹn của cái
đẹp khách quan qui định. Sau đó được qui định bởi các tiêu chuẩn lý
tưởng mà loài người chân chính muốn vươn tới - cái tiêu chuẩn mang tính
nhân văn cao cả - sự tiến bộ, sự hoàn thiện, hoàn mĩ.
Đây chính là nguyên nhân lý giải vì sao có những cái đẹp chỉ trong
chốc lát hôm nay đẹp, nhưng ngày mai rất có thể bị coi là xấu của một

kiểu tóc, một mốt quần áo, mốt nhà cửa, thậm chí cả mốt chọn chồng. Tuy
nhiên bên cạnh đó là những tác phẩm kinh điển, trác tuyệt như truyện
Kiều của Nguyễn Du, những vở kịch nổi tiếng của Sechxpia (Ôtenlô,
Macbét…), những tác phẩm văn học của Victohuygo, những kiệt tác của
Moza Bettoven thì sẽ tồn tại mãi mãi trường cửu với thời gian.
Như vậy, cơ sở để đánh giá một sự vật, hiện tượng là đẹp căn cứ
theo hai hệ tiêu chí:
- Chân - Thiện - Mỹ:
Trong đó:
Chân - Sự đúng đắn, tính chân thực của cuộc sống.
Thiện - Tính nhân bản, nhân văn tốt đẹp.
Mỹ - Sự hoàn thiện, hoàn mỹ.
Và tính nhân dân - dân tộc - tính nhân loại.
Trong đó:
- Tính nhân dân: cái đẹp phải phục vụ đại đa số nhân dân lao động:
VD: Chèo - Miền Bắc; Tuồng - miền Trung; Cải lương - Miền Nam ; nhạc
thính phòng, giao hưởng - Đô thị, thành phố lớn..
4
-Tính dân tộc: Cái đẹp mang đậm bản sắc dân tộc - đa nhân loại có
thể phân biệt anh là ai, thuộc dân tộc nào. Cái đẹp mang đậm chân dung
diện mạo dân tộc. VD: Bản sắc dân tộc Việt Nam là tuồng, chèo, ca trù.
-Tính nhân loại: Cái đẹp của từng dân tộc cộng lại - cái đẹp của
nhân loại.
Như vậy: Một sự vật, hiện tượng chưa thể gọi là đẹp khi nó mới chỉ
đáp ứng một mặt nào đó hoặc chỉ là tính đúng đắn, chân thực của cuộc
sống hay mới chỉ đáp ứng mặt tốt đẹp của các yêu cầu nhân sinh như
những hành vi đạo đức… mà là một sự đánh giá thẩm định tổng hợp có ý
nghĩa toàn vẹn: chân - thiện - mỹ.
II. CÁC LĨNH VỰC BIỂU HIỆN CÁI ĐẸP
1. Cái đẹp trong tự nhiên

Nói tới cái đẹp trong tự nhiên là nói tới những cái đẹp do tạo hoá
sinh ra. Đó là những cái đẹp thuộc về thế giới vô sinh như sông, núi,
biển… Nó cũng bao gồm cả những cái đẹp của thế giới hữu sinh: cỏ cây,
hoa lá, chim muông… Trong đó, cái đẹp tự nhiên của hình thể con người
là một ân huệ mà tạo hoá đã ban tặng cho con người.
Đặc trưng thẩm mỹ của cái đẹp trong lĩnh vực này được biểu hiện
qua những thuộc tính vật chất của sự vật, hiện tượng như hình dáng, màu
sắc, đường nét, âm thanh… được cấu tạo một cách cân đối, hài hoà với
một mức độ và tỉ lệ hợp lý, có khả năng tác động trực tiếp đến giác quan
của con người và gây nên những cảm xúc thẩm mĩ.
Cái đẹp trong tự nhiên rời rạc, lẻ tẻ. Nhưng nhờ có thế giới tự nhiên
mà con người mới hình thành cảm xúc và ý niệm về cái đẹp. Đây chính là
nguồn cảm xúc bất tận là đề tài muôn thở cho các nghệ sĩ sáng tạo nên các
tác phẩm thi ca, nhạc, hoạ.
2. Cái đẹp trong xã hội
Được thể hiện qua văn hoá ứng xử - Chính là lối sống, lối suy nghĩ,
lối hoạt động. Là triết lý sống của con người với tự nhiên và xã hội trong
một phạm vi nhỏ gia đình (vi mô) tới phạm vi lớn - xã hội, cơ quan, đoàn
5

×