Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Ứng dụng phương pháp xác định giá trị rủi ro VaR trong phân tích và quản trị rủi ro các dự án đầu tư ngành thép tại Ngân hàng Agribank chi nhánh tỉnh Hải Dương.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.71 KB, 32 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Hiện nay, nước ta đang trong giai đoạn cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước,
đây là một thời kỳ quan trọng mà thành cơng của nó sẽ đưa đất nước ta thốt khỏi đói
nghèo lạc hậu để trở thành một nước cơng nghiệp phát triển. Để thực hiện cơng nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước địi hỏi một nguồn vốn đầu tư rất lớn. Hơn nữa hiện đại hóa
cơng nghiệp hóa khiến đất nước phải hội nhập, gia nhập một sân chơi bình đẳng và chịu
sự cạnh tranh vơ cùng khốc liệt đúng như bản chất của nền kinh tế thị trường.
Ngân hàng là một trong những trung gian tài chính có vai trị quan trọng trong
việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, và trong giai đoạn phát triển của đất nước. Hệ thống
Ngân hàng có hoạt động tốt thì mới điều hòa được nguồn vốn cho nền kinh tế, nguồn
vốn được đầu tư vào đúng nơi đúng chỗ. Do có vai trị quan trọng nên từ sự thành cơng
hay thất bại trong hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng có thể đánh giá được
sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. Khi nền kinh tế càng phát triển, nền kinh tế thị
trường đã dần định hình rõ ở nước ta, thì cũng như các doanh nghiệp trong nền kinh tế,
các Ngân hàng thương mại phải đối mặt với rất nhiều rủi ro như: Rủi ro tín dụng, rủi ro
lãi suất, rủi ro thị trường...vv.
Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu của hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam, mang lại 80-90% thu nhập của mỗi ngân hàng, tuy nhiên rủi ro của nó cũng
khơng nhỏ. Rủi ro tín dụng cao quá mức sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh
ngân hàng. Đứng trước những thời cơ và thách thức của tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước với
các ngân hàng thương mại nước ngoài, mà cụ thể là nâng cao chất lượng tín dụng, giảm
thiểu rủi ro đã trở nên cấp thiết
Trong thời gian gần đây, hoạt động quản lý rủi ro tại các Ngân hàng thương mại
ở nước ta đã bắt đầu được chú trọng, do yêu cầu của sự hội nhập nền kinh tế quốc tế.
Mặc dù không triệt tiêu hết được rủi ro nhưng ngày nay, nhờ có sự tiến bộ của khoa học
kỹ thuật, các cơng cụ tốn học cho phép con người có thể chủ động phịng ngừa, giảm
thiểu, hay hốn đổi rủi ro, chủ động kiểm sốt rủi ro. Đó là lý do cho sự ra đời của hàng
1



loạt các hệ thống và phương pháp định giá rủi ro. Một trong các phương pháp định giá
rủi ro đáng tin cậy là phương pháp xác định giá trị rủi ro (Value at Risk – VaR).
Qua thời gian thực tập ở Ngân hàng Agribank chi nhánh tỉnh Hải Dương, cùng
với những kiến thức tích lũy được trong thời gian cịn học ở lớp Toán Kinh Tế, khoa
Toán Kinh Tế thuộc trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, với sự chỉ dẫn tận tình của
TS ..., em chọn đề tài: “Ứng dụng phương pháp xác định giá trị rủi ro VaR trong phân
tích và quản trị rủi ro các dự án đầu tư ngành thép tại Ngân hàng Agribank chi nhánh
tỉnh Hải Dương ” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình
2. Mục đích nghiên cứu:
- Tổng quan về rủi ro tín dụng và phương pháp phân tích giá trị rủi ro VaR.
- Phân tích rủi ro trong hoạt động tín dụng đầu tư dự án tại Ngân hàng Agribank chi
nhánh tỉnh Hải Dư ơng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi nghiên cứu, chuyên đề đi sâu vào phân tích và quản trị rủi ro của hoạt
động cho vay dự án (các dự án ngành thép), từ đó có cơ sở để đưa ra các kiến nghị, đề
xuất nhằm hạn chế rủi ro tại Ngân hàng Agribank chi nhánh tỉnh Hải Dương.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong chuyên đề này, tơi sử dụng mơ hình xác định giá trị rủi ro VaR đã được học tại
chuyên ngành Toán Kinh tế, khoa Toán Kinh tế, trường Đại học Kinh tế quốc dân để đo
lường và quản trị rủi ro. Từ đó ứng dụng vào phân tích và quản lý rủi ro hoạt động cho
vay dự án ngành thép của Ngân hàng Agribank chi nhánh tỉnh Hải Dương.

5. Kết cấu của chuyên đề:
Chương 1: Lý luận chung về rủi ro và mơ hình VaR
2


Chương 2: Một số phương pháp xác định VaR
Chương 3: Ứng dụng mơ hình VaR trong phân tích và quản trị rủi ro trong các dự án đầu

tư ngành thép tại ngân hàng Agribank chi nhánh tỉnh Hải Dương.

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO VÀ MƠ HÌNH VaR
1 . Lý thuyết chung về rủi ro
3


1.1.Khái niệm chung về rủi ro:
Cụm từ "rủi ro" được nhiều nhà kinh tế định nghĩa theo nhiều cách khác nhau,
nhưng khái quát lại ta có thể hiểu rủi ro là xuất hiện một biến cố không mong đợi gây
thiệt hại cho một cơng việc cụ thể. Rủi ro có thể xảy ra trong mọi hoạt động, mọi lĩnh
vực mà không phụ thuộc vào ý muỗn của con người.
Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng cũng luôn gắn liền với rủi ro.
Rủi ro tác động trực tiếp tới kết quả doanh lợi, nguy cơ phá sản của các ngân hàng. Do
vậy việc thừa nhận rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng và từ đó tìm kiếm
nhiều phương pháp chống đỡ các rủi ro là đòi hỏi của sự tồn tại và phát triển ngân
hàng. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là một tất yếu, mà các nhà quản lý ngân hàng
chỉ có thể có chính sách giảm bớt chứ khơng thể gạt bỏ được chúng.
1.2. Phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
1.2.1. Rủi ro thị trường:
1.2.1.1. Khái niệm:
Rủi ro thị trường ( market risk ) là rủi ro khi giá trị của một danh mục đầu tư hoặc danh
mục kinh doanh sẽ bị suy giảm do sự thay đổi trong các nhân tố của thị trường, ví dụ
như giá chứng khốn, lãi suất, tỷ giá, giá hàng hố...trong đó, quan trọng nhất là do lãi
suất và tỷ giá.
1.2.1.2. Phân loại rủi ro thị trường:
+ Rủi ro lãi suất: là những tổn thất tiềm tàng mà ngân hàng phải gánh chịu khi lãi suất
thị trường biến động. Khi lãi suất thị trường thay đổi, nó ảnh hưởng đến ngân hàng trên
2 khía cạnh là thu nhập ( khả năng suy giảm thu nhập ròng ) và giá trị thị trường của tài
sản.

