Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

Luận án tiến sĩ Nghiên cứu thực trạng thiếu máu ở phụ nữ mang thai tại huyện Củ Chi,thành phố Hồ Chí Minh và hiệu quả một số biện pháp can thiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.6 MB, 134 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, có tới 50% phụ nữ mang thai trên thế giới
bị thiếu máu, các nước công nghiệp phát triển chiếm khoảng 18%, các nước
đang phát triển chiếm tỷ lệ từ 35-75%. Trong đó thiếu máu thiếu sắt chiếm
khoảng 25-35% ở các nước đang phát triển và 5-8% ở các nước phát triển
[68], [81]. Thiếu máu ở phụ nữ mang thai là vấn đề lớn về sức khỏe cộng
đồng tại nhiều quốc gia. Điều tra của Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho thấy
36,8% phụ nữ mang thai tại Việt Nam thiếu máu [62].
Một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, thiếu máu đã làm tăng tỷ suất tử vong
mẹ ở các nước đang phát triển. Thiếu máu ở phụ nữ mang thai có thể gây
nhiều hậu quả nặng nề cho cả mẹ và con. Mẹ dễ bị sẩy thai, nhau tiền đạo,
nhau bong non, cao huyết áp thai kỳ, tiền sản giật, ối vỡ sớm, băng huyết sau
sinh, nhiễm trùng hậu sản. Con bị nhẹ cân, sinh non tháng, suy thai, thời gian
điều trị hồi sức kéo dài, tăng tỉ suất và bệnh suất sơ sinh hơn so với trẻ không
thiếu máu. Con những bà mẹ thiếu máu giai đoạn sớm thai kỳ có nguy cơ
bệnh tim mạch cao hơn trẻ khác [72], [112].
Ở nước ta, chương trình phòng chống thiếu máu dinh dưỡng đã được
triển khai rộng khắp ở tất cả các địa phương với mục tiêu trên 80% phụ nữ
mang thai được bổ sung viên sắt hoặc thuốc bổ máu ít nhất 3 tháng trong thai
kỳ. Các hoạt động chính được triển khai gồm truyền thông kiến thức phòng
chống thiếu máu kết hợp cấp phát viên sắt cho phụ nữ mang thai thông qua
các Trung tâm Y tế quận, huyện và các trạm y tế xã, phường [13]. Tuy nhiên,
vẫn còn những khó khăn hạn chế trong vấn đề dinh dưỡng phòng chống thiếu
máu ở phụ nữ mang thai tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa
- nơi mà đời sống kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp,
phong tục tập quán lạc hậu, đi kèm theo là các bệnh ký sinh trùng, sốt rét,
nhiễm giun vẫn còn điều kiện để phát triển và gây bệnh.
2
Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu về phòng chống thiếu máu cho
phụ nữ mang thai như tiếp thị xã hội đến chăm sóc dinh dưỡng, bổ sung sắt,


tăng cường sử dụng viên đa vi chất trong thời kỳ mang thai Các giải pháp
can thiệp đã đạt những hiệu quả nhất định như cải thiện được kiến thức và
thực hành của phụ nữ mang thai về bệnh thiếu máu và viên sắt; tăng tỷ lệ bao
phủ viên đa vi chất dinh dưỡng; đạt hiệu quả về giảm thiếu máu, giảm tỷ lệ
thiếu vi chất và tăng nồng độ vi chất trong máu Tuy nhiên, việc triển khai
các hoạt động can thiệp chưa chú trọng nhiều đến các biện pháp về tổ chức,
về huy động sự tham gia của cộng đồng [15], [22], [45], [51].
Củ Chi là huyện vùng ven của thành phố Hồ Chí Minh, kinh tế chủ yếu
là nông nghiệp, huyện có 1 thị trấn và 20 xã, gần 324.000 dân. Trước đây đã
triển khai một số chương trình can thiệp nhằm cải thiện tình trạng thiếu máu
do thiếu sắt ở phụ nữ mang, song các hoạt động của chương trình chủ yếu ở
mức tuyên truyền vận động phụ nữ mang thai uống viên sắt, hiệu quả đạt
được chưa cao và chưa bền vững.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Nghiên cứu thực trạng thiếu máu ở phụ nữ mang thai tại huyện Củ Chi,
thành phố Hồ Chí Minh và hiệu quả một số biện pháp can thiệp”.
Mục tiêu nghiên cứu:
1) Mô tả thực trạng và xác định một số yếu tố liên quan đến thiếu máu
của phụ nữ mang thai trong 3 tháng đầu thai kỳ tại huyện Củ Chi, thành phố
Hồ Chí Minh (2011).
2) Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp phòng chống thiếu
máu cho phụ nữ mang thai tại huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh (2011-
2012).
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. THIẾU MÁU DINH DƯỠNG Ở PHỤ NỮ TRONG THỜI KỲ MANG THAI
1.1.1. Thiếu máu trong thai nghén
Khi mang thai, cơ thể người mẹ có những thay đổi về giải phẫu và sinh
lý bởi sự đáp ứng với nội tiết nhau thai và nhu cầu lớn lên của thai nhi [7].

Vào tháng thứ 7 của thai kỳ, khối lượng tuần hoàn tăng thêm gần 50% so với
trước khi mang thai, do thể tích huyết tương và khối huyết cầu đều tăng làm
thể tích máu toàn phần tăng lên. Nhưng do thể tích huyết tương tăng cao hơn
thể tích khối huyết cầu, hàm lượng Hemoglobin (Hb) và tỷ lệ Hematocrit
(HCT) sẽ giảm, gây nên tình trạng thiếu máu [7]. Đồng thời sự gia tăng nhu
cầu và chuyển hoá đường, đạm, mỡ, vitamin, khoáng chất cũng rất cao [11].
Nếu mất sự cân bằng và không đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng của cơ
thể thì sẽ dẫn đến tới thiếu hụt năng lượng và các chất dinh dưỡng. Quan
trọng nhất là sự thiếu hụt của 4 yếu tố: Sắt, Acid folic, Vitaminh B12 và
Protein, vì sẽ dẫn đến hậu quả thiếu năng lượng và thiếu máu. Bởi vậy, tình
trạng thiếu máu dinh dưỡng (TMDD) là một trong những vấn đề về sức khoẻ
cộng đồng hay gặp nhất ở phụ nữ mang thai (PNMT) [26].
1.1.1.1. Khái niệm về thiếu máu
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), thiếu máu là tình trạng giảm số
lượng hồng cầu, giảm hàm lượng Hb trong một đơn vị thể tích máu, gây tình
trạng thiếu oxy tổ chức, trong đó sự thiếu hụt Hb là quan trọng nhất. Thiếu
máu là hiện tượng bệnh lý hay gặp trong thai nghén, xảy ra khi mất sự cân
bằng giữa hai quá trình sản xuất hồng cầu với nhu cầu tăng về số lượng hồng
cầu và khối lượng máu [132].
Bệnh thiếu máu ảnh hưởng đến gần một nửa số phụ nữ mang thai trên
thế giới: tỷ lệ trung bình là 52% ở các nước đang phát triển so với 23% ở các
4
nước phát triển. Các nguyên nhân phổ biến nhất của thiếu máu là do nghèo
đói, không đủ sắt và vi chất dinh dưỡng khác, sốt rét, bệnh giun móc, sán
máng, nhiễm HIV và bệnh lý Hemoglobin là những yếu tố thêm vào [14].
1.1.1.2. Quan niệm về thiếu máu ở phụ nữ mang thai
Trước đây các tác giả Âu - Mỹ, lấy tiêu chuẩn như sau [123]:
- Hb từ 13,7 - 14 g/dl Bình thường
- Hb > 11 g/dl Không thiếu máu
- Hb từ 10 - 11 g/dl Thiếu máu sinh lý

