Đề tài: Vận dụng phương pháp xác định giá trị tài sản thuần để định giá
doanh nghiệp. Lấy ví dụ minh họa tại một doanh nghiệp Nhà Nước cổ
phần hóa. Nêu nhận xét của bạn về ưu, nhược điểm của phương pháp này.
CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Khái quát chung về định giá giá trị doanh nghiệp
1 Xác định giá trị doanh nghiệp
a,Các nhận định cơ bản về giá trị doanh nghiệp
- Giá trị doanh nghiệp là một khái niệm cơ bản khác với giá bán doanh
nghiệp trên thị trường. Giá trị doanh nghiệp được đo bằng độ lớn của các khoản
thu nhập mà doanh nghiệp đem lại cho nhà đầu tư. Giá bán doanh nghiệp là
mức giá được hình thành trên thị trường, nó còn chịu sự tác động của các yếu tố
cung, cầu “ hàng hóa hoanh nghiệp”, và cung cầu về tiền tệ trên thị trường
- Giá trị doanh nghiệp chỉ đơn giản là một khái niệm được các nhà đầu tư,
các chuyên gia sử dụng trong việc đánh giá tổng thể các khoản thu nhập mà
doanh nghiệp có thêđưa lại. Giá trị doanh nghiệp vẫn tồn tại ngay cả khi không
có việc mua bán và chuyển nhượng…
- Xác định giá trị doanh nghiệp không đơn giản chỉ để mua, bán, sát nhập,
hợp nhất hoặc chia nhỏ doanh nghiệp mà còn nhằm phục vụ cho nhiều hoạt
động giao dịch kinh tế khác, như: xác định vị thế tín dụng, cung cấp các thông
tin cho hoạt động quản lý kinh tế vĩ mô, cho hoạch định chiến lược doanh
nghiệp…
b, Khái niệm xác định giá trị doanh nghiệp
Định giá tài sản Page 1
Xác định giá trị doanh nghiệp là sự ước tính với độ tin cậy cao nhất các
khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể tạo ra trong quá trình sản xuất kinh
doanh, làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch thông thường của thị trường.
2, Sự cần thiết phải xác định giá trị doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu đánh giá và xác định giá trị đối với
các loại hàng hóa là một đòi hỏi hoàn toàn tự nhiên. Trong điều hành kinh tế vĩ
mô cũng như trong các hoạt động quản trị kinh doanh luôn cần thiết thông tin
về giá trị doanh nghiệp.Giá trị doanh nghiệp là mối quan tâm của các pháp nhân
và thể nhân có lợi ích liên quan, gắn bó trực tiếp đến các doanh nghiệp được
đánh giá.Tổng kết lại, nhu cầu xác định giá trị doanh nghiệp được xuất phát từ
các yêu cầu quản lý và các giao dịch…
Trong nền kinh tế thị trường, mọi chủ thể kinh tế- xã hội đều quan tâm
đến doanh nghiệp từ người tiêu dùng sản phẩm dịch vụ đến nhà đầu tư và Nhà
Nước, tổ chức xã hội và nhà quản lý doanh nghiệp. Đặc biệt là nhà đầu tư, nhà
quản trị doanh nghiệp và Nhà Nước nói riêng, họ luôn luôn và cần thiết nắm
vững các thông tin về tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, trong đó giá trị của doanh nghiệp được họ quan tâm hàng đầu, vì
vậy cần thiết phải xác định giá trị doanh nghiệp.
Xác định được giá trị doanh nghiệp sẽ đáp ứng nhu cầu giao dịch: mua
bán, chuyển nhượng sáp nhập chia tách doanh nghiệp. Nhu cầu giao dịch về tài
chính doanh nghiệp diễn ra thường xuyên và phổ biến trong nền kinh tế thị
trường. Trong quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nhu cầu tài trợ
vốn cho phát triển là một nhu cầu tất yếu khách quan đối với mọi doanh
nghiệp.Để mở rộng quy mô hoạt động SXKD tăng lợi nhuận, tăng sức mạnh
Định giá tài sản Page 2
của DN trên thị trường, DN phải huy động bốn trên thị trường nói chung, thị
trường tài chính nói riêng. Mặt khác việc di chuyển vốn đầu tư của các nhà đầu
tư trực tiếp và nhà đầu tư gián tiếp vào DN cũng diễn ra thường xuyên theo
mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của họ. Vì vậy cần nắm rõ và xác định được hay
dự báo được các lợi ích mà DN đem lại cho họ từ việc họ đầu tư vốn vào DN,
nói cách khác họ phải biết được giá trị của DN từ đó giúp họ đưa ra quyết định
đầu tư hiệu quả nhất
Giá trị của DN là một loại thông tin quan trọng giúp Nhà nước điều hành
kinh tế vĩ mô hiệu quả hơn. Giá cả của các chứng khoán nợ và chứng khoán
vốn, đặc biệt là giá cổ phiếu thường do DN phát hành là thông rin quan trọng
phản ánh giá trị DN, vị thế của DN trên thi trường, phản ánh sức khỏe của từng
DN và của toàn bộ nền kinh tế đó giúp Nhà nước thực hiên các chính sách vĩ
mô thích hợp thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong điều kiện Nhà nước ta đang
thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
xác định đúng giá trị DN và thông tin trung thực khách quan giá trị DN là tiền
đề cho việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện cổ phần hóa DN.