Rủi ro lãi suất có 2 ngun nhân chính, đó là do ngân hàng duy trì sự khơng cân xứng về
kì hạn tài sản có ( TSC ) và tài sản nợ ( TSN ), đồng thời có sự biến động của lãi suất thị
trường.
Nguyên nhân sự không cân xứng về kỳ hạn TSC và TSN:

4


* Do sự đa dạng về nhu cầu của khách hàng gửi tiền và vay tiền. Trên thực tế điều này
xảy ra là hồn tồn tất yếu vì các khách hàng gửi tiền cũng như vay tiền của ngân hàng
hết sức đa dạng, mỗi người trong số họ có những nhu cầu khác nhau khi gửi tiền hoặc
vay tiền ngân hàng dẫn đến sự đa dạng về kỳ hạn của các khoản vốn huy động và các
khoản cho vay.
* Các ngân hàng có khuynh hướng duy trì thời hạn TSC lớn hơn thời hạn TSN nhằm có
được lợi thế về lợi nhuận. Chẳng hạn, các ngân hàng thường sử dụng một phần nguồn
vốn ngắn hạn với lãi suất thấp để cho vay thời hạn dài hơn với mức lãi suất cao hơn.
* Ngân hàng thường không qui định khách hàng bắt buộc phải thực hiện cam kết trong
hợp đồng. Chẳng hạn, các khách hàng gửi tiền ngân hàng với thời hạn ban đầu là 5 năm
nhưng có thể rút sớm trước thời hạn mà không bị ngân hàng ngăn cấm, các khách hàng
vay tiền cũng có thể trả nợ trước hạn, và ngược lại có trường hợp được ngân hàng cho
gia hạn nợ. Tần số xuất hiện sự vi phạm thoả thuận về thời hạn của các khách hàng gửi
tiền và vay tiền thường không tương xứng với nhau và thực tế này càng làm tăng khả
năng mất cân xứng về kỳ hạn của các khoản cho vay và các khoản vốn huy động của
ngân hàng. Chính vì vậy, sự chênh lệch về kỳ hạn của TSC và TSN của ngân hàng là
điều không thể tránh khỏi.
+ Rủi ro ngoại hối: là những tổn thất tiềm tàng trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng khi có sự biến động của tỷ giá hối đối.
Có 2 ngun nhân chính làm phát sinh rủi ro ngoại hối:
* Ngân hàng duy trì sự không cân bằng trạng thái ngoại hối: Do ngân hàng mua bán
ngoại tệ phục vụ khách hàng và mua bán cho chính mình, ngân hàng đầu tư vào TSC và

huy động vốn bằng ngoại tệ. Cả 2 nguyên nhân này tạo ra một xu hướng trạng thái ngoại
tệ ròng ( trường hoặc đoản ) đối với hầu hết các NHTM hiện đại.
* Sự biến động của tỷ giá hối đoái: Nếu ngân hàng duy trì trạng thái trường ( hoặc
đoản ) về ngoại tệ mà khơng có thay đổi về tỷ giá, ngân hàng sẽ không gặp phải rủi ro
hối đối. Nếu tỷ giá biến động càng mạnh thì rủi ro ngoại hối sẽ càng lớn, và ngược lại.
1.2.2. rủi ro tín dụng :
1.2.2.1. Khái niệm:
5


Rủi ro tín dụng là một hiện tượng thường gặp ở bất kì một ngân hàng thương mại nào,
nó cũng xảy ra trên mọi đối tượng, lĩnh vực, vùng đầu tư: Quốc doanh, HTX, hộ sản
xuất, cho vay sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, cho vay khu vực nông thôn, thành thị…
Rủi ro tín dụng xảy ra có thể do nguyên nhân chủ quan về phía ngân hàng thương mại,
khách hàng vay vốn nhưng cũng có thể do nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai,
dịch hoạ…
Rủi ro tín dụng là những rủi ro do khách hàng vay không thực hiện đúng các điều khoản
của hợp đồng tín dụng, với biểu hiện cụ thể là khách hàng chậm trả nợ, trả nợ không
đầy đủ hoặc không trả nợ khi đến hạn các khoản gốc và lãi vay, gây ra những tổn thất về
tài chính và khó khăn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, rủi ro tín dụng ảnh hưởng rất
lớn đến mọi hoạt động của Ngân hàng. Nếu món vay của Ngân hàng bị thất thốt, dân
chúng sẽ thiếu lịng tin và tìm cách rút tiền khỏi Ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến khả
năng thanh khoản của Ngân hàng thương mại.
Khi rủi ro tín dụng phát sinh, Ngân hàng thương mại không thực hiện được kế hoạch
đầu tư cũng như kế hoạch thanh toán các khoản tiền gửi đến hạn.
Rủi ro tín dụng lớn sẽ dẫn đến khó khăn trong việc huy động vốn và phát triển các sản
phẩm dịch vụ, khó mở rộng quan hệ với các bạn hàng và các Ngân hàng khác, buộc
Ngân hàng phải thu hẹp hoạt động, tất cả thể hiện ở lợi nhuận giảm, ngân hàng phải sử
dụng vốn tự có để bù đắp sự giảm sút đó, uy tín của Ngân hàng giảm sút, dẫn đến tình

trạng khó khăn, phá sản.

1.2.2.2. Phân loại:
Rủi ro tín dụng nếu phân chia theo tính chất nghiệp vụ thì bao gồm:
+ Rủi ro trong hoạt động cho vay: trong đó khách hàng khơng trả được nợ hay khơng
có ý định trả nợ (bao gồm cả gốc và lãi đúng hạn) cho ngân hàng.
+ Rủi ro trong hoạt động bảo lãnh: khi ngân hàng chấp nhận phát hành bảo lãnh cho
khách hàng đồng nghĩa với việc ngân hàng cam kết chịu trách nhiệm trả tiền thay cho
6


khách hàng nếu họ không thực hiện đầy đủ và đúng nghĩa vụ đã thoả thuận. Do vậy rủi
ro mất vốn là rất lớn.
+ Rủi ro trong hoạt động thuê mua : Trong thời gian sử dụng và nắm giữ tài sản đặc
biệt là trong cho thuê tài chính, khách hàng không thực hiện cam kết trả tiền thuê hay
bảo quản tài sản cho thuê dẫn đến mất mát và hư hỏng.
+ Rủi ro trong hoạt động chiết khấu : mà ngân hàng có thể gặp là rủi ro khơng hoàn
trả xuất phát từ việc ngân hàng chiết khấu các hối phiếu giả mạo hoặc do khả năng tài
chính yếu kém của người thụ lệnh và người hưởng thụ_khách hàng chiết khấu (vì khi
ngân hàng khơng địi được tiền từ người thụ lệnh thì người chiết khấu phải trả tiền cho
ngân hàng, rủi ro sẽ xảy ra trong trường hợp cả hai bên khơng có khả năng thanh tốn).
1.2.2.3. Ngun nhân gây ra rủi ro tín dụng:
Hoạt động tín dụng là hoạt động luôn tiềm ẩn những rủi ro mà khơng một nhà kinh
doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đốn chính xác được mức độ thiệt hại của nó. Có
rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, nó bao gồm rất nhiều yếu tố khơng chỉ từ
trong nội bộ ngân hàng mà từ chính khách hàng và mơi trường bên ngồi. Có thể chia
các nhân tố đó thành ba nhóm.