- Hb < 10 g/dl Thiếu máu thực sự
Ở Việt Nam từ năm 1972 nhiều tác giả đã vận dụng tiêu chuẩn trên để
áp dụng cho PNMT như sau [11]:
- Hb >= 10,5 g/dl Bình thường
- Hb từ 9,5 - 10,4 g/dl Thiếu máu sinh lý
- Hb < 9,5 Thiếu máu thật sự
Hiện nay, WHO đưa tiêu chuẩn thiếu máu như sau:
- Mức Hb <120g/l với phụ nữ không mang thai
- Mức Hb <110g/l với PNMT
Tiêu chuẩn này vẫn được sử dụng rộng rãi cho đến hiện nay [14],[123].
1.1.1.3. Phân loại thiếu máu
- Theo mức độ, thiếu máu có 3 mức độ: nhẹ , vừa, nặng
- Theo hình thái và tính chất của HC: thiếu máu HC nhỏ, HC lớn, HC
kích thước bình thường và thiếu máu nhược sắc, đẳng sắc và ưu sắc [5],
[17], [57].
- Theo nguyên nhân:
+ Do thiếu nguyên liệu tạo máu: thiếu sắt, acid folic, vitamin B12,
protein Đây là những nguyên nhân gây thiếu máu chủ yếu trong thai nghén,
thực chất đó là loại TMDD [5], [17], [57], [130].
5
+ Do chảy máu, mất máu cấp hoặc mạn tính, như: sảy thai băng huyết,
sinh đẻ nhiều, bệnh sốt rét, giun sán, chủ yếu là giun móc… Ngoài ra còn các
nguyên nhân khác như: tan máu, bệnh lý cơ quan tạo máu, giảm chức năng
tuỷ xương, do huỷ HC, loạn sản tuỷ, bệnh HC khổng lồ [5], [17], [57].
1.1.2. Phân loại thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ trong thời kỳ mang thai
Loại thiếu máu phổ biến nhất ở PNMT là TMDD. Các yếu tố dinh
dưỡng chủ yếu có liên quan với quá trình tạo máu là sắt, acid folic, vitamin
B12, và protein. Thông thường sự bổ sung các chất dinh dưỡng tối cần thiết
này ở PNMT thông qua ăn uống là không đáp ứng được đầy đủ.
Bảng 1.1. So sánh nhu cầu hàng ngày của các vi chất dinh dưỡng giữa

phụ nữ mang thai và phụ nữ không mang thai (19-50 tuổi)
Vi chất
dinh dưỡng
Phụ nữ
mang thai
Phụ nữ không
mang thai
Giới hạn tiêu thụ
tối đa
Iron 27mg 18mg 45mg
Zinc 10-11mg 8mg 35-40mg
Calcium 1.000mg 1.000mg 2.500mg
Phosphorus 1.000mg 1.000mg 3.500mg (PNMT)
4.000mg (phụ nữ)
Iodine 220μg 150μg 1.100μg
Selenium 65μg 60μg 400μg
Vitamin A 800μg 700μg 3000μg
Vitamin B
- thiamin
- riboflavin
- niacin
- vitamin B6
- vitamin B12
- folate
1,4mg
1,4mg
18,0mg
1,9mg
2,6μg
600μg

1,1mg
1,1mg
14,0mg
1,9mg
2,6μg
400μg
35mg
50mg
1.000mg
Vitamin C 60mg 45mg 1.000mg
Vitamin D 5μg 5μg 80μg
Vitamin E 7mg 7mg 300mg
Nguồn: Australian Family Physician Vol 38, No. 12, December 2009 [71]
6
Qua bảng 1.1 thấy, nhu cầu về các vi chất dinh dưỡng đều tăng cao ở
phụ nữ mang thai, trong đó đặc biệt là: iron, zinc, calcium, Vitamin A…
1.1.2.1. Thiếu máu do thiếu sắt ở phụ nữ mang thai
- Nguyên nhân thiếu máu do thiếu sắt (TMTS) ở PNMT là do lượng sắt
đưa vào giảm, trong khi nhu cầu tăng cao, do nôn nghén nhiều, giảm nồng độ
toan dịch vị, chế độ ăn uống nghèo nàn, thiếu thức ăn có nguồn gốc thực vật
[7], [11], [57], [87], [96], [101], [114].
- Trên lâm sàng, sự thiếu sắt có thể diển ra lâu dài trước khi thiếu máu
thực sự xuất hiện, chỉ khi lượng Hb giảm rõ rệt làm giảm khả năng vận
chuyển oxy tới các tổ chức mới gây ra các triệu chứng thực thể [37], [73],
[102].
- Triệu chứng cận lâm sàng: Đây là loại thiếu máu nhược sắc, Hb giảm
nhiều hơn giảm số lượng HC [5]. TMTS làm tăng nguy cơ thiếu vitamin A ,
B12, C và E , thiếu acid folic, và riboflavin [57], [120]. Sắt huyết thanh giảm
dưới 500µg/l, ferritin huyết thanh giảm dưới 30µg/l và chỉ số bão hòa
transferin cũng giảm dưới 16% [6], [11], [74], [101], [114], [126].

1.1.2.2. Thiếu máu do thiếu acid folic ở phụ nữ mang thai
Axit folic (folat, vitamin B9) là chất cần thiết góp phần tạo HC và có
ảnh hưởng đến sự tổng hợp AND và RNA, liên quan mật thiết đến quá trình
phân chia nhân và nhân đôi tế bào. Thiếu axit folic ở PNMT sẽ gây khiếm
khuyết ống tủy và nguy cơ dị tật đốt sống của thai nhi [17], [57], [89], [97].
Nguyên nhân: lượng acid folic cung cấp thiếu do chế độ ăn uống thiếu
(thường kèm theo đói protein năng lượng), do nghén nặng, do sai lầm trong
dinh dưỡng dẫn tới ăn thiếu các thức ăn giàu acid folic [57], [88], [112]. Giảm
hấp thu acid folic do bệnh lý của đường tiêu hoá. Nhu cầu tăng quá mức khi
chửa đẻ nhiều, đẻ dầy, đa thai… [74], [82], [101], [120].
Triệu chứng:
- Lâm sàng: thường nghèo nàn, chỉ thấy rõ khi thiếu máu vừa hoặc nặng.
7
- Cận lâm sàng: tuỷ đồ thấy nhiều nguyên HC khổng lồ trưởng thành
không đồng đều. Định lượng acid folic huyết thanh giảm dưới 3g/ml [17],
[57].
1.1.2.3. Thiếu máu do thiếu vitamin B12 ở phụ nữ mang thai
Vitamin B12 là yếu tố quan trọng với cơ thể tuy nhu cầu không lớn,
thiếu vitamin B12 gây ra thiếu máu và rối loạn chức năng của hệ thần kinh.
TMDD do thiếu vitamin B12 đơn thuần hiếm gặp, thường phối hợp với thiếu
máu do thiếu các yếu tố dinh dưỡng khác [57], [120].
Nguyên nhân thiếu vitamin B12: do cung cấp thiếu vì chế độ ăn uống
kiêng khem hoặc mất cân đối, thiếu thức ăn động vật trong khi đó nhu cầu
vitamin B12 lại tăng lên [107], [113]. Do hấp thu kém ở người có bệnh dạ
dày, ruột. Một số phụ nữ thiếu vitamin B12 bẩm sinh như bệnh Biermer. Các
bệnh nhiễm trùng mạn tính, bệnh lý ở gan làm rối loạn chuyển hoá và dự trữ
vitamin B12 [88], [115].
Triệu chứng lâm sàng: xảy ra từ từ, phối hợp các triệu chứng thiếu máu
với các bệnh lý cơ quan tiêu hoá, thần kinh
Triệu chứng cận lâm sàng: thiếu máu do thiếu vitamin B12 gần giống