Giá trị DN là loại thông tin quan trọng giúp nhà quản trị DN phân tích,
đánh giá trước khi đưa ra các quyết đình quản lý: Quyết định đầu tư, quyết định
tài trợ nhằm tăng giá trị DN nói chung, giá trị tái sản của chủ sở hữu nói riêng.
Giá trị của DN phản ánh năng lực tổng hợp và hiệu quả hoạt động của các nhà
quản lý doanh nghiệp. Giá trị DN lớn là một thông tin quan trọng thể hiện sức
mạnh tài chính, sức cạnh tranh trên thị trường của DN. Vì vậy cần phải xác
định giá trị DN
Định giá tài sản Page 3
II, Định giá doanh nghiệp theo phương pháp xác định giá trị tài sản thuần.
1,Khái quát chung.
Phương pháp giá trị tài sản thuần còn gọi là phương pháp giá trị nội tại hay
mô hình định giá tài sản, được xây dựng dựa trên các nhận định:
- Doanh nghiệp về cơ bản giống như một loại hàng hóa thông thường.
- Sự hoạt động của doanh nghiệp bao giờ cũng được tiến hành trên cơ sở
một lượng tài sản có thực. Những tài sản đó là sự hiện diện rõ ràng và cụ thể về
sự tồn tại của doanh nghiệp, chúng cấu thành thực thể của doanh nghiệp.
- Tài sản của doanh nghiệp được hình thành bởi sự tài trợ vốn của các nhà
đầu tư ngay khi thành lập doanh nghiệp và còn có thể được bổ sung trong quá
trình phát triển SXKD. Cơ cấu nguồn tài trợ để hình thành tài sản là sự khẳng
định và thừa nhận về mặt pháp lý các quyền sở hữu và lợi ích của các nhà đầu
tư đối với số tài sản đó.
Doanh nghiệp được hình thành, tồn tại và phát triển tạo ra dòng thu nhập
xuất phát bằng một lượng tái sản có thực nhất định. Lượng tài sản này thường
xuyên được bổ xung từ lợi nhuận hoặc các nguồn vốn tài trợ của các nhà đầu tư
và thông thường quy mô tài sản tăng lên thì thu nhập nà DN mang lại càng tăng
lên, nghĩa là giá trị của DN tăng lên và ngược lại, cuối cùng nếu chủ sở hữu DN
bán toàn bộ tài sản của DN thì đó là lợi ích tính thành tiền mà chủ DN nhận
được từ DN hay nói khác đi đó là giá trị DN tại thời điểm bán. Chính vì vậy mà
giá trị DN được xác định bằng giá thị trường của toàn bộ tài sản hiện có phục
vụ SXKD của DN.
2, Phương pháp xác định.
Định giá tài sản Page 4
Tổng giá trị tài sản trong doanh nghiệp thường không chỉ thuộc về người chủ
sở hữu của doanh nghiệp mà chúng còn được hình thành trên các trái quyền
khác như: các trái chủ cho doanh nghiệp vay vốn, tiền lương chưa đến kỳ hạn
trả, thuế chưa đến lỳ hạn nộp, các khoản ứng trước của khách hàng, các khoản
bán chịu của nhà cung cấp, các tài sản đi thuê… Do vậy, mặc dù giá trị doanh
nghiệp được coi là tổng giá trị các tài sản cấu thành doanh nghiệp, nhưng để
thực hiên một giao dịch mua bán doanh nghiệp, người ta phải xác định giá trị
tài sản thuần- thuộc chủ sở hữu doanh nghiệp. Thông thường không kể các tài
sản phục vụ phúc lợi xã hội, quỹ khen thưởng, trợ cấp cho người lao động và
tài sản giữ hộ thì giá trị của tài sản thuộc về các chủ sở hữu doanh nghiệp và
chủ nợ của doanh nghiệp. Vì vậy tổng giá trị doanh nghiệp bằng tổng số nợ
doanh nghiệp phải trả cộng tổng vốn chủ sở hữu doanh nghiệp. Tuy nhiên
doanh nghiệp đang hoạt động thì vốn kinh doanh của doanh nghiệp đã được
đầu tư, mua sắm và trở thành tài sản, hàng hóa vật chất cụ thể. Vì vậy vốn chủ
sở hữu phải được xác định bằng việc tiền tệ hóa tài sản sau đó trả cho chủ nợ,
phần còn lại là của chủ sở hữu.