* Nguyên nhân xuất phát từ chính ngân hàng.
Nguyên nhân từ phía ngân hàng trên thực tế khơng phải đều xuất phát từ chính ngân

hàng đó mà còn chịu tác động của các yếu tố khách quan gây ra.
+ Nguyên nhân khách quan:
Hoạt động của các ngân hàng thương mại bên cạnh việc chịu sự kiểm sốt của
nhà nước cịn chịu sự quản lý của ngân hàng nhà nước. Do vậy nên một trong những
7


nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng là các chính sách
tín dụng, quy chế cho vay áp dụng cho các ngân hàng thương mại cịn chưa đồng bộ,
thiếu chặt chẽ và ln biến đổi.. Bên cạnh đó là do các chế tài của nhà nước như về
thuế, quyền sử dụng đất, bán đấu giá tài sản cịn có nhiều bất lợi cho việc xử lí những tài
sản đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp tuyên bố phá sản. Việc cho vay đối với các
doanh nghiệp nhà nước hoặc cho vay theo chỉ định gặp rất nhiều khó khăn trong việc
thu nợ, tài sản đảm bảo bị giảm giá do biến động của thị trường, chất lượng tài sản thế
chấp bị hỏng do quá thời hạn bảo hành.
+ Nguyên nhân chủ quan:
Mặc dù có rất nhiều điều kiện khách quan ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
của các ngân hàng, nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là các yếu tố chủ quan do ngân
hàng gây ra.
• Trước hết phải kể đến việc thu thập thơng tin trong q trình trước khi ra quyết định
cho vay không đủ dẫn đến thiếu thông tin nên khơng phân tích tồn diện.
• Ngân hàng khơng tơn trọng đầy đủ quy trình cho vay, làm thiếu hoặc bớt một số khâu
dẫn đến tạo kẽ hở để khách hàng chiếm đoạt vốn của ngân hàng.
• Việc điều tra kiểm soát đối tượng vay vốn về phương án kinh doanh lúc đầu không
đảm bảo, thiếu cân nhắc dẫn đến sơ hở, thiếu đảm bảo cho đầu tư vốn có hiệu quả.
• Do đội ngũ nhân viên ngân hàng cịn yếu kém.
• Do áp lực cạnh tranh mà ngân hàng có thể đơn giản hố phân tích đánh giá hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.
• Ngân hàng khơng kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc kiểm tra, đơn đốc q trình sử dụng
vốn vay và thu hồi vốn dẫn đến nhiều khách hàng sử dụng vốn sai mục đích.

• Do tình trạng gian lận, tham nhũng, cố tình vi phạm quy định hoặc có hành vi lừa đảo
gây thất thốt vốn nghiêm trọng của một số cán bộ ngân hàng.
* Nguyên nhân từ phía khách hàng.
+ Nguyên nhân chủ quan:
8


• Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích dẫn đến thua lỗ, khơng có khả năng trả nợ cho
ngân hàng.
• Do trình độ kinh doanh và khả năng điều hành doanh nghiệp quá kém dẫn đến làm ăn
không hiệu quả.
• Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thiếu sự linh hoạt, khơng cải tiến quy trình cơng
nghệ, khơng trang bị máy móc hiện đại… dẫn đến sản phẩm khơng cạnh tranh được, bị
ứ đọng khơng có khả năng tiêu thụ, doanh nghiệp khơng có tiền trả nợ cho ngân hàng.
• Do chính bản thân doanh nghiệp chủ ý muốn lừa đảo nhằm chiếm dụng vốn của ngân
hàng.
+ Nguyên nhân khách quan:
Có thể thấy nhũng nguyên nhân khách quan sau gây ra những hậu quả xấu cho hoạt
động kinh doanh của khách hàng, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng.
• Do sự thay đổi bất thường của những chính sách kinh tế của nhà nước như thuế,
XNK…
• Do những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh, hoả hoạn…
* Những nguyên nhân khác:
Bên cạnh những nguyên nhân từ hai phía ngân hàng và khách hàng cũng có nhiều
ngun nhân gây rủi ro khác.
• Do mơi trường pháp lý lỏng lẻo, thiếu đồng bộ.

• Do sự biến động của tình hình chính trị xã hội trong và ngồi nước gây khó khăn cho
doanh nghiệp dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
• Ngân hàng khơng theo kịp sự phát triển của xã hội, nhất là sự bất cập trong trình độ

chun mơn cũng như cơng nghệ ngân hàng.
• Do sự biến động của nền kinh tế.
• Sự điều tiết của bàn tay vơ hình của cơ chế thị trường.
• Sự bất bình đẳng trong việc đối xử của nhà nước giành cho các ngân hàng thương mại
khác nhau.
9


• Chính sách của nhà nước chậm thay đổi hoặc chưa phù hợp với tình hình phát triển đất
nước.
1.2.3. rủi ro thanh khoản : Rủi ro thanh khoản xảy ra khi cung về tiền ít hơn cầu về
tiền, rủi ro thanh khoản liên quan đến khả năng chuyển các tài sản chính thành tiền một
cách nhanh chóng mà khơng chịu thất thốt về giá cả. Hay nói một cách khác rủi ro
thanh khoản là rủi ro khi ngân hàng không đủ tiền đáp ứng các khoản phải trả khi đến
hạn thanh tốn, hoặc vì một biến cố nào đó mà khách hàng rút tiền ào ạt.
1.2.4. rủi ro hoạt động : rủi ro do chính con người hoặc sự cố về kỹ thuật mang lại
một cách vơ tình hay cố ý. Đây cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro thị trường và rủi ro tín
dụng.
1.2.5. rủi ro pháp lý : phát sinh do thực hiện các giao dịch không đúng luật gây nên
tổn thất, kiện cáo của khách hàng hoặc của các cổ đông.

1.3. Một số sự kiện trên thị trường tài chính đáng chú ý:
- Năm 1971, hệ thống tỷ giá cố định được dỡ bỏ và thay vào đó là hệ thống tỷ giá
thả nổi, vừa tạo ra những biến động thường xuyên của tỷ giá ngoại tệ.
- Năm 1973, cú sốc về dầu lửa gây nên một tỷ lệ lạm phát rất cao và lãi suất dao
động mạnh tại nhiều nước trên thế giới.
- Năm 1975, lần đầu tiên tại thị trường chứng khoán Chicago, các hợp đồng Future
được đưa vào giao dịch.

- Ngày thứ 2 đen tối, 19/10/1987, tại thị trường LonDon chỉ số FTSE đột ngột giảm

30% chỉ sau 3 ngày. Thị trường chứng khoán Mỹ đổ bể, chỉ số chứng khoán Down Jone
giảm 500 điểm (23%), thiệt hại ước tính trên 1000 tỷ USD tiền vốn. Chỉ trong ngày này,
chỉ số Hansen tại thị trường HongKong đã giảm 10% khiến nhà chức trách buộc phải
đóng cửa thị trường (ngày 26/10 thị trường mở cửa trở lại và chỉ số Hansen tiếp tục
giảm 33%). Riêng thị trường Tokyo tuy có bị ảnh hưởng nhưng mức độ không trầm
trọng. Cho đến nay, nhiều tổ chức, cá nhân vẫn cố gắng lý giải, tìm hiểu các nguyên
nhân của cuộc khủng hoảng.