thiếu máu do thiếu acid folic, cụ thể là: số lượng hồng cầu giảm, bạch cầu và
tiểu cầu giảm nhẹ, bạch cầu hạt giảm, và nhân chia nhiều múi, lượng huyết
sắc tố trung bình hồng cầu tăng, vitamin B12 huyết thanh giảm dưới
100pg/ml. Dịch vị thiểu toan hoặc vô toan [57].
1.1.2.4. Thiếu máu do thiếu protein ở phụ nữ mang thai
Đây là loại thiếu máu không chỉ thiếu protein đơn thuần mà thường kèm
theo thiếu sắt, acid folic, vitamin và các yếu tố vi lượng khác [96].
Nguyên nhân: chế độ ăn nghèo protein, thói quen ăn kiêng ở nơi có tập
tục lạc hậu. Hấp thu kém do nghén hoặc do bệnh lý đường tiêu hoá . Do tăng
cao nhu cầu protein ở phụ nữ đẻ nhiều, đẻ dày, đa thai, tiền sử băng huyết ở
các lần đẻ trước… [116].
8
Lâm sàng: suy dinh dưỡng đi trước thiếu máu, tính chất thiếu máu
nhược sắc. Cận lâm sàng: protein máu giảm, albumin giảm [5].
1.1.3. Nguyên nhân thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ trong thời kỳ mang
thai
1.1.3.1. Khẩu phần ăn không cung cấp đủ dinh dưỡng
Có nhiều nguyên nhân gây ra thiếu máu ở PNMT, trong đó thiếu máu
do cung cấp dinh dưỡng không đầy đủ đóng vai trò quan trọng nhất. Nếu
trong khi mang thai chế độ ăn uống không tăng lên, thiếu thức ăn có nguồn
gốc động vật (thịt, cá, trứng, sữa…) dẫn tới không đáp ứng đủ năng lượng,
protein, sắt, các vitamin và các yếu tố vi lượng cần thiết. Đồng thời khi bị
nghén, nôn nhiều, giảm độ toan dịch vị càng dẫn tới rối loạn hấp thu, làm tăng
nguy cơ thiếu dinh dưỡng [74], [96]. Kết quả một số nghiên cứu cho thấy
TMTS ở PNMT chiếm từ 70% đến hơn 80% các trường hợp thiếu máu [20],
[53], [61].
Yếu tố khẩu phần liên quan đến thiếu vi chất dinh dưỡng bao gồm:
thiếu số lượng thực phẩm, thiếu các thực phẩm có nhiều vi chất có giá trị sinh
học cao, có nhiều chất có lợi cho việc hấp thu vi chất: protein, vitamin C cho
hấp thu sắt, dầu mỡ cho hấp thu vitamin A và caroten. Nhiều các chất ức chế,

và ngăn cản việc hấp thu vi chất [9], [101], [118]. Bởi vậy khẩu phần ăn giàu
thực phẩm nguồn gốc động vật sẽ đảm bảo cung cấp đủ lượng sắt. Tuy nhiên
nếu trong khi thiếu thịt cá, chỉ ăn chủ yếu ngũ cốc, rau củ… nhưng được bổ
sung thêm vitamin C thì cũng là biện pháp hữu hiệu nhằm tăng khả năng hấp
thu sắt [7], [11], [79].
1.1.3.2. Nhu cầu về sắt và các chất dinh dưỡng tăng cao
Trong thời kỳ mang thai, thai nhi tiếp thu lượng lớn sắt từ cơ thể người
mẹ qua nhau thai. Nếu chế độ ăn uống của người mẹ không hợp lý, người mẹ
rất dễ bị thiếu máu do thiếu sắt, biểu hiện rõ nhất ở phụ nữ có chửa đa thai, đẻ
nhiều, các lần chửa đẻ gần nhau (dưới 2 năm) [7], [80], [82].
9
Ngoài ra, trong thời kỳ mang thai có sự gia tăng số lượng hồng cầu của
mẹ và thể tích huyết tăng cũng tăng thêm khoảng 50% nên nhu cầu sắt cũng
tăng cao [7].
1.1.3.3. Bổ sung sắt chưa đầy đủ
Lượng sắt thực tế hiện nay của bữa ăn người Việt Nam chỉ đạt khoảng
30% - 50% nhu cầu, nhất là ở các vùng nông thôn, đó chính là nguyên nhân
dẫn đến tỷ lệ TMTS ở nông thôn thường rất cao [19], [23], [77]. TMTS
thường có nguyên nhân tiềm ẩn từ trước khi mang thai, vì vậy nếu phụ nữ tuổi
sinh đẻ hoặc ngay cả các em gái tuổi vị thành niên được bổ sung viên sắt là
rất có ý nghĩa. Tuy nhiên đa số phụ nữ chỉ được tuyên truyền và cho uống
viên sắt khi mang thai, ít có phụ nữ uống sắt trước khi mang thai và sau đẻ
[15], [18].
Phụ nữ mang thai được tư vấn và ghi đơn cho uống viên sắt ngay khi
phát hiện mang thai là việc làm tốt. Song nếu có nôn nghén nhiều, uống viên
sắt càng gây nôn nhiều hơn, bởi vậy PNMT thường sợ uống viên sắt và bỏ
không uống nữa, ngay cả khi đã hết nôn nghén. Theo khuyến cáo, uống viên
sắt được thực hiện càng sớm càng tốt, tuy nhiên dễ chấp nhận nhất nên bắt
đầu vào tuần 14-16, khi hết nôn nghén, đã ăn uống tốt trở lại.
1.1.3.4. Bệnh nhiễm trùng và bệnh ký sinh trùng

Nhiễm trùng làm ảnh hưởng tới bộ máy tiêu hoá, phá huỷ các tuyến
nhày của dạ dày, làm cho ăn uống kém và mất ngon miệng. Đặc biệt nếu có
viêm dạ dày, do xoắn khuẩn Helicobacter pylori sống ở hang vị, khu trú và
phát triển ở niêm mạc dạ dày kiềm hoá, đồng thời sản sinh chất catalase,
protease, lipase dẫn tới việc kém hấp thu các chất dinh dưỡng và các vi chất
dinh dưỡng [7].
Nhiễm ký sinh trùng đường ruột gây tác hại lớn, vì ký sinh trùng chiếm
mất chất dinh dưỡng của cơ thể (như giun đũa), hút máu và gây chảy máu
thành ruột (như giun móc). Hậu quả nghiêm trọng nhất của giun móc là gây
10
mất máu mạn tính từ tá tràng và hỗng tràng, dẫn đến TMTS. Ngoài ra, giun
còn tiết ra chất độc như ascarridol, chất ức chế các men pepsin, cathepsin, và
chymotrypsin của cơ thể dẫn tới chán ăn, rối loạn tiêu hoá. Đối với giun tóc,
ký sinh ở đại tràng và hút máu, gây tổn thương niêm mạc đại tràng và gây hội
chứng lỵ [4], [7].
1.1.4. Hậu quả của thiếu máu ở phụ nữ trong thời kỳ mang thai
1.1.4.1. Thiếu máu khi mang thai ảnh hưởng đến sức khoẻ người mẹ
Thiếu máu làm tăng tỷ lệ các biến chứng trong thai nghén, như sảy thai,
băng huyết. Đồng thời làm tăng tỷ lệ đẻ khó, mổ lấy thai và tăng các biến cố
sau đẻ, như đờ tử cung băng huyết.
Thiếu máu khi mang thai cũng làm giảm sự tăng cân sinh lý của người
mẹ. Sức khoẻ mẹ giảm sút, sức đề kháng giảm, làm tăng nguy cơ nhiễm
khuẩn hậu sản, mắc các bệnh truyền nhiễm, tỷ lệ mắc bệnh tăng và tỷ lệ tử
vong của mẹ cũng tăng [11].
1.1.4.2. Thiếu máu thai nghén ảnh hưởng đến thai nhi và trẻ sau đẻ
Thiếu máu khi mang thai làm tăng tỷ lệ sảy, đẻ non, con chết lưu và
giảm cân nặng sơ sinh. Thiếu máu nặng khi mang thai cũng làm chiều dài trẻ
sơ sinh giảm, sức đề kháng của con giảm, tỷ lệ trẻ mắc bệnh tăng, ảnh hưởng
tới não bộ và sự phát triển trí tuệ của trẻ [17], [57].
Có mối liên quan giữa tình trạng thiếu máu mẹ và thai nhi, nồng độ Hb