Theo đó, công thức tổng quát được xây dựng như sau:
V
0
=V
T
– V
N
Trong đó:
V
0
: Giá trị tài sản thuần thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp.
V
T
: Tổng giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng vào sản
xuất kinh doanh.
Định giá tài sản Page 5
V
N
: Giá trị các khoản nợ.
Thông thường chủ sở hữu phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo quy định của
pháp luật hiện hành, vì vậy chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ có thể định đoạt phần
vốn mà họ sở hữu. Cần chú ý rằng trên thị trường chứng khoán tổng tài sản của
doanh nghiệp được xác định bằng tổng giá thị trường của các công cụ nợ và
công cụ vốn doanh nghiệp đã phát hành.
Dựa theo công thức trên, người ta nêu ra hai cách xác định giá trị doanh
nghiệp và giá trị vốn chủ sở hữu như sau:
Cách thứ nhất: Dựa vào số liệu về tài sản về tài sản và cơ cấu nguồn vốn
phản ánh trên bảng cân đối kế toán tại thời điểm đánh giá để xác định bằng
cách: lấy tổng giá trị tài sản phản ánh ở phần tài sản trừ đi các khoản trả bên
nguồn vốn.
Đây là một cách tính toán đơn giản, dễ dàng. Nếu như việc ghi chép
phản ánh đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, doanh nghiệp chấp hành tốt
các quy định của chế độ kế toán thì giá trị tài sản thuần tính toán được sẽ là số
liệu có độ tin cậy về số vốn theo sổ sách của chủ sở hữu đang được huy động
vào sản xuất kinh doanh. Nó chỉ ra mức độ độc lập về tài chính, khả năng tự
chủ trong điều hành SXKD của chủ doanh nghiệp, là căn cứ thích hợp để nhà
đầu tư đánh giá vị thế tín dụng của doanh nghiệp.
Mặc dù người ta có thể đánh giá giá trị doanh nghiệp theo nhiều cách
khác nhau, song theo cách này nó cũng minh chứng cho các bên liên quan thấy
được rằng: đầu tư vào doanh nghiệp luôn luôn được đảm bảo bằng giá trị của
Định giá tài sản Page 6
các tài sản hiện có trong doanh nghiệp chứ không phải bằng cái “ có thể” như
nhiều phương pháp khác.
Tuy nhiên giá trị doanh nghiệp xác định theo phương pháp này cũng chỉ
là những thông tin, số liệu mang tính chất lịch sử có tính chất tham khảo trong
quá trình vận dụng các phương pháp khách nhằm định ra giá trị doanh nghiệp
một cách đúng hơn.
Cách 2: Xác định giá trị tài sản thuần theo giá thị trường.
Ngay cả khi doanh nghiệp thực hiên tốt chế độ kế toán do Nhà nước quy
định thì số liệu trên bảng cân đối kế toán được lập vào một thời điểm nào đó
cũng không phản ánh đúng giá trị thị trường của toàn bộ số tài sản trong doanh
nghiệp, vì các lý do sau:
- Toàn bộ giá trị của các tài sản phản ánh trên bảng cân đối kế toán là
những số liệu được tập hợp từ các sổ kế toán, các bảng kê…. Các số liệu này
phản ánh trun g thực các chi phí phát sinh tại thời điểm xảy ra các nghiệp vụ
kinh tế trong quá khứ của niên độ kế toán. Đó là những chi phí mang tính lịch
sử, không còn phù hợp ở thời điểm định giá doanh nghiệp, ngay cả khi không
có lạm phát.