10


- Năm 1989, hiện tượng bong bóng đầu tư trên thị trường chứng khoán Nhật bắt đầu
vỡ,chỉ số chứng khoán Nikkei bắt đầu giảm từ 39000 điểm xuống 17000 điểm trong
vịng 3 năm dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Nhật, thiệt hại trên 2.7 ngàn tỷ USD tiền
vốn.
- Năm 1992, xu hướng tiến tới một đồng tiền chung Châu Âu tạm thời bị gián đoạn
do những biến cố làm cho một số nước phải tạm thời rút cam kết ra khỏi hệ thống tiền tệ
Châu Âu.
- Năm 1994, sau hơn 3 năm duy trì mức lãi suất thấp, Cục dự trữ liên bang Mỹ
(Fed) đã 6 lần liên tiếp điều chỉnh lãi suất làm thiệt hại 1.5 ngàn tỷ USD tiền vốn trên thị
trường thế giới.
- Ngày 26/2/1995, ngân hàng Baring, một trong những ngân hàng lâu đời nhất của
Anh tuyên bố phá sản do sự sụp đổ của chi nhánh Singapo, thiệt hại xấp xỉ khoảng 13 tỷ
USD.
- Khủng hoảng tài chính Đơng Nam Á (1996 - 1999). Từ cuối năm 1996, khủng
hoảng tiền tệ bắt đầu từ Thái Lan, Malayxia sau đó lan sang Nga, Ba Lan, rồi sang các
nước Đông Âu, Nam Mỹ.
- Năm 1997, khủng hoảng tiền tệ Châu Á xảy ra tại các nước Thái Lan, Mlaysia,
Indonesia, Hàn Quốc.
- Năm 1998, khủng hoảng mất khả năng thanh toán của nhiều ngân hàng Nga.

- Năm 1998, sự đổ vỡ của công ty “Quản lý quỹ đầu tư vốn dài hạn” (Long Term
Capital Management). Quỹ do một số tài phiệt phố Wall kết hợp với một số chuyên gia tài
chính lỗi lạc (đã từng đoạt giải Nobel kinh tế) điều hành. Năm 1998 quỹ mất khả năng thanh
tốn món nợ khổng lồ 100 tỷ USD buộc FEB phải hỗ trợ 3,5 tỷ USD tuy nhiên sự kiện này
vẫn gây thiệt hại hàng tỷ USD đối với các cổ đông và nhà đầu tư của quỹ.
Bảng dưới đây tóm tắt một số ảnh hưởng tiêu cực của những biến động trong hệ thống ngân
hàng, tài chính các nền kinh tế của một số quốc gia:
Nước/năm

Phạm vi

Tổn
thất

11

Tổn
thất


(%GDP)

(tỷ USD)

Nhật,1990

Nợ xấu, bất động sản

14


550

Trung Quốc,1990

4 ngân hàng quốc doanh lớn nhất

47

498

Mỹ,1984-1991

1400 tổ chức tiết kiệm tín

2.7

150

dụng,1300 ngân hàng đổ bể tài chính
Hàn Quốc,1998

Cơ cấu lại ngân hàng

28

90

Mehico,1995

20 ngân hàng tái cơ cấu vốn


17

72

Archentina,1980-92

Đóng cửa 70 tổ chức TC

55

46

Thái Lan,1997

Hệ thống ngân hàng

32

36

Malaysia,1997

Hệ thống ngân hàng

35

25

Thuỵ Điển,1991-94


Cứu cánh 5 ngân hàng

4

15

Pháp,1994-95

Ngân hàng Credit Lyonnaire

0.7

10

Isarel,1977-83

Toàn bộ hệ thống ngân hàng

30

8

Phần lan,1991-93

Ngân hàng tiết kiệm

8

7


Úc,1989-92

Cơ cấu vốn 2 Ngân hàng lớn

2

6

Nguồn: số liệu trích từ "Philippe Jorion (2001), Value at Risk"
1.4. Nhu cầu về quản lý định lượng rủi ro:
Các nhân tố của thị trường như lãi suất, tỷ giá luôn ln biến động, do đó các NHTM
ln phải gánh chịu rủi ro thị trường. Lịch sử đã chứng kiến rất nhiều ngân hàng bị sụp
đổ do tác động của rủi ro thị trường, như Nothern Rock tại Anh vào năm 2007 ( do sự
thay đổi của lãi suất thị trường, khi lãi suất Libor lên tới đỉnh điểm ~7% vào tháng
7/2007 ) hay nhu sự thua lỗ của một loạt các NHTM tại Mỹ vào những năm 1990s.
Tại Việt Nam hiện nay, chúng ta đang giám sát rủi ro với các NHTM dựa trên quyết
định 457/2005 của NHNN, trong đó chủ yếu tuân theo Basel 1 năm 1998 với các qui
định về tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu ( CAR ), các tỉ lệ về đảm bảo khả năng thanh toán, về
giới hạn cho vay...và chưa đề cập tới bất kỳ một chỉ tiêu hay công cụ gợi ý nào cho các
NHTM để đo lường và giám sát rủi ro thị trường. Trong năm 2008, khi lãi suất thị
trường và tỷ giá biến động mạnh, rất ít các NHTM có một hệ thống dự báo về tổn thất

12


có thể xảy ra để có thể có mức vốn dự trữ hợp lý, hoặc điều chỉnh hoạt động kinh doanh
của mình sao cho phù hợp.
Qua thời gian, Basel 1 đã bộc lộ rất nhiều điểm yếu. Việc áp dụng Basel 1 chưa thể giúp
các nước ngăn chặn khủng hoảng tài chính tiền tệ, mà cụ thể là nước Mỹ đã trải qua

hàng loạt thất bại trong lĩnh vực quản lý ngân hàng vào những năm 1990s.
Hiệp ước Basel 2 được ra đời vào năm 2001 nhằm thay thế Basel 1, đã đưa ra 1 loạt các
chuẩn mực và lựa chọn, đưa ra quyền tự quyết rất lớn trong hoạt động giám sát ngân
hàng. Hiện tại, các NHTM trên thế giới đang triển khai các hệ thống giám sát ngân hàng
dựa trên 3 trụ cột của hiệp ước Basel 2:
* Trụ cột (i) - Yêu cầu vốn tối thiểu: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Lượng vốn
duy trì được tính tốn theo ba yếu tố rủi ro chính mà ngân hàng phải đối mặt ( rủi ro tín
dụng, rủi ro vận hành và rủi ro thị trường ). Những loại rủi ro khác không được coi là có
thể lượng hố hồn tồn ở bước này.
* Trụ cột (ii) - Giám sát: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, cung cấp
cho các nhà hoạch định chính sách những " cơng cụ " tốt hơn so với Basel 1. Trụ cột này
cũng cung cấp 1 khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi ro hệ
thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý, mà hiệp
ước tổng hợp lại dưới cái tên " rủi ro còn lại ( residual risk ) ".
* Trụ cột (iii) - Tuân thủ kỷ luật thị trường để nâng cao tính ổn định của hệ thống tài
chính: làm gia tăng một cách đáng kể các thông tin mà một ngân hàng phải cơng bố để
thị trường có một bức tranh hoàn thiện hơn về vị thế rủi ro tổng thể của ngân hàng và
cho phép các đối tác của ngân hàng định giá và tham gia chuyển giao một cách hợp lý.
Trong trụ cột (ii), Basel đã đưa ra một số khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng
đối mặt, đặc biệt là rủi ro thị trường, đó là việc áp dụng mơ hình Varlue at Risk ( giá trị
khi rủi ro ) để giám sát những rủi ro do sự thay đổi các tác nhân thị trường gây ra.