của con có mối tương quan thuận với ferritin huyết thanh của mẹ, những
PNMT thiếu máu thì nồng độ ferritin trong máu thai nhi thường thấp đi kèm
với trọng lượng trẻ sơ sinh thấp [93], [125].
Theo Milman (2008), PNMT được uống sắt bổ sung thì con của họ sau
đẻ có tỷ lệ thiếu máu thấp hơn và mức ferritin huyết thanh cao hơn so với trẻ
có mẹ không được bổ sung sắt. Mẹ thiếu máu, nồng độ ferritin trong máu sơ
sinh thấp, dễ mắc bệnh nhiễm khuẩn [95], [99].
11
1.1.5. Tình hình thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ trong thời kỳ mang thai
1.1.5.1. Tình hình thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ trong thời kỳ mang thai
trên thế giới
Thiếu máu làm tăng nguy cơ mắc bệnh và tử vong. Thiếu máu gây ra
bởi nhiều nguyên nhân cả do dinh dưỡng (thiếu vitamin và khoáng chất) và
không do dinh dưỡng (nhiễm trùng). Một trong những yếu tố đóng góp chính
vào tình trạng thiếu máu là do thiếu sắt và thiếu máu thiếu sắt là một trong 10
bệnh đóng góp vào gánh nặng bệnh tật trên thế giới.
Theo báo cáo của WHO dựa trên số liệu của các cuộc điều tra quốc gia
đại diện cho các quốc gia từ năm 1993 đến năm 2005 cho thấy, tỷ lệ thiếu
máu của phụ nữ mang thai là 41,8% và tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ
là 30,2%. Tỷ lệ thiếu máu cao nhất là ở châu Phi: ở phụ nữ mang thai là
56,1% và phụ nữ tuổi sinh đẻ là 68%. Các quốc gia có vấn đề sức khỏe cộng
đồng về thiếu máu tập trung ở châu Phi, châu Á, châu Mỹ La tinh và Caribe.
Châu Phi và châu Á là nơi bị ảnh hưởng nhiều nhất vì đây là khu vực nghèo
nhất nên có thể có mối liên quan giữa thiếu máu và phát triển kinh tế xã hội
[132].
Jemal Haidar nghiên cứu trên 170 phụ nữ tuổi sinh đẻ ở Ethiopia năm
2005 để đánh giá mức độ thiếu máu và thiếu sắt và acid folic về thiếu máu ở
các trường hợp thiếu máu và không thiếu máu. Tỷ lệ tổng thể của thiếu máu là
30,4%; thiếu sắt là 50,1%; thiếu máu thiếu sắt là 18,1%; thiếu hụt acid folic là
31,3% và nhiễm ký sinh trùng là 13,7% [82].

Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2005
tại nông thôn Ấn Độ trên 19.659 phụ nữ, cho thấy tỷ lệ thiếu máu là 47,9%,
trong đó thiếu máu nhẹ chiếm 16,1%, thiếu máu vừa chiếm tỷ lệ 1,6% [75].
Vương quốc Bỉ là nước có tình trạng thiếu máu của phụ nữ tuổi sinh đẻ
ở mức không có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng - có nghĩa là tỷ lệ thiếu máu của
nhóm đối tượng này thấp hơn 5% theo phân loại của WHO. Ở phụ nữ tuổi
12
sinh đẻ, thiếu máu nặng và vừa về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng ảnh hưởng đến
69% quốc gia. Tỷ lệ thiếu máu ở các nước Đông Nam Á đều ở mức nặng về ý
nghĩa sức khỏe cộng đồng trừ Đông-Ti-Mo là ở mức trung bình về ý nghĩa
sức khỏe cộng đồng (31,5%) [132].
Văn phòng khu vực Đông Nam Á của WHO thống kê tỷ lệ thiếu máu
năm 2007 cho thấy tình trạng thiếu máu ở khu vực các nước Nam Á cao hơn
so với các khu vực khác. Ở Ấn Độ tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ mang thai là 88%
[132].
Thiếu máu thiếu sắt vẫn còn là một vấn đề quan trọng y tế công cộng
tại Úc, với khoảng 8% trẻ em mẫu giáo, 12% phụ nữ mang thai và 15% phụ
nữ không mang thai trong độ tuổi sinh sản ở Úc bị thiếu máu [114].
Nghiên cứu tại Tây Kenya do Leenstra và cộng sự thực hiện trên 648
phụ nữ tuổi sinh đẻ cho thấy tỷ thiếu máu là 19,8%, trong đó 30,4% phụ nữ
thiếu máu bị thiếu máu do thiếu sắt [90].
Bảng 1.2. Tình hình thiếu máu ở phụ nữ tại các khu vực trên thế giới
Vùng
Phụ nữ mang thai Phụ nữ không mang thai
Số người
(triệu)
Tỷ lệ (%)
Số người
(triệu)
Tỷ lệ (%)

Châu Phi 17,2 57,1 69,9 47,5
Châu Mỹ 3,9 24,1 39,0 17,8
Đông Nam Á 18,1 48,2 182,0 45,7
Châu Âu 2,6 25,1 40,8 19,0
Trung Đông 7,1 44,2 39,8 32,4
Tây Thái Bình Dương 7,6 30,7 97,0 21,5
Toàn cầu 56,4 41,8 468,4 30,2
Nguồn: WHO - Global Database on Anaemia (1993-2005) [132].
Bảng 1.2 cho thấy, theo số liệu điều tra từ trên 192 quốc gia từ năm
1993 đến 2005 (Ngân hàng dữ liệu toàn cầu của WHO), ở phụ nữ mang thai,
13
tỷ lệ thiếu máu cao nhất ở Châu Phi (57,1%), Đông Nam Á (48,2%) và thấp
nhất là ở Châu Âu (25,1%) và Châu Mỹ (24,1%). Toàn thế giới có đến 56,4
triệu phụ nữ mang thai bị thiếu máu, chiếm tỷ lệ 41,8%. Ở phụ nữ không
mang thai, tỷ lệ thiếu máu thấp hơn với khoảng 468,4 triệu người bị ảnh
hưởng (30,2%) [132].
Tổng kết lại từ các cuộc điều tra trên thế giới từ 1990 tới nay, Ủy ban
thường trực về dinh dưỡng của Liên hiệp quốc (UNSCN) cũng nhận thấy tỷ lệ
thiếu máu qua nhiều năm vẫn không cải thiện nhiều, thậm chí không giảm
được bao nhiêu so với các thiếu hụt dinh dưỡng khác. Vẫn có trên 40% phụ
nữ ở Châu Phi và Châu Á và với sự gia tăng dân số thì số người bị ảnh hưởng
ngày một tăng thêm.
Biểu đồ 1.1. Tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ và trẻ em ở khu vực Đông Nam Á
(2000-2007) [trích theo 122].
Biểu đồ 1.1 cho thấy, ở khu vực Đông Nam Á, tỷ lệ thiếu máu của các
đối tượng nguy cơ có giảm nhưng tốc độ chậm, giảm nhanh nhất ở trẻ em
dưới 5 tuổi, sau đó là phụ nữ mang thai còn phụ nữ không mang thai ở độ
14
tuổi sinh đẻ gần như không thay đổi. Tỷ lệ thiếu máu cao nhất ở phụ nữ
mang thai [122] .