- Giá trị còn lại của tài sản cố định phản ánh trên sổ kế toán cao hay thấp
phụ thuộc vào việc doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao nào, phụ
thuộc vào thời điểm mà doanh nghiệp xác định nguyên giá và sự lựa chọn tuổi
thọ kinh tế của tài sản cố định. Vì vậy, giá trị tài sản cố định phản ánh trên sổ
kế toán thường không phù hợp với giá thị trường tại thời điểm xác định giá trị
doanh nghiệp.
Định giá tài sản Page 7
- Trị giá hàng hóa, vật tư, công cụ lao động… tồn kho hoặc đang dùng
trong sản xuất, một mặt phụ thuộc vào cách sử dụng giá hạch toán là giá mua
đầu kỳ, cuối kỳ hay giá thực tế bình quân. Mặt khác, còn phụ thuộc vào sự lựa
chọn các tiêu thức phân bổ chi phí khác nhau cho số hàng hóa dự trữ. Do vậy,
số liệu kế toán phản ánh giá trị của loại tài sản đó cũng được coi là không có
đủ dộ tin cậy ở thời điểm đánh giá doanh nghiệp.
Đó là một số lý do cơ bản, nhưng cũng đủ để giải thích vì sao trị giá tài
sản phản ánh trên bảng cân đối kế toán chỉ được coi là tài liệu tham khảo trong
quá trình đánh giá lại toàn bộ tài sản theo giá thị trường tại thời điểm xác định
giá trị kinh doanh.
Để xác định giá trị tài sản theo giá thị trường, trước hết người ta loại ta
khỏi danh mục đánh giá những tài sản không cần thiết và không có khả năng
đáp ứng các yêu cầu của SXKD. Sau đó tiến hành đánh giá số tài sản còn lại
trên nguyên tắc sử dụng giá thị trường để tính cho từng tài sản hoặc từng loại
tài sản cụ thể, như sau:
- Đối với TSCĐ và TSLĐ là hiện vật thì đánh giá theo giá thị trường nếu
trên thị trường hiện đang có bán những tài sản như vậy. Trong thực tế, thường
không tồn tại thị trường TSCĐ cũ, đã qua sử dụng ở nhiều mức độ khác nhau.
Khi đó, người ta dựa theo công dụng hay khả năng phục vụ sản xuất của tài
sản để áp dụng một tỷ lệ khấu trừ trên giá trị của một TSCĐ mới.
Đối với những TSCĐ không còn tồn tại trên thị trường thì người ta
áp dụng một hệ số quy đổi so với những TSCĐ khác loại nhưng có tính năng
tương đương.
Định giá tài sản Page 8
- Các tài sản bằng tiền được xác định bằng cách kiểm quỹ, đối chiếu số dư
trên tài khoản. Nếu là ngoại tệ sẽ được quy đổi về đồng nội tệ theo tỷ giá thị
trường tại thời điểm đánh giá. Vàng, bạc, kim khí, đá quý…cũng được tính
toán như vậy.
- Các khoản phải thu: Do khả năng đồi nợ các khoản này có thể ở nhiều
mức độ khác nhau, vì vậy, bao giờ người ta cũng bắt đầu từ việc đối chiếu
công nợ, xác minh tính pháp lý, đánh giá độ tin cậy của từng khoản phải thu
nhằm loại ra những khoản mà doanh nghiệp không có khả năng đòi được hoặc
khả năng đòi được quá mong manh.
- Đối với các khoản đầu tư ta bên ngoài doanh nghiệp: Về mặt nguyên tắc
phải thực hiện đánh giá một cách toàn diện về giá trị đối với các doanh nghiệp
hiện đang sử dụng các khoản đầu tư đó. Tuy nhiên nếu các khoản đầu tư này
không lớn, người ta thường trực tiếp dựa vào giá thị trường của chúng dưới
hình thức chứng khoán hoặc căn cứ vào số liệu của bên đối tác liên doanh để
xác định theo cách thứ nhất đã đề cập ở phần trên.
- Đối với các tài sản cho thuê và quyền thuê bất động sản: Tính theo
phương pháp chiết khấu dòng thu nhập trong tương lai.
- Các tài sản vô hình: Theo phương pháp này người ta chỉ thừa nhận giá trị
của các tài sản vô hình đã được xác định trên sổ kế toán và thường không tính
đến các lợi thế thương mại của doanh nghiệp.
Sau cùng, giá trị tài sản thuần được tính bằng cách lấy tổng giá trị của các
tài sản đã được xác định trừ đi các khoản nợ phản ánh ở bên nguồn vốn của
bảng cân đối kế toán và khoản tiền thuế tính trên giá trị tăng thêm của số tài
sản được đánh giá lại tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
Định giá tài sản Page 9
3, Hạn chế và khả năng áp dụng phương pháp tài sản thuần trong thực
tiễn định giá.
a, Những hạn chế.