2. Định giá rủi ro bằng phương pháp VaR
2.1. Khái niệm về giá trị rủi ro (VaR):

13


Trong lĩnh vực tốn tài chính và quản trị rủi ro tài chính, VaR được sử dụng rộng rãi trong
đo lường rủi ro bị tổn thất của một danh mục cụ thể. Với một danh mục cho trước xác suất

và khoảng thời gian, VaR được xem như một ngưỡng giá trị mà khả năng bị tổn thất trên
giá trị điều chỉnh theo thị trường của danh mục đó trong khoảng thời gian định trước vượt
qua giá trị này ( với giả điịnh diễn biến thị trường như bình thường và khơng có giao dịch
mua bán danh mục ) chính là mức xác suất đã được cho trước
=> VaR của danh mục hoặc tài sản thể hiện mức độ tổn thất có thể xảy ra trong một
khoảng thời gian nhất định với mức dộ tin cậy nhất định.
Ví dụ, nếu ngân hàng tính được VaR hàng ngày của một danh mục đầu tư là khoảng 500
triệu VND với mức tín cậy 95 % thì điều đó có nghĩa là xác suất mà Ngân hàng bị thiệt hại
500 triệu VND là 5%. Khoản tổn thất vượt quá ngưỡng VaR được gọi là "VaR break".
Để khái qt hố, tơi đưa ra một số đặc điểm cơ bản về VaR như sau:
- VaR là tổn thất tối thiểu trong một khoảng thời gian nhất định với điều kiện xác suất
xảy ra tổn thất thực sự lớn hơn là rất thấp. Nói cách khác, VaR là số tiền lớn nhất có khả
năng bị mất của danh mục trong một khoảng thời gian cho trước, với một độ tin cậy
nhất định.
- VaR thơng thường được tính cho từng ngày trong khoảng thời gian nắm giữ tài
sản, và thường được tính với độ tin cậy 95% hoặc 99%. Độ tin cậy 95%: Với sác
xuất khoảng 95% tổn thất của danh mục sẽ thấp hơn so với VaR đã được tính
tốn. Thơng thường, VaR được xem như là số thiệt hại lớn nhất của danh mục
trong vòng 24h, với độ tin cậy 95%.
- VaR có thể áp dụng được với mọi danh mục có tính lỏng ( danh mục mà giá trị được
điều chỉnh theo thị trường ). VaR không thể áp dụng được với các tài sản khơng có tính
lỏng ( như bất động sản, tác phẩm nghệ thuật...). Tất cả mọi tài sản lỏng đều có giá trị
không cố định, được điều chỉnh theo thị trường với một quy luật phân bố xác suất nhất
định - mọi nguyên nhân rủi ro của thị trường hình thành nên quy luật phân bố xác suất
này. Hữu dụng với tất cả tài sản lỏng, chứa đựng mọi nguồn rủi ro thị trường, do đó
VaR là phương pháp đo lường toàn diện đối với rủi ro thị trường.

14



- VaR được xác định dựa trên quy luật phân bố xác suất cho giá trị thị trường của danh
mục. Thông thường, sự biến động giá trị của các tài sản lỏng tuân theo quy luật phân
phối chuẩn, với 2 giá trị đặc trưng là mức ý nghĩa ( kỳ vọng ) và phương sai.

2.2. Các công cụ quản lý rủi ro:
Sự dao động với tần suất và biên độ ngày càng lớn trên thị trường hối đoái, thị trường
hàng hóa, thị trường lãi suất…làm nảy sinh nhu cầu đối với những cơng cụ tài chính
mới có khả năng vơ hiệu hóa những biến động bất thường. Như vậy, quản lý rủi ro tài
chính có thể được định nghĩa là sự thiết kế và phát triển các công cụ kiểm sốt rủi ro tài
chính. Quản lý rủi ro là phản ứng nhằm đối phó với những biến động ngày càng tăng
trên thị trường tài chính tồn cầu, và được hỗ trợ bởi những phát kiến kỹ thuật. Sự phát
triển của công nghệ cao đã tạo ra những đột phá mới ở cả hai phương diện: về trang bị
kỹ thuật và về lý thuyết tài chính.

Ứng với mỗi cơng cụ tài chính người ta đưa ra những phương tiện kiểm sốt rủi ro khác
nhau:

Công cụ
Trái phiếu

Công cụ định lượng rủi ro
Thời gian đáo hạn bình qn (duration), độ lồi
(convexity), các mơ hình về cấu trúc thời hạn

Tín dụng

(term-stucture models)
Định mức tín nhiệm (rating), các mơ hình vỡ nợ

Cổ phiếu


(default models)
Độ biến động giá (volatility), hệ số tương quan

Chứng khoán phái sinh
Forex

(correlations), chỉ số beta
Delta, gamma, vega…
Spreads, target zones

2.3. VaR – công cụ quản lý rủi ro hiện đại:
15


Value at Risk được phát triển dựa trên những kế thừa từ những phương pháp đo lường
rủi ro trước đó. Rủi ro được hiểu như là độ bất định của giá. Để quản lý tốt hơn rủi ro
( và qua đó là lợi nhuận ), các cơng cụ đo lường định lượng rủi ro được phát triển mạnh
mẽ từ những năm 1990. Thay vì ước lượng độ bất định của giá một cách định tính, ví dụ
cần dự phịng 8% giá trị thị trường cho một danh mục cổ phiếu, người ta muốn tính ra
một con số cụ thể đặc trung cho rủi ro có thể xảy ra của danh mục đó, cập nhật liên tục
nhằm tối ưu hố dịng tiền. Tương tự như vậy cho tất cả các danh mục chứng khoán
khác như trái phiếu, ngoại tệ, giấy tờ có giá...Có rất nhiều mơ hình đo lường rủi ro,
nhưng được sử dụng phổ biến vượt xa những mơ hình khác là VaR - viết tắt của Value
at Risk - được xây dựng trên những cơ sở lý thuyết xác suất và thống kê từ nhiều thế kỷ,
phát triển và phổ biến đầu những năm 1990. Và từ năm 1994, với sự ra đời của Risk
Metric, một gói sản phẩm ứng dụng VaR mang thương hiệu của một công ty tách ra từ
JP MOrgan Chase, VaR đã được áp dụng rộng rãi và trở thành một tiêu chuẩn trong việc
đo lường và giám sát rủi ro tài chính, đặc biệt là rủi ro thị trường, trên toàn thế giới.
.Điểm mới và khác biệt giữa mơ hình VaR với các mơ hình quản lý rủi ro trước đó