1.1.5.2. Tình hình thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ trong thời kỳ mang
thai tại Việt Nam
Theo kết quả điều tra của viện Dinh dưỡng tiến hành ở 6 tỉnh đại diện
các vùng sinh thái ở Việt Nam năm 2006: Bắc Kạn, Bắc Ninh, Hà Nội, Huế,
Đắk Lắk, An Giang, tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ là 26,7% và ở mức
trung bình về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng theo phân loại của WHO. Tỷ lệ
thiếu máu cao nhất là ở Bắc Kạn là 63,4% [39].
Cùng năm 2006, nghiên cứu của Nguyễn Xuân Ninh và cộng sự tại nội
thành Hà Nội cho thấy ngay tại thành phố thì tỷ lệ thiếu máu vẫn ở mức vừa
và nặng với 36,3% ở PNMT, 25,5% ở phụ nữ không mang thai. Thiếu máu
tăng dần theo tuổi thai từ 16,7% đến 53,4%. Thiếu máu ở trẻ em cao nhất ở
nhóm dưới 12 tháng tuổi (54,3%) [40].
Nghiên cứu của Trần Thị Minh Hạnh và cộng sự năm 2007 tại thành
phố Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ thiếu máu của PNMT là 17,5%, thiếu sắt là
42,7% và thiếu máu thiếu sắt là 9,9%. Tỷ lệ thiếu sắt ở 3 tháng cuối cao gấp
3 lần 3 tháng giữa. Ở nhóm PNMT thiếu sắt, lượng Hemoglobin và Ferritin
tương quan thuận với tổng số ngày uống viên sắt ở 3 tháng giữa và 3 tháng
cuối [20] .
Nghiên cứu của Đặng Oanh và cộng sự năm 2008 tại Đắk Lắk cũng chỉ
ra tỷ lệ thiếu máu dinh dưỡng của PNMT dân tộc thiểu số tại tỉnh này là
50,1%. Tỷ lệ này tăng theo tuổi thai và đến 3 tháng cuối thì có đến 62% phụ
nữ bị thiếu máu. PNMT trên 4 lần có nguy cơ thiếu máu gấp 3,13 lần bình
thường, không dùng các chế phẩm chứa sắt có nguy cơ thiếu máu gấp 6,85
lần bình thường. PNMT bị thiếu máu dinh dưỡng có nguy cơ sảy thai cao
gấp 2,25 lần và nguy cơ sinh non cao gấp 2,61 lần bình thường [43].
15
Nghiên cứu của Phan Thị Ngọc Bích (2008) cho thấy, tỷ lệ thiếu máu ở
thai phụ đẻ tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2007 là 35,5%. Trong đó,
mức độ thiếu máu nhẹ chiếm 94,5%, thiếu máu trung bình là 5,3% và thiếu
máu nặng là 0,2%. Tuổi của thai phụ dưới 20 và trên 40 là một trong những

nguy cơ cao gây thiếu máu. Thai phụ làm ruộng có nguy cơ thiếu máu cao
hơn các nghề nghiệp khác. Thai phụ sống ở nông thôn, nguy cơ thiếu máu cao
hơn 1,49 lần so với thai phụ sống ở thành thị. Những thai phụ đẻ từ 3 lần trở
lên, nguy cơ thiếu máu là cao nhất. Nhóm thai phụ đẻ lần đầu, nguy cơ thiếu
máu cao thứ hai, tỷ lệ thiếu máu trong nhóm thai phụ đẻ 2 lần là thấp nhất. Tỷ
lệ thiếu máu ở thai phụ tỷ lệ nghịch với khoảng cách giữa hai lần sinh. Tỷ lệ
thiếu máu cao nhất trong nhóm thai phụ có khoảng cách giữa hai lần sinh <3
năm. Thai phụ chửa đa thai nguy cơ thiếu máu cao hơn thai phụ chửa một
thai. Thai phụ mắc tiền sản giật có nguy cơ thiếu máu cao hơn thai phụ không
mắc [3] .
Năm 2008, điều tra nghiên cứu của Nguyễn Song Tú trên 360 phụ nữ
tuổi sinh đẻ tuổi từ 15-49 tại ba xã Vân Du, Xuân Trúc, Tiền Phong, huyện
Ân Thi, tỉnh Hưng Yên kết quả như sau: tỷ lệ thiếu máu chung ở phụ nữ tuổi
sinh đẻ là 20,8% trong đó cao nhất ở nhóm tuổi 40-49 với tỷ lệ 28% và thấp
nhất ở nhóm tuổi 15-29 với tỷ lệ 9,7%. Tỷ lệ thiếu máu của phụ nữ tuổi sinh
đẻ ở các nhóm tuổi khác nhau, tăng dần theo nhóm tuổi. Liên quan với tuổi
của phụ nữ, ở lứa tuổi từ 30 trở lên phụ nữ có nguy cơ thiếu máu cao hơn 2,2
lần so với lứa tuổi thấp hơn. Những phụ nữ tuổi sinh đẻ nhiễm giun có nguy
cơ mắc thiếu máu gấp 4 lần so với những người không nhiễm [58].
Năm 2008, nghiên cứu của Võ Thị Thu Nguyệt và cộng sự tại Thành
phố Hồ Chí Minh về khảo sát tình trạng thiếu máu thiếu sắt trong 3 tháng giữa
thai kỳ và các yếu tố liên quan tại bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ
Chí Minh cho thấy, tỷ lệ thiếu máu trong thai kỳ là 20,19%, tỷ lệ thiếu máu
thiếu sắt là 17,21% [34].
16
Bảng 1.3. Tình hình thiếu máu ở phụ nữ không mang thai và phụ nữ
mang thai theo vùng sinh thái (2008)
Vùng
Phụ nữ mang thai Phụ nữ không mang thai
n % thiếu máu n % thiếu máu

Đồng bằng sông Hồng 746 29,1 896 22,7
Vùng núi phía Bắc 823 45,7 1096 37,5
Bắc và ven biển miền Trung 588 44,1 681 24,7
Tây Nguyên 351 28,9 438 30,1
Đông Nam Bộ 249 24 441 29,6
Đồng bằng sông Cửu Long 730 26,6 938 28,5
Toàn quốc 3.487 31,4 4.463 26,5
Nguồn: Điều tra thiếu máu và thiếu vitamin A lâm sàng, Viện Dinh
dưỡng, 2008 [62]
Kết quả ở bảng 1.3, cho thấy ở Việt Nam tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ
trước và trong khi mang thai ở tất cả các vùng còn ở mức trung bình và nặng
theo mức phân loại ý nghĩa sức khỏe cộng đồng của WHO. Vùng núi phía
Tây Bắc và vùng Bắc ven biển Miền Trung nơi có tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ
mang thai ở mức nặng.
Nghiên cứu tình trạng thiếu máu thiếu sắt ở trẻ em và phụ nữ tại 6 tỉnh
(Lạng Sơn, Sơn La, Quảng Trị, Quảng Bình, Kon Tum, Đắc Nông) thấy: Tỷ
lệ thiếu máu ở trẻ em và phụ nữ mang thai (Hb<110g/l) là 29,1% và 34%, ở
phụ nữ tuổi sinh đẻ (Hb<120g/l) là 17,2%; Tỷ lệ dự trữ sắt thấp
(Ferritin<30ng/ml) tương ứng là 49,1%, 53,2% và 27,8% cho trẻ em, nữ mang
thai và nữ tuổi sinh đẻ. Tỷ lệ thiếu máu do thiếu sắt (cả Hb và Ferritin thấp)
tương tự là 52,9%, 71,8%, và 46,9% cho trẻ em, nữ mang thai, nữ tuổi sinh
đẻ. Thiếu máu do thiếu sắt là vấn đề có ý nghĩa sức khoẻ cộng đồng ở trẻ em,
nữ mang thai, nữ tuổi sinh đẻ tại 6 tỉnh điều tra. Bổ sung viên sắt/folic vẫn là
biện pháp quan trọng tại địa bàn điều tra [40].
17
Nghiên cứu của Nguyễn Song Tú và cộng sự về tình trạng dinh dưỡng,
thiếu máu và nhiễm giun ở phụ nữ tuổi sinh đẻ tại Vùng phân lũ của Hà Nội
thấy tỷ lệ thiếu máu là 12,3%, tỷ lệ nhiễm giun chung là 46,9% [59].
Năm 2010, nghiên cứu của Phạm Thị Đan Thanh về tỷ lệ thiếu máu
thiếu sắt ở thai phụ 3 tháng đầu thai kỳ và các yếu tố liên quan tại tỉnh Bạc