- Theo phương pháp này người ta quan niệm doanh nghiệp như một tập
hợp các loại tài sản vào với nhau. Việc bán doanh nghiệp cũng giống như việc
bán các tài sản riêng rẽ. Phương pháp vận dụng cũng giống như kỹ thuật định
giá tài sản thông thường: chi phí thay thế, so sánh thị trường. Giá trị doanh
nghiệp chỉ đơn giản được tính bằng tổng giá thị trường của số tài sản trong
doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Giá trị doanh nghiệp được cố định ở
giá trị của các tài sản. Điều đó có nghĩa là, nó đánh giá doanh nghiệp trong
một trạng thái tĩnh. Doanh nghiệp không được coi như một thực thể, một tổ
chức đang tồn tại và còn có thể hoàn chỉnh và phát triển trong tương lai. Vì
vậy, mà nó không phù hợp với một tầm nhìn chiến lược về doanh nghiệp. Bởi,
động cơ của người mua doanh nghiệp là nhằm sở hữu các khoản thu nhập
trong tương lai, chứ không phải để bán lại ngay những tài sản hiện thời.
- Phương pháp giá trị tài sản thuần đã không cung cấp và xây dựng được
những cơ sở thông tin cần thiết để các bên có liên quan đánh giá về triển vọng
sinh lời của doanh nghiệp. Đó cũng là lý do mà khi sẻ dụng phương pháp
này,người ta khó có thể giải thích vì sao cùng một giá trị tái sản thuần như
nhau, nhưng doanh nghiệp này lại có giá bán cao hơn doanh nghiệp kia, ngay
cả khi không có sự tác động của yếu tố cạnh tranh.
- Phương pháp giá trị tài sản thuần đã bỏ qua phần lớn các yếu tố phi vật
chất nhưng lại có giá trị thực sự và nhiều khi lại chiếm tỷ trọng rất lớn trong
giá trị doanh nghiệp, như: Trình độ quản lý, trình độ công nhân, uy tín, thị
Định giá tài sản Page 10
phần…của doanh nghiệp. Đó có thể là những doanh nghiệp có tài sản không
đáng kể nhưng triển vọng sinh lợi lại rất cao.
- Trong nhiều trường hợp, xác định giá trị tái sản thuần lại trở nên quá phức
tạp. Chẳng hạn, xác định giá trị của một tập đoàn có nhiều chi nhánh, có các
chứng khoán đầu tư ở nhiều doanh nghiệp khác nhau. Mỗi chi nhánh lại có
một số lượng rất lớn các tài sản đặc biệt, đã qua sử dụng, thậm chí không còn
bán trên thị trường. Khi đó, đòi hổi phải tổng kiểm kê đánh giá lại một cách
chi tiết mọi tài sản ở các chi nhánh. Từ đó, kéo theo những khoản chi phí đánh
giá rất tốn kém, thời gian cần thiết cho một cuộc đánh giá có thể kéo dài, kết
quả đánh giá phụ thuộc rất lớn vào các thông số kỹ thuật của tài sản mà các
nhà kỹ thuật chuyên ngành đưa ra. Như vậy, sai số đánh giá có thể sẽ rất cao.
b, Khả năng ứng dụng của phương pháp giá trị tài sản thuần.
- Phương pháp giá trị tài sản thuần đã chỉ ra giá trị của những tài sản cụ thể
cấu thành giá trị doanh nghiệp. Có thể nói, giá trị của các tài sản đó là một căn
cứ cụ thể có tính pháp lý rõ ràng nhất về khoản thu nhập mà người mua chắc
chắn sẽ nhấn được khi sở hữu doanh nghiệp. Nó nói lên rằng, số tiền mà người
mua bỏ ra luôn luôn được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thật.
- Phương pháp xác định giá trị tài sản thuần xác định giá trị thị trường của
số tài sản có thể bán rời tại thời điểm đánh giá. Như vậy nó đã chỉ ra rằng có
một khoản thu nhập tối thiều mà người sở hữu sẽ nhận được. Đó cũng lầ một
mức giá thấp nhất, là cơ sở đầu tiên để các bên có liên quan đưa ra trong quá
trình giao dịch và đàm phán về giá bán của doanh nghiệp.