chính là khả năng tổng hợp và tích hợp nhiều loại rủi ro của hệ thống này.
Tuy VaR là chuẩn mực mới trong đo lường và giám sát rủi ro thị trường nhưng nó vẫn bao
hàm những hạn chế nhất định :
- Hạn chế đầu tiên cũng là hạn chế lớn nhất của VaR, đó là giả định các yếu tố của thị
trường khơng thay đổi nhiều trong khoảng thời gian xác định VaR. Đây là một hạn chế
rất lớn, và trong năm 2007-2008 đã dẫn đến sự phá sản của một loạt ngân hàng đầu tư
trên thế giới, do điều kiện thị trường có những biến động đột ngột vượt xa so với quá
khứ.
- Hạn chế thứ hai, đó là hiệu ứng " đuôi chuông ". Như chúng ta đã biết, do tuân theo
quy luật phân phối chuẩn, hàm mật độ phân phối của danh mục có hình dạng quả
chng, và những mức tổn thất lớn nhất, ngồi dự đốn, thường nằm ở phần đi bên
trái của đồ thị hình chng này. Ví dụ, khi đo lường VaR cho một danh mục trading với
tổng quy mô 640 triệu USD cho 252 ngày, với độ tin cậy 99%, ngân hàng xác định được
ngưỡng tổn thất lớn nhất là 50 triệu USD. Tuy nhiên, chỉ cần trong 2 ngày nằm ngoài
mức tin cậy ( 1% " đi " cịn lại trong 252 ngày làm việc ), có 1 ngày mức tổn thất của
ngân hàng lên tới 1 giá trị quá ngưỡng, chẳng hạn 300 triệu USD, ngay lập tức sẽ đầy
16


danh mục đó phá sản. Đó chính là hạn chế của VaR, với những tổn thất nằm ngồi dự
đốn ( ngoài khoảng tin cậy ), khiến cho hàng loạt ngân hàng đầu tư phá sản khi quá tin
tưởng vào VaR có được.

3. VaR trong phân tích tài chính
3.1. VaR là công cụ, thước đo rủi ro:
VaR không chỉ là một công cụ để thông báo về các mức độ rủi ro thị trường, mà chúng
còn được sử dụng như các cơng cụ nhằm kiểm sốt mức độ rủi ro. Ở quy mô một lĩnh
vực kinh doanh hoặc một cơ sở, VaR có thể được sử dụng để xác lập các giới hạn vị thế
cho các nhà kinh doanh quyết định sẽ bỏ vốn đầu tư vào đâu. Ưu điểm lớn nhất của
VaR là chúng tạo thành một mẫu số chung để có thể so sánh mức độ rủi ro của các hoạt

động kinh doanh và đầu tư khác nhau.

-Các tham số định lượng trong mơ hình VaR bao gồm: mức tin cậy và
độ dài kỳ đánh giá. Nhìn chung VaR sẽ tăng khi độ tin cậy yêu cầu cao hơn hoặc kỳ hạn
đánh giá dài hơn. Việc lựa chọn các tham số định lượng này hoàn toàn phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của người sử dụng VaR

-VaR là chỉ tiêu đo mức độ tổn thất: Xác định VaR sẽ giúp cho các nhà đầu tư
(Ngân hàng) ước tính được nguy cơ tổn thất tài chính của họ. Căn cứ vào VaR, Ngân
hàng có thể ước tính được mức độ rủi ro (nguy cơ tổn thất tài chính) của một dự án đầu
tư trong một giai đoạn nhất định, từ đó có kế hoạch để lập quỹ dự phịng rủi ro hợp lý.
17


Ví dụ, nếu ngân hàng tính được VaR hàng ngày của một danh mục đầu tư là khoảng 500
triệu VND với mức tín cậy 95 % thì điều đó có nghĩa là xác suất mà Ngân hàng bị thiệt
hại 500 triệu VND là 5%.

3.2. VaR – công cụ quản lý rủi ro chủ động:
Quản lý tài chính thực chất là vấn đề cân đối giữa lợi nhuận và rủi ro. Những chỉ số điều
chỉnh theo rủi ro dựa trên VaR đã trở thành những chỉ số mang tính quyết định trong
hoạt động quản lý rủi ro tài chính.

3.3. VaR được sử dụng để xác lập vốn an toàn, rủi ro:
VaR có thể được định nghĩa là giá trị vốn rủi ro, còn gọi là vốn kinh doanh cần thiết cho
một hoạt động tài chính. Khi đó, người ta có thể giải quyết được vấn đề, làm thế nào xác
định được tỷ lệ lợi suất của các khoản đầu tư mà khơng có giá trị cơ sở

3.4. Hệ số điều chỉnh k trong hiệp định Basel :
Hiệp định Basel quy định về vốn an toàn rủi ro trong các ngân hàng thương mại, theo đó

các ngân hàng được phép sử dụng mơ hình đánh giá rủi ro nội bộ để ước lượng VaR và
giá trị VaR được xem là vốn an toàn rủi ro bắt buộc của ngân hàng.
Hiệp định Basel quy định :
+ Mức độ tin cậy cho phép là 99%
+ Kỳ hạn đánh giá là 10 ngày kinh doanh
+ Kết quả đánh giá VaR sẽ được nhân với hệ số điều chỉnh k=3 để có được mức vốn
an tồn rủi ro tối thiểu.

3.5. VaR – giá trị rủi ro của danh mục đầu tư:
Một danh mục đầu tư bao gồm nhiều loại tài sản khác nhau và tỷ trọng của mỗi tài sản
trong danh mục được thể hiện qua giá trị của tài sản đó so với giá trị của toàn bộ tài sản
trong danh mục đầu tư.
Ký hiệu Rp,t+1 là lợi suất của danh mục đầu tư p, trong kỳ đánh giá (t,t+1)
18


N

R p ,t + =∑ i Ri ,t +
w
1
1

(1.22)

i=
1

N: số tài sản trong danh mục
Ri,t+1: lợi suất của tài sản i

N

wi : tỷ trọng (quyền số) tài sản trong danh mục đầu tư,

∑w
i =1

i

= 1.

Định nghĩa V chính là tổng giá trị các tài sản trong danh mục đầu tư, theo cách định
nghĩa quyền số wi ta có:
Tương tự ta có:

Vi=wi.V

Rp=w1R1+ w2R2+... + wNRN = w'R

W: vectơ các quyền số ; w= [w1, w2,..., wN ]

(1.23)
(1.24)

R là vectơ cột gồm lợi suất đầu tư các tài sản thành phần. (i=1,2,3,...,N)
N

E ( R p ) = µp = ∑wi µi

(1.25)


i=
1

N

N

2
V ( R p ) = σ p = ∑ wi2σ i2 + 2∑
i =1

N

∑w w σ

i =1 j =1, j ≠i

i

j

ij

(1.26)

Phương trình (1.26) chỉ ra rằng rủi ro- lợi suất của danh mục đầu tư bao hàm khơng
chỉ có rủi ro của các tài sản thành phần (σ 2 i ) mà còn cả hiệp phương sai (σ ij ) giữa các
tài sản thành phần trong danh mục đầu tư. Tổng cộng có N phương sai và N(N-1)/2 hiệp
phương sai.