Liêu, cho thấy tỷ lệ thiếu máu là 36,7%, tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt là 64,68%.
Thai phụ sinh từ 3 lần trở lên có nguy cơ thiếu máu thiếu sắt gấp 12 lần so với
thai phụ mang thai lần đầu. Tuổi mang thai, thai phụ trên 35 tuổi có nguy cơ
thiếu máu thiếu sắt gấp 3,6 lần so với thai phụ có độ tuổi 19 đến 30 tuổi [5].
Nghiên cứu của Đặng Đình Thoảng về thực trạng thiếu máu thiếu sắt ở phụ
nữ mang thai từ 6 đến 36 tuần vùng nông thôn tỉnh Hà Nam, cho thấy tỷ lệ
thiếu máu là 16,2%. Tỷ lệ thiếu máu tăng dần theo tuổi thai [56]
Năm 2012, nghiên cứu của Trương Hồng Sơn về hiệu quả can thiệp
cộng đồng bổ sung sớm đa vi chất dinh dưỡng trên phụ nữ tại một số xã thuộc
tỉnh Kon Tum và Lai Châu. Cho thấy tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng ở
nhóm phụ nữ mang thai tồn tại với tỷ lệ thiếu máu là 36,9%, và thiếu kết hợp
nhiều loại vi chất và các vi chất này có mối liên quan đến nhau và liên quan
đến tình trạng thiếu máu [50].
Theo Lê Thị Hợp [25], trong thập kỷ qua, Việt Nam cũng đạt được
những kết quả đáng kể trong việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng. Tỷ lệ suy
dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em <5 tuổi giảm đáng kể từ 43,3% năm 2000
xuống còn 29,3% năm 2010 và có sự khác biệt lớn giữa các vùng miền (31
tỉnh có tỷ lệ thấp còi còn cao, trên 30%; 2 tỉnh ở mức rất cao - trên 40%). Tỷ
lệ thiếu máu ở phụ nữ mang thai trên toàn quốc vẫn còn cao (36,5%).
Nghiên cứu dịch tễ học, trên cả nước và cắt ngang 347 phụ nữ mang
thai bao gồm chủ yếu là thai phụ ở độ tuổi trên 18 của Đặng Thị Hà và cộng
sự (2011) cho thấy thiếu sắt ở phụ nữ chiếm 31%, nguyên nhân chủ yếu do
chế độ ăn hàng ngày khoảng 50% và kém hấp thu là 50,9% [19].
18
1.2. MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN THIẾU MÁU Ở PHỤ NỮ MANG THAI
1.2.1. Yếu tố kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội
1.2.1.1. Yếu tố kinh tế
Những người PNMT thường nhắc đến thiếu tiền là nguyên nhân chính
khiến họ không thể chăm sóc bản thân tốt được (ví dụ như không thể mua
những thức ăn bổ dưỡng cho bản thân hay là phải làm việc nặng ngay cả khi

mang thai). Nói đến kiến thức dinh dưỡng, họ biết khá nhiều về những điều gì
là tốt cho thai nghén (như ăn tốt, nghỉ ngơi tốt). Tuy nhiên, họ không thực
hành những điều đó hoặc chỉ thực hành nửa vời. Xem lại khoá biểu của những
phụ nữ này, khó tìm thấy khoảng thời gian nào nhàn rỗi (như xem ti vi, nghe
đài, đọc sách báo…).
Kinh tế gia đình có ảnh hưởng đến chăm sóc dinh dưỡng cả trực tiếp
lẫn gián tiếp. Trực tiếp thì rõ ràng là khi nguồn lực (tiền bạc, nhân lực) trong
gia đình dồi dào thì người phụ nữ được ăn uống tốt và có thể lựa chọn thực
phẩm, được giảm bớt công việc nặng nề và nghỉ ngơi tốt hơn. Một cách gián
tiếp, kinh tế gia đình tốt có thể tạo nên một môi trường bình an và hoà thuận
cho người phụ nữ [44].
Nhiều nghiên cứu đã ghi nhận, tỷ lệ thiếu máu cao hơn ở những người
nghèo, những người sống ở vùng kinh tế khó khăn. Trình độ học vấn của
người mẹ cũng có liên quan đến tình trạng thiếu máu. Những phụ nữ tuổi sinh
đẻ có 3 con trở lên hoặc có khoảng cách giữa 2 lần mang thai dưới 24 tháng
có liên quan chặt chẽ đến tình trạng thiếu máu. Thiếu tư vấn, dịch vụ y tế
kém, niềm tin của đối tượng (không được can thiệp y tế khi mang thai, đẻ con
to, đẻ khó), vấn đề thiếu máu, thiếu sắt vẫn chưa được cộng đồng và lãnh đạo
các cấp quan tâm đúng mức [3].
1.2.1.2. Yếu tố văn hoá, xã hội, phong tục tập quán
Vì sống trong một cộng đồng khá gần gũi như ở nông thôn nên người
dân phải sống theo những cái gọi là “chuẩn mực” là “bình thường” hiện hành.
19
Nếu hàng xóm có được món gì thì mình cũng cố kiếm tiền mua được món ấy.
Lo sợ vì sự đồn đại cũng như chê trách từ cộng đồng cũng là động cơ cho
hành vi của nhiều người. Hầu hết những phụ nữ được hỏi đều muốn sinh một
đứa trẻ khoẻ mạnh, không to quá vì sợ khó sinh nhưng không bé quá vì như
thế ảnh hưởng đến sức khoẻ của trẻ. Một số đối tượng trả lời rằng nếu sinh
con ra bé quá thì hàng xóm sẽ cho rằng là mẹ không biết tự chăm sóc bản
thân, không ăn uống tốt cho bào thai phát triển hay là không chịu nghỉ ngơi.

Người phụ nữ như vậy sẽ bị mang tiếng là người mẹ thiếu trách nhiệm. Một
số phụ nữ khác trong thời kỳ mang thai có thực hành ăn kiêng một số thực
phẩm nhưng đó không phải là do quan niệm hay niềm tin vào việc kiêng ăn
mà là vì tránh bị gia đình (bên chồng) và cộng đồng trách cứ [42], [44], [45].
Ngoài ra, người phụ nữ có vẻ thụ động và thoả mãn với những gì mà
cuộc sống mang lại cho họ. Ví dụ họ không ra trạm y tế khám thai nếu không
được cán bộ y tế nhắc nhở. Hoặc khi tham gia vào lớp học về y tế và dinh
dưỡng, hay khi gặp gỡ với cán bộ giáo dục y tế thì không nhiều người muốn
tỏ ra học hỏi và tìm hiểu.
1.2.1.3. Yếu tố chăm sóc và ngân sách nhà nước
Cán bộ y tế của các trạm y tế xã chưa có điều kiện chăm lo quản lý sức
khoẻ của người dân đến tận hộ gia đình. Trang thiết bị hiện tại cũng chưa đáp
ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho người dân. Ngân sách nhà nuớc cung cấp
cho các hoạt động của mạng lưới y tế cơ sở còn hạn chế. Đội ngũ các công tác
viên dân số và nhân viên y tế ấp hoạt động tự nguyện mà chưa có chính sách
thù lao phù hợp chưa phát huy được hiệu quả công tác [27].
1.2.2. Chất lượng khẩu phần ăn và nuôi dưỡng
Sống ở nông thôn nên hầu hết các đối tượng phụ nữ tuổi sinh đẻ đều
làm nông nghiệp với các mức độ khác nhau, do đó thu nhập của họ thường
không ổn định mà biến động theo mùa trong năm. Song hành với thu nhập,
chế độ ăn của họ cũng biến động, lúc thì ăn quá nhiều, khi lại không có gì để
20
ăn. Đối với họ “no dồn, đói góp” là thực hành phổ biến ở nông thôn từ lâu. Vì
vậy việc không có hoặc có ít thứ để ăn trong một thời gian là chuyện bình
thường và cũng bình thường khi mà họ thèm ăn một thứ gì đó (thịt heo, cá,
lòng lợn, quả chua, quả xanh…) và có chút tiền là họ sẵn sàng mua một lượng
lớn để ăn trong một hoặc nhiều bữa liên tục “cho đến khi chán thì thôi”. Do
đó, lập kế hoạch ăn để có một chế độ ăn điều độ là điểm đáng lưu ý cho
những đối tượng này. Nếu không sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình thiếu
máu ở PNMT [15], [16], [44], [120], [129].