- Đối với những doanh nghiệp nhỏ mà số lượng tài sản không nhiều, việc
định giá tài sản không đòi hỏi những kỹ thuật phức tạp, giá trị các yếu tố vô
hình là không đáng kể, các doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh không rõ
Định giá tài sản Page 11
ràng, thiếu căn cứ xác định các khoản thu nhập trong tương lai thì giá trị thuần
sẽ trở thành tiêu chuẩn cơ bản và thích hợp nhất để các bên xích lại gần nhau
trong quá trình đàm phán.
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN
THUẦN VÀO VIỆC ĐỊNH GIÁ CÔNG TY CỔ PHẦN VẬN TẢI VÀ
THƯƠNG MẠI
I, Vận dụng phương pháp xác định giá trị tài sản thuần vào việc định giá
công ty Cổ phần Vận tải và Thương mại
1, Giới thiệu về công ty
CÔNG TY CỔ PHẦN VẬN TẢI VÀ THƯƠNG MẠI là doanh nghiệp được
thành lập dưới hình thức chuyển đổi (CPH) từ doanh nghiệp Nhà nước (Công
ty Vận tải và Đại lý vận tải) thành công ty cổ phần, theo Quyết định số:
2191/QĐ/BNN-TCCB ngày 30/07/2004 của Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn. Công ty được tổ chức và hoạt động theo Luật pháp nước CHXHCN
Việt Nam và Điều lệ công ty Cổ phần Vận tải và thương mại.
Định giá tài sản Page 12
Tên công ty: CÔNG TY CỔ PHẦN VẬN TẢI VÀ THƯƠNG MẠI
Tên tiếng Anh: TRANSPORTATION AND TRADING JOINT STOCK
COMPANY
Tên viết tắt: VITRANIMEX
Địa chỉ trụ sở chính: Số 04, phố Ngô Quyền, phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn
Kiếm, TP.Hà Nội.
Điện thoại: (84 4) 39349258 Fax: (84 4) 39343651
Website: http:// www. vitranimex.vn
Email:
► Ngành nghề kinh doanh:
1. Kinh doanh vận tải và đại lý hàng hóa đa phương tiện, đa phương thức
trong nước và quốc tế;
2. Kinh doanh thương nghiệp tổng hợp, đại lý tiêu thu, sửa chữa và bảo hành
sản phẩm;
3. Kinh doanh và cho thuê văn phòng, kho hàng và cửa hàng;
4. Xuất nhập khẩu nông, lâm, thủy sản, vật tư máy móc và vật liệu xây
dựng, hàng tiêu dùng, hàng thủ công mỹ nghệ và thực phảm chế biến;
Định giá tài sản Page 13
5. Nhập khẩu nông, lâm, thuỷ sản, vật tư, hoá chất, máy móc, thiết bị, phụ
tùng, nguyên liệu, bao bì, đồ uống, thực phẩm chế biến, vật liệu xây dựng,
hàng tiêu dùng, phương tiện vận chuyển và ô tô du lịch;
6. Sản xuất chế biến nông sản và thực phẩm;
7. Nhập khẩu vật tư, thiết bị bưu chính viễn thông và vật tư, thiết bị y tế.
2, Định giá bằng phương pháp xác định giá trị tài sản thuần trong cổ phần
hóa công ty Cổ phần Vận tải và Thương mại
CÔNG TY CỔ PHẦN VẬN TẢI VÀ THƯƠNG MẠI
BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN
Đơn vị: 1.000.000đ
Định giá tài sản Page 14
Việc đánh giá lại toàn bộ tài sản của doanh nghiệp cho thấy có những thay đổi
như sau:
Định giá tài sản Page 15
1- Một số khoản phải thu không có khả năng đòi được là 3.000 triệu. Số còn
lại xếp vào nợ khó đòi có giá trị 15.000 triệu. Công ty mua bán nợ cho biết họ
sẵn sàng mua lại khoản nợ này với giá bằng 40% giá trị tín dụng.
2- Hàng tồn kho kém phẩm chất, không đáp ứng yêu cầu của sản xuất kinh
doanh có giá trị giảm theo sổ sách kế toán là 5 triệu đồng. Một số hàng tồn
kho có giá trị kế toán là 10 triệu đồng và bán thanh lý được 5 triệu đồng.
3- TSCĐ hữu hình
• Nhà xưởng có giá trị kế toán là 9.000 triệu đồng và giá thị trường là
15.000 triệu đồng.
• Văn phòng có giá trị kế toán là 3.000 triệu đồng và giá thị trường là
3.600 triệu đồng.
• Các loại máy móc, thiết bị có giá trị kế toán là 2.000 triệu đồng và
giá thị trường là 1.800 triệu đồng.