Để đơn giản ta viết (1.26) dưới dạng ma trận:
σ 2 = w ′∑ w
p

Với

σ 2 = [ w1 ,w2, …,wn]
p

 σ 11 σ 12

σ 21 σ 22
∑=  K K


σ N1 σ N 2

K σ1 N
K σ2N
K K
K σ NN


 w1 



 , w=  w 2 

L





 wN 
19


Để có thể xác định VaR chúng ta cũng phải giả định về hàm phân phối của giá trị
mark-to-market của danh mục đầu tư. Trong trường hợp đơn giản nhất, khi mà các giá
trị mark-to-market của tất cả các chứng khốn cấu thành đều có phân phối chuẩn, thì khi
đó, lợi suất của danh mục đầu tư, cũng sẽ có phân phối chuẩn. Hoàn toàn tương tự như
trong trường hợp xác định VaR của một công cụ , chúng ta sẽ quy đổi độ tin cậy c về
một độ lệch α có phân phối chuẩn N(0,1) sao cho xác suất thiệt hại lớn hơn α (tức nhỏ
hơn –α) là c. Ký hiệu Vp là giá trị tại thời điểm hiện tại của danh mục đó, thì VaR của
VaR p = ασ pVp

danh mục này được xác định bởi:
(1.27)

Từ các phân tích trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng, VaR của một danh mục đầu tư
phụ thuộc vào phương sai, hiệp phương sai và số lượng chứng khoán cấu phần. Ở đây,
hiệp phương sai là thước đo đánh giá quy mô mà hai biến ngấu nhiên thay đổi cùng
nhau một cách tuyến tính. Nếu như hai biến ngẫu nhiên này là hoàn toàn độc lập với
nhau, hiệp phương sai giữa chúng là 0. Nếu như hai biến ngẫu nhiên biến đổi cùng
chiều, hiệp phương sai có giá trị dương. Hiệp phương sai nhận giá trị âm, nếu như hai
biến ngẫu nhiên biến đổi ngược chiều. Tuy nhiên, độ lớn của hiệp phương sai rất khó
đánh giá và chúng phụ thuộc vào giá trị phương sai của từng biến ngẫu nhiên.
Dưới dạng tiền tệ có thể viết:
σ 2V = x ′∑ x

p

(1.28)

Với x là véctơ cột của giá trị các tài sản đầu tư trong danh mục, V là tổng giá trị các
tài sản trong danh mục đầu tư. Ký hiệu α là mức ý nghĩa cho phép, V là giá trị ban đầu
của danh mục đầu tư, x là véctơ cột của giá trị các tài sản đầu tư trong danh mục. Ta có
VaR(danh mục đầu tư)
VaR p = ασ pVp = α x′∑ x

(1.29)

Tương tự, VaR của từng tài sản trong danh mục đầu tư được xác định:
VaRi = α i σ i Vi = α iσ i w i V
20

(1.30)


Sở dĩ lấy giá trị tuyệt đối vì trọng số wi có thể âm (trong trường hợp thực hiện chiến
lược bán phịng hộ) nhưng giá trị rủi ro ln mang dấu dương.
Trong lý thuyết và thực tế, người ta hay sử dụng một đại lượng tương đối biểu thị
tương quan giữa hai tài sản bất kỳ trong danh mục đầu tư, đó là hệ số tương quan , được
định nghĩa như sau:
ρ12 =

σ 12
σ 1σ 2

(1.31)


Khi ρ12 = ± 1 ta nói hai tài sản tương quan với nhau tuyệt đối. Khi ρ12 = 0 ta nói hai
tài sản khơng có tương quan với nhau.
Rủi ro của một danh mục đầu tư có thể giảm nếu ta tăng số lượng các tài sản cấu
thành trong danh mục đầu tư hoặc lựa chọn các tài sản trong danh mục có mức độ tương
quan thấp. Để minh họa, có thể giả thiết rằng tất cả các tài sản trong danh mục đầu tư có
cùng độ rủi ro và có cùng tỷ trọng
Dễ thấy : σ p = σ
Khi N → ∞ thì

wi = 1/N.

1 
1
+ 1 −  ρ
N  N

(1.32)

σ p →σ p

(1.33)

Xét danh mục đầu tư gồm hai tài sản, ký hiệu ρ12 là hệ số tương quan giữa chúng.
Ta có:
2
2
σ 2 = w1 σ 12 + w 2σ 2 + 2ω1ω2 ρ12σ1σ 2
p
2


2 2
VaR p = ασ pVp = α ω12σ 12 + ω2 σ 2 + 2ω1ω2 ρ12σ1σ 2

(1.34)
(1.35)

Nhận thấy nếu ρ12 =1 thì :
VaRp = VaR1 + VaR2 ≤ VaR1 + VaR2

(1.36)

Rủi ro của danh mục này bằng tổng rủi ro của các tài sản thành phần nếu các tài
sản thành phần này tương quan tuyệt đối với nhau.

21


Trong thực tế hiếm khi các tài sản tương quan với nhau ở mức tuyệt đối, tức ρ = 1.
Trong trường hợp như thế, rủi ro giảm đi luôn đạt được thông qua danh mục đầu tư gồm
nhiều tài sản thành phần.

3.6. Quy trình xây dựng và áp dụng VaR trong quản lý rủi ro thị trường của
Ngân hàng:

* Quy trình xây dựng :
Quy trình xây dựng VaR gồm những bước cơ bản sau:
• Xác định giá trị mark-to-market của danh mục đầu tư. Giả thiết t=0 là tại thời điểm
hiện tại, giá trị mark-to-market của danh mục đầu tư này tại thời điểm hiện tại là P0, giá
trị mark-to-market của danh mục đầu tư của thời kỳ kế tiếp là P1 (chưa biết).