Ở các đối tượng của lứa tuổi (20-30 tuổi) xây dựng gia đình và nuôi
con nhỏ đang là giai đoạn phải làm việc nhiều nhất vì cuộc sống của gia đình
riêng, mặt khác khẩu phần ăn của các đối tượng này thường không đáp ứng
đủ nhu cầu làm việc và nuôi con nhỏ. Điều này cho thấy sự thiếu ổn định cuộc
sống của họ, đồng nghĩa với khẩu phần ăn không được đáp ứng đầy đủ [1],
[21].
1.2.3. Chế độ lao động, điều kiện sinh hoạt
Những công việc hàng ngày đã làm cho phụ nữ mang thai bị cuốn theo
mà quên đi chế độ ăn uống hay nghỉ ngơi. Với những giai đoạn quan trọng
của thai kỳ (3 tháng đầu, 3 tháng cuối) của người phụ nữ rơi trúng vào thời kỳ
này thì chế độ ăn uống hay nghỉ ngơi sẽ bị ảnh hưởng khá nhiều. Hoặc người
phụ nữ ăn chung thực phẩm với gia đình, không kêu ca đòi hỏi, do đó sẽ ảnh
hưởng đến chế độ dinh dưỡng của người phụ nữ trong thời kỳ mang thai [63].
Ngoài ra, nhu cầu về tiền bạc trong thời buổi thị trường khiến cho một
số nhu cầu sống cấp bách đẩy nhu cầu ăn uống và nghỉ ngơi tốt cho người phụ
nữ mang thai trở thành thứ yếu. Đó là vị trí của người phụ nữ trong gia đình
nắm quyền hạn trong quản lý chi tiêu hằng ngày, cơm nuớc và chăm sóc các
thành viên khác và đôi khi phải hy sinh nhu cầu cơ bản của bản thân. Theo
nhiều khía cạnh khoa học và dinh dưỡng lao động, thì mức độ tiêu hao năng
lượng cho các công việc này cũng ngang bằng với lao động nặng nhọc [15]
21
1.2.4. Các bệnh nhiễm ký sinh trùng mạn tính
Một trong những tác hại của ký sinh trùng đường ruột, đặc biệt là giun
móc gây ra là chảy máu mãn tính gây thiếu máu thiếu sắt. Phụ nữ tuổi sinh đẻ,
mang thai và trẻ em là những đối tượng có nhu cầu cao về sắt, cũng là những
đối tượng có nguy cơ nhiễm giun cao [7], [42], [52], [117].
Tình trạng giảm sắt và thiếu máu do thiếu sắt trong thời kỳ thai nghén
làm tăng rõ rệt nguy cơ đẻ non, đẻ trẻ thiếu cân, tử vong mẹ và trẻ sơ sinh. Do
đó, tại những nơi có tỷ lệ nhiễm giun móc cao, việc điều trị giun móc sẽ có
tác dụng cải thiện tình trạng thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ tuổi sinh đẻ [11].

Sốt rét là bệnh vẫn còn phổ biến ở nhiều tỉnh của Việt Nam, nhất là
vùng núi, vùng sâu. Nhiễm ký sinh trùng sốt rét là một trong những yếu tố
ảnh hưởng đến tình trạng thiếu máu [7], [85].
1.2.5. Dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ
1.2.5.1. Thành viên gia đình và cộng đồng
Người trực tiếp ảnh hưởng đến PNMT chính là chồng của họ vì mối
quan hệ với chồng có ảnh hưởng đến tâm trạng của người phụ nữ và chồng
cũng ảnh hưởng trực tiếp đến việc ăn uống và lao động. Ngày nay, hầu hết các
cặp vợ chồng trẻ độc lập về mặt kinh tế nên việc chi tiêu trong gia đình là của
hai vợ chồng quyết định. Tuy nhiên, các PNMT ở cùng với cha mẹ cũng cho
rằng họ được chăm sóc tốt hơn, được nghỉ ngơi nhiều hơn và không phải làm
việc nặng khi mang thai [45].
1.2.5.2. Truyền thông giáo dục sức khoẻ
Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng 2001-2010 đã đạt được 11 mục tiêu
chủ yếu, trong đó có mục tiêu phổ biến kiến thức, thực hành dinh dưỡng hợp
lý và phòng chống TMDD [8]. Về cơ bản tổ chức xã hội, các phương tiện
truyền thông phổ biến kiến thức về dinh dưỡng và phòng chống TMDD. Tuy
nhiên vẫn còn nhiều hạn chế chưa sát thực với tính chất đặc thù của từng đối
tượng cụ thể và kết hợp chặt chẽ với các chương trình y tế khác.
22
1.3. CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG THIẾU MÁU Ở PHỤ NỮ MANG THAI
1.3.1. Chẩn đoán và điều trị thiếu máu ở phụ nữ mang thai
1.3.1.1. Triệu chứng của thiếu máu cấp tính
Thông thường các thiếu máu cấp tính trong sản khoa thường kèm theo
các dấu hiệu cấp tính như băng huyết đường âm đạo, đau bụng…
Thăm khám có thể có các dấu hiệu chung như sau [6]:
- Da xanh, niêm mạc nhợt, lòng bàn tay trắng bệch;
- Tim nhịp nhanh, có thể có tiếng thổi tâm thu thiếu máu;
- Huyết áp động mạch giảm, khó thở, nhịp thở nhanh;
- Thần kinh: đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, choáng ngất và ngất.

1.3.1.2. Triệu chứng của thiếu máu mạn tính
Thiếu máu mạn tính ở PNMT cũng có những triệu chứng chung sau [6]:
- Da xanh xảy ra từ từ, niêm mạc môi, dưới lưỡi nhợt nhạt;
- Móng tay khô mất bóng, có khía dọc và dễ gãy;
- Tim nhịp nhanh, có tiếng thổi tâm thu thiếu máu, cơn đau thắt ngực;
- Hô hấp: khó thở khi gắng sức, nhịp thở nhanh;
- Thần kinh: nhức đầu, hoa mắt chóng mặt, ù tai, thường dễ bị ngất;
- Mệt mỏi khi đi lại và làm việc;
- Rối loạn tiêu hoá, ăn kém, ỉa lỏng hoặc táo bón, gầy sút cân
1.3.1.3. Một số xét nghiệm máu để chẩn đoán thiếu máu thông thường
Trên thực tế, được gọi là thiếu máu khi kết quả có 2 trong 3 xét nghiệm
sau đây bị rối loạn, giảm dưới mức bình thường:
+ Số lượng HC giảm;
+ Hàm lượng Hb giảm;
+ Hematocrit giảm.
23
Ngoài ra, định lượng sắt huyết thanh, ferritin giúp đánh giá về mức độ
TMTS [5]
1.3.1.4. Chẩn đoán thiếu máu thiếu sắt
Trong thai nghén, hầu hết các loại thiếu máu thường gặp là TMTS, thiếu
máu do mất máu và thiếu acid folic.
Chẩn đoán TMTS cần khai thác tỉ mỉ bệnh sử, kết hợp các xét nghiệm
sắt huyết thanh, mức transferin bão hòa huyết thanh. Ngoài ra sinh thiết tủy
xương, là cách đánh giá tốt nhất cho sắt dự trữ ở người phụ nữ ngoài thời kỳ
mang thai, kết hợp với xét nghiệm ferritin huyết thanh, mức ferritin huyết
thanh thấp dưới 12µg/l được chẩn đoán là sắt dự trữ bị cạn kiệt và phối hợp
với Hb thấp, thì được thừa nhận là TMTS [2]. Tuy nhiên vẫn có trường hợp
thiếu sắt mà không thiếu máu đã được ghi nhận ở một số nước Châu Mỹ
Latinh như Chilê, Uruguay và Costa Rita. Ngược lại cũng có những trường
hợp thiếu máu mà không thiếu sắt, như nhiều vùng ở Nam Phi [133].