• Công ty có dây chuyền sản xuất đặc thù không có thị trường mua
bán. Nguyên giá trên sổ sách khi mua là 1.000 triệu đồng, số năm dự
tính khấu hao là 20 năm, công ty đã sử dụng dây chuyền sản xuất đó
trong 10 năm. Khấu hao theo phương pháp đường thẳng.
4- Doanh nghiệp còn phải trả tiền thuê TSCĐ trong 10 năm là 260 triệu
đồng. Muốn thuê TSCĐ với những điều kiện tương tự như vậy tại thời điểm
hiện hành phải trả 300 triệu đồng. Lãi suất chiết khấu 10%.
5- Trước đây khi còn là doanh nghiệp nhà nước thì diện tích đất đang sử
dụng của công ty được nhà nước cấp để sản xuất kinh doanh, nay khi chuyển
sang cố phần hóa công ty xin chuyển sang hình thức giao đất có thu tiền sử
Định giá tài sản Page 16
dụng một lần. UBND thành phố quyết định giá trị quyền sử dụng toàn bộ diện
tích đất là 20.000 triệu đồng.
6- Giá chứng khoán của công ty X tại SGD chứng khoán tại thời điểm đánh
giá là 180.000đ/cổ phiếu.
7- Số vốn đầu tư vào công ty liên kết, liên doanh đánh giá lại tăng 50 triệu
đồng.
8- Số vốn đầu tư dài hạn khác sau khi đánh giá lại giảm 100 triệu đồng.
9- Công ty và ngân hàng thống nhất bằng văn bản chuyển một khoản nợ vay
dài hạn trị giá 1.000 triệu đồng thành vốn góp cổ phần.
10- Sau khi tập hợp hồ sơ công ty đã có đầy đủ tài liệu chứng minh có một
số khoản phải trả nhưng đến thời điểm đánh giá công ty không phải thanh toán
nữa là 200 triệu đồng.
11- Để công việc sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả tốt, doanh nghiệp đã đặt
hàng công ty phần mềm ABC các phần mềm ứng dụng bao gồm: phần mềm
quản lý quan hệ khách hàng, phần mềm kế toán, quản lý nguồn nhân lực,…
tổng giá trị ghi trong sổ sách kế toán là 100 triệu đồng tuy nhiên sau khi đánh
giá lại thì toàn bộ các phần mềm ứng dụng có giá trị giảm30 triệu đồng.
12- Chi phí cho việc xin giấy phép chế biến hàng nông sản mới tăng thêm 5
triệu đồng.
13- Sau khi tập hợp các báo cáo kinh doanh công ty có đầy đủ tài liệu chứng
minh thuế nhập khẩu của 1 số mặt hàng công ty đứng ra trực tiếp nhập khẩu
(theo giá CIF) tăng 65 triệu đồng làm cho thuế GTGT được khấu trừ của tăng
30 triệu đồng.
Từ các thông tin trên tiến hành xác định lại tổng giá trị tài sản của DN
Định giá tài sản Page 17
BÀI GIẢI:
1,-Công ty có một số khoản nợ không có khả năng đòi nợ trị giá 3.000 triệu
đồng nên làm giảm giá trị doanh nghiệp 3.000 triệu đồng.
- Khoản nợ khó đòi trị giá 15.000 trđ , khi bán lại cho công ty mua bán nợ
với giá bằng 40% giá trị thì số tiền công ty bị mất:
15.000- 15.000× 40% = 9.000 (triệu đồng).
=>Tổng số nợ công ty bị mất là: 3.000+9.000= 12.000 (triệu đồng)
2, TSCĐ hữu hình
• Chênh lệch giữa giá trị thị trường và giá trị kế toán của nhà xưởng là
:
15.000 – 9.000 = 6.000 ( triệu đồng).
• Chênh lệch giữa gái trị thị trường và giá trị kế toán của văn phòng là
:
3.600 – 3.000 = 600 (triệu đồng).
• Chênh lệch máy móc thiết bị có giá trị thị trường và giá trị kế toán
là :
1.800 – 2.000 = -200 (triệu đồng).