• Dự kiến mức độ thay đổi của những tác nhân gây rủi ro. Giả thiết mức độ thay đổi
này là λ %,
• Xác lập bước thời gian (hay thời hạn nắm giữ danh mục). Lưu ý đơn vị là năm. Giả
thiết bước thời gian là t ngày làm việc (giả thiết là 1 ngày) hay (t/250) năm.
• Xác lập khoảng tin cậy/ độ phân tán
Theo đó giá trị VaR được xác định theo công thức sau:
VaR = P* λ %*

t
* fc
252

* Áp dụng VaR trong quản lý rủi ro thị trường của Ngân hàng:
Tại những nước có hệ thống tài chính phát triển, các cơ quan có thẩm quyền thường bắt
buộc các ngân hàng tính tốn VaR với một độ tin cậy nhất định, ví dụ tại Đức, ngân
hàng trung ương (NHTW) yêu cầu các NHTM tính tốn VaR trong 10 ngày với độ tin
cậy 99%, đồng thời định kỳ NHTW sẽ kiểm tra sự chính xác trong hệ thống VaR của
ngân hàng thông qua phép thử Backtest, nếu phép thử có số tổn thất lớn hơn VaR nhiều
hơn mức dự kiến, sẽ cho thấy hệ thống VaR nội bộ của ngân hàng đó chưa chính xác, và
sẽ phải điều chỉnh sao cho những kết quả thực tế sau này phù hợp với giá trị VaR mà hệ
thống đưa ra.
22


Trong hoạt động ngân hàng tồn tại 2 dạng sổ là banking book và trading book. Với
banking book, đó là các hoạt động nội bảng của ngân hàng: Các hoạt động quản lý tài
sản nợ có (ALM) và được đo lường bởi phương pháp Earning at Risk. Với trading book,
đó là các hoạt động mua bán tự doanh các tài sản chính, và ngân hàng sẽ sử dụng VaR
để đo lường rủi ro về giảm giá trị của các tài sản này. Tuy nhiên, VaR cũng có thể được
áp dụng cho cả banking book và trading book, bởi vì khi các điều kiện thị trường, chẳng

hạn như lãi suất thay đổi, nó sẽ ảnh hưởng đến cả thu nhập ( earning ) và giá trị ( value )
của tài sản. Với banking book, ngân hàng áp dụng VaR để đo lường rủi ro về thu nhập
đối với TSN-C, còn với trading book, ngân hàng sử dụng để đo lường rủi ro giảm giá trị
đối với danh mục tài sản đầu tư.

CHƯƠNG 2: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH VaR
1. Phương pháp Risk metrics
J.P Morgan đã phát triển phương pháp luận RiskMetrics để tính VaR, và đến năm
1995 đã được Long & More thực nghiệm. Trong dạng đơn giản của nó, RiskMetrics đã
giả định lợi suất hàng ngày liên tiếp của danh mục đầu tư theo điều kiện phân phối
chuẩn. Lợi suất hàng ngày kí hiệu rt và những thơng tin có thể thiết lập tại thời điểm t -1
bởi hàm Ft-1.

1.1. Giả thiết cơ bản của phương pháp RiskMetrics:
-

Chuỗi lợi suất rt với điều kiện biết các thông tin tới thời điểm (t-1) có phân phối

chuẩn: (rt/Ft-1)~ N(μ, σ t2 )
Trong đó:
µt là trung bình có điều kiện có điều kiện của rt.
σ t2 là phương sai có điều kiện của rt.

-

µ t tn theo mơ hình ARMA(1,1)

-

σ t2 tn theo mơ hình GARCH(1,1)


23


Tức là, phương pháp giả định rằng, hai lượng trên có thể được khai triển theo
thời gian bằng mơ hình đơn giản sau:
2
2
2
μt = 0; σ t = α * σ t −1 + (1 − α )* rt −1 , (0<α<1)

(2.1)

Vì thế, phương pháp giả định rằng logarit của giá trị hàng ngày pt=ln(pt) của danh
mục đầu tư thỏa mãn phương trình khác : pt-pt-1 = ut
Ở đây, ut = σ t * ε t là một quá trình IGARCH(1,1) khơng có độ dịch (mơ hình
khơng có bụi). Giá trị α thơng thường nằm trong khoảng (0,9;1)
Một thuộc tính tốt của bước ngẫu nhiên trong mơ hình IGARCH là phân phối có
điều kiện của tổng lợi suất dễ dàng đạt được. Đặc biệt, nếu cho k thời kỳ thì lợi suất từ
thời điểm (t+1) đến thời điểm (t+k) là: rt [ k ] = rt +1 + ... + rt +k −1 + rt +k
Chúng ta sử dụng ký hiệu [k] biểu thị lợi suất k thời kỳ.
Dưới mô hình đặc biệt IGARCH(1,1) trong phương trình (2.1), phân phối có điều
2
kiện của rt[k], Ft là chuẩn với giá trị trung bình bằng 0 và phương sai σ t [ k ] .
2
Ở đây, σ t [ k ] có thể được tính theo phương pháp dự báo mơ hình độ dao động.

Sử dụng giả thiết các εt độc lập và phương trình (2.1) ta có :
k


σ t2 [ k ] = VaR ( rt [ k ] / Ft ) = ∑ VaR ( ut +i / Ft )
i =1

2
Ở đây, VaR ( ut +1 / Ft ) = E ( σ t +1 / Ft ) có thể thu được một cách đệ quy.

Sử dụng rt-1 = ut-1 =σt-1*εt-1, chúng ta có thể viết lại phương trình độ dao động của
phương trình IGARCH(1,1) trong phương trình (2.1) như sau:
σ t2 = σ t2−1 + σ t2−1 * (1 − α ) * (εt2−1 − 1)

Trong trường hợp riêng ta có :
σ t2+i = σ t2+i −1 + σ t2+i −1 * (1 − α ) * (εt2+i −1 − 1)

Với i = 2,…,k

(2.2)

24


Với dự báo mức độ dao động của một bước tiếp theo, phương trình (2.1) chỉ ra
rằng :

σ t2+1 = α * σ t2 + (1 − α ) * rt 2
2
Vì thế, phương trình (2.2) cho thấy VaR ( rt +i / Ft ) = σ t +1 với i>1 .

2
Từ đó σ t [ k ] = k* σ t +1
2


2
Kết quả chỉ ra rằng rt [k]/Ft ~ (0,k σ t +1 ). Vì vậy, dưới mơ hình IGARCH(1.1) trong

phương trình (2.1), phương sai có điều kiện của rt[k], k tỷ lệ theo thời gian, độ lệch tiêu chuẩn
có điều kiện của lợi suất k thời kỳ là k * σ t +1 .
Nếu vị thế tài chính là trường vị, thì phần mất đi sẽ xảy ra khi có sự sụt giảm lớn
(như lợi suất âm rất lớn). Điều này có nghĩa, điểm phân vị 5% này có phân phối chuẩn
với giá trị trung bình bằng 0 và độ lệch tiêu chuẩn

σ t +1 . Điểm phân vị 5% thực tại là -

1,65 * σ t +1 . Vì vậy, nếu độ lệch tiêu chuẩn được đo lường bằng % thì VaR hàng ngày của
danh mục đầu tư trong RiskMetrics là:
VaR(1 ngày,α%) = Vt* N −1 (α)* σ t +1
Trong đó: Vt là giá trị của danh mục tại thời điểm t.
Với α=1%; 2,5%; 5% ta có N −1 (0,01)= -2,33; N −1 (0,025)= -1,96; N −1 (0,05)=
-1,65.
Vậy ta có:
VaR(1 ngày,5%) = Vt*(-1.65)* σ t +1
Ứng với k ngày, áp dụng ”Quy tắc căn bậc hai theo thời gian” ta tính được:
VaR(k ngày,5%) = Vt *(-1.65) k * N −1
Ở đây đối số k của VaR thì được sử dụng để biểu thị cho trục thời gian. Vì vậy
trong RiskMetrics chúng ta có :
VaR (k ngày, α) =

k * VaR (1 ngày,α)
25



×