1.3.1.5. Điều trị thiếu máu ở phụ nữ mang thai
- Bổ sung sắt trong điều trị
Điều trị nguyên nhân là rất cần thiết, tuy nhiên bổ sung sắt điều trị thiếu
máu ở PNMT là cơ bản nhất [104]. Có vài cách bổ sung sắt, trong đó đường
uống là chủ yếu, tốt nhất, thuận tiện và an toàn. Sắt được sử dụng là sắt
sulfate hoặc sắt Fumarate dưới dạng hoà tan, có hoá trị 2 [18], [65].
+ Liều lượng: 60-120mg nguyên tố sắt/ngày (tối ưu) chia 2 lần uống xa
bữa ăn, tốt nhất là trước bữa ăn 30 -40 phút. Nên phối hợp uống kèm vitamin
C để tăng khả năng hấp thu, cùng với khẩu phần tăng chất đạm [11].
Bình thường sau 1-2 tuần điều trị, hàm lượng Hb tăng lên rõ rệt, sau 1-2
tháng khối HC có thể trở về bình thường. Với Hb thấp dưới 60g/l, thì phải
điều trị tích cực 2-3 tháng mới hồi phục bình thường. Sau đó tiếp tục dùng ½
liều trên, trong vòng 3 tháng nữa để củng cố sắt dự trữ. Tỷ lệ Hb sẽ được nâng
24
cao lên khoảng 0,02g/l mỗi ngày, nếu cung cấp đủ sắt ngay từ đầu. Sau 1-2
tuần tỷ lệ Hb được tăng rõ rệt. Sau 1-2 tháng khối HC trở về bình thường.
Nếu một bệnh nhân TMTS nặng với Hb ở mức 50-60g/l thì phải mất hơn 2
tháng để hồi phục bình thường [65].
- Truyền máu: truyền máu hiếm khi được sử dụng với bệnh nhân TMTS.
Tuy nhiên, nếu thiếu máu nặng và người bệnh đang trong cuộc đẻ hoặc cần
can thiệp một thủ thuật cấp cứu, thì có thể chỉ định truyền máu [114].
- Bổ sung viên sắt dự phòng:
+ Bổ sung sắt - acid folic hàng ngày cho PNMT: Uống bổ sung viên sắt
hàng ngày được xem là giải pháp quan trọng, giải quyết tình trạng thiếu máu
ở PNMT, đã được WHO khuyến cáo và đang áp dụng tại Việt Nam. PNMT
có thể uống viên sắt ngay khi mang thai đều đặn suốt thời gian mang thai cho
tới sau khi sinh 1 tháng. Liều bổ sung là 60mg sắt nguyên tố (1 viên/ngày),
kèm theo acid folic, vitamin B12…[19], [29], [91], [119].
+ Bổ sung viên sắt dự phòng cho đối tượng nguy cơ cao: việc bổ sung
viên sắt cho phụ nữ gầy yếu, mới kết hôn cần thực hiện sớm, đó là giải pháp

quan trọng, giải quyết tình trạng thiếu máu ở cộng đồng. Đồng thời với việc
uống viên sắt, phụ nữ trẻ còn được tư vấn sớm về thiếu máu và thai nghén,
bởi vậy vừa giúp họ phòng tránh thiếu máu lại có hiểu biết và hành vi đúng
đắn trong chăm sóc sức khỏe sinh sản [11], [69], [103].
1.3.1.6. Điều trị nhiễm giun sán
- Điều trị hàng loạt: Điều trị hàng loạt có chu kì cho tập thể nhân dân là
một trong số những biện pháp có hiệu quả nhất phòng chống các bệnh giun
sán truyền qua đất. Mục đích điều trị hàng loạt không phải để tẩy sạch hết
giun sán, chỉ để giảm cường độ nhiễm bệnh (giảm số lượng giun sán trung
bình/người mắc) và giảm tần số lan truyền bệnh. Nói chung điều trị 3 lần/năm
trong 3 năm sẽ có tỷ lệ tái nhiễm chậm và thấp nhất, tuy nhiên rất tốn kém.
25
- Điều trị chọn lọc: Đầu tư điều trị hàng loạt tốn kém, bởi vậy người ta
đã đề ra biện pháp điều trị chọn lọc nhằm vào các đối tượng bị nhiễm giun
nặng. Qua nghiên cứu thấy rằng chỉ tập trung điều trị cho trẻ em dưới 16 tuổi
(chiếm khoảng 50% dân số) cũng làm giảm tỷ lệ nhiễm, cường độ nhiễm giun
sán trong cộng đồng [77], [121].
- Thuốc và cách điều trị [55], [77]:
+ Mebendazole với các biệt dược như Vermox, Nemasole, Mabasole,
Meben, Pantelmin, Sufil… dạng viên nén 500mg với liều dùng duy nhất 1
viên, cho mọi lứa tuổi. Thuốc làm giảm hấp thu, ức chế chuyển hoá glucose
của giun và gây tê liệt bởi không dung nạp được năng lượng ATP.
+ Albendazole với biệt dược Zentel, Alzentel, Alten, với liều dùng duy
nhất là 400mg. Thuốc có hiệu quả cao, ít tác dụng phụ, được ưa chuộng, có
thể dùng cho PNMT ở tuổi thai sau 4 đến 5 tháng, nhưng phải thận trọng.
1.3.2. Một số biện pháp phòng chống thiếu máu dinh dưỡng tại cộng đồng
1.3.2.1. Truyền thông giáo dục sức khoẻ, nâng cao KAP về phòng thiếu
máu dinh dưỡng
Vận động bà con biết tận dụng những điều kiện sẵn có, khắc phục tình
trạng mất cân đối trong dinh dưỡng. Huy động cộng đồng trong DDHL là

những giải pháp trước mắt cũng như lâu dài [13], [36].
 Đa dạng hóa bữa ăn, phối hợp nhiều loại thực phẩm
Vì thiếu máu ở PNMT chủ yếu là dạng TMDD, bởi vậy giải pháp thực
hiên đa dạng hoá bữa ăn là giải pháp bền vững, đó là việc tăng thêm vào khẩu
phần hàng ngày các loại thực phẩm có hàm lượng các vi chất dinh dưỡng
khác nhau, bổ sung lẫn nhau [47]. Các bước thực hiện bao gồm:
Giáo dục truyền thông cho cộng đồng (đặc biệt là đổi tượng PNMT)
biết cách chọn các thực phẩm giàu vi chất dinh dưỡng. PNMT nên ăn nhiều
loại thực phẩm (trộn lẫn thực phẩm - thực phẩm hỗn hợp) đặc biệt thực phẩm
giàu sắt như thịt có màu đỏ, gan và rau lá mầu xanh đậm, các loại đậu.

×