• Dây truyền sản xuất đặc thù:
-Vì đã sử dụng được 10 năm nên giá trị còn lại của dây truyền sản xuất
trên sổ sách kế toán là:
-Khấu hao theo phương pháp đường thẳng nên mức khấu hao bình quân
là:
Định giá tài sản Page 18
-Chiết khấu dòng thu nhập nhận được từ việc trích khấu hao trong 10 năm
còn lại:
x
=>Giá trị tài sản giảm: 500-307,228= 192,772 (triệu đồng)
Vậy số tiền thay đổi trên tài khoản kế toán là: 6.000+600-200-192,772 =
6.207,228(triệu đồng)
3,Đối với giá trị lợi thế của quyền được thuê tài sản có thể được tính thông
qua bảng sau:
Đơn vị tính : triệu đồng
Năm 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Giá thuê hiện
hành trên thị
trường
300 300 300 300 300 300 300 300 300 300
Giá thuê theo
hợp đồng
260 260 260 260 260 260 260 260 260 260
Khoản tiết
kiệm được
40 40 40 40 40 0 40 40 40 40
Định giá tài sản Page 19
Giá trị lợi thế quyền thuê tài sản có thể được tính bằng giá trị hiện tại
của khoản tiền tiết kiệm được trong 10 năm. Sử dụng công thức:
PV
o
= a ×
r
r
10
)1(1
−
+−
= 40 ×
%10
%)101(1
10−
+−
= 245.78 ( triệu đồng).
Như vậy giá trị lợi thế quyền thuê tài sản là: 245.78 triệu đồng.
4, Đối với chứng khoán đầu tư vào công ty A: Giá thị trường của 50.000 cổ
phiếu đầu tư vào công ty A được tính tại thời điểm xác định giá trị doanh
nghiệp là:
50.000 cổ phiếu × 180.000đ/cổ phiếu = 9.000 ( triệu đồng).
=>Giá khoản đầu tư CK vào công ty X tăng: 9.000-5.000 = 4.000 (triệu
đồng)
5, Công ty và ngân hàng thống nhất chuyển một khoản vay dài hạn thành góp
vốn cổ phần trị giá 1000 triệu đồng nên đã làm tăng vốn chủ sở hữu giảm nợ
phải trả trong bảng cân đối kế toán của công ty.
Bảng : Các thay đổi về giá trị tài sản,nợ của doanh nghiệp (Đơn vị: triệu
đồng)
Định giá tài sản Page 20
TĐ1 TĐ2 TĐ3 TĐ4 TĐ5 TĐ6 TĐ7 TĐ8 TĐ9 TĐ10 TĐ11 TĐ12
(+) 12.000 6.207,228 245,7
8
20.000 4.000 50 5
(-) 10 100 1000 200 30
• Từ đó, tổng giá trị tài sản doanh nghiệp sau khi đánh giá lại là:
90.200+12.000-10+6.207,228+245,78+20.000+4.000+50-100-30+5+30=
132.598,008 (triệu đồng).
• Tổng nợ của doanh nghiệp đánh giá lại là : 57600-1000- 200 = 56400
(triệu đồng).
Giả sử doanh nghiệp không phải nộp thuế tính trên giá trị tăng thêm sau
khi đánh giá lại tài sản ( điều nầy tùy thuộc ở luật pháp mỗi quốc gia) theo giá
trị thị trường thì giá trị tài sản thuần được xác định như sau:
Giá trị tài sản thuần = 132.558,008 – 56400 = 76.198,008(triệu đồng).
II, Thành tựu và hạn chế trong quá trình định giá doanh nghiệp của
công ty Cổ phần Vận tải và Thương mại
1, Thành tựu: Doanh nghiệp đã tiến hành định giá doanh nghiệp để phục
vụ cho quá trình cổ phần hóa của doanh nghiệp. Định giá doanh nghiệp
thành công là cơ sở để doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa.
2, Hạn chế trong quá trình định giá của doanh nghiệp: Tuy đã đạt được nhiều
thành tựu trong quá trình định giá của doanh nghiệp vẫn gặp phải nhiều
hạn chế. Trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp vận dụng phương
pháp giá trị tài sản thuần để phục vụ cho quá trình cổ phần hóa doanh
nghiệp, một số quy định về cổ phần hóa đã cản trở cho việc định giá như các
quy định về xác định giá trị của các khoản thu khó đòi của Bộ Tài Chính quá
cứng nhắc… Vì thế khi tiến hành định giá có những khoản thu hầu như
Định giá tài sản Page 21
không có khả năng thu hồi nhưng doanh nghiệp vẫn phải tính vào giá trị tài
sản của doanh nghệp để định giá.
Phương pháp định giá bằng phương pháp xác định giá trị tài sản thuần
không nói đến việc định giá những tài sản vô hình như danh tiếng, nhãn hiệu
sản phẩm, hàng hóa, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Nên giá trị của
doanh nghiệp khó có thể xác định chính xác.
Định giá tài sản Page 22