Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Cái đẹp trong văn hóa mặc của dân tộc Việt Qua các thời kỳ lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.05 KB, 15 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cái đẹp trong văn hóa mặc của dân tộc Việt Qua các thời kỳ lịch sử
Trang phục là một nhu cầu thiết yếu trong đồi sống con người. Nó
quan hệ đến nhiều lĩnh vực trong xã hội như địa lý, lịch sử, kinh tế, lễ
giáo, đẳng cấp, phong tục tập quán v.v... Nhất là ở lĩnh vực văn hóa tinh
thần nó thể hiện cụ thể rõ nét về trình độ và thị hiếu them mỹ của mỗi con
người, mỗi dân tộc, mỗi thời đại...
Quả thật trang phục (là kiểu cách quần áo, mũ, khăn, giầy dép, đồ
trang sức...), có tầm ảnh hưởng rất lớn tới đời sống con người - các mối
quan hệ xã hội thị hiếu them mỹ, đời sống tinh thần của con người Việt
Nam.
Ông cha ta đã từng dạy rằng:
“Hơn nhau tấm áo manh quần
Thả ra bóc trần ai cũng như ai.
Đó là bằng “con mắt trang phục”, và xét ở góc độ bình đẳng của cogt.
Nhưng thực tế phũ phàng ta cho cho ta thấy, trong xã hội cũ, chỉ vì “cái áo,
manh quần “ấy” mà biết bao người lao động nghèo đã phải đau khổ lên tiếng.
“Cha đì cái áo cách này
Mất chúng mất bạn vì mày áo ơi”
Nhưng nếu chỉ nhìn nhận cái áo, cái quần ở góc độ là những vật che
thân đơn thuần thì tức là chỉ nhìn bằng con mắt thực dụng. Bởi nó còn
mang những ý nghĩa sâu sắc về mặt văn hóa xã hội, về xu hướng thẩm
mỹ, của từng dân tộc, của từng con người lịch sử cho thấy đã bao lần quân
xâm lược phương Bắc xâm lược nước ta, và cố gắng bằng mọi cách đề
đồng hóa lối sống, phong tục của dân ta, bắt dân ta ăn mặc theo kiểu
phương Bắc nhưng đã gặp phải sự đấu tranh mãnh liệt của dân ta để bảo
vệ đất nước, bảo vệ phong tục cổ truyền.
“Đánh cho để dài tóc
đánh cho để răng đen”...
Vì vậy trang phục (hay văn hóa mặc): không chỉ là vật để che thân
mà còn mang những ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa tinh thần dân tộc. Đó là vẻ


đẹp tinh túy của mỗi dân tộc, là bàn tay khéo léo, khối óc tinh tế của
người Việt xưa trong việc cố kết hợp trang phục, sự cách điệu tinh tế cho
trang phục của mình trở nên đẹp đẽ hơn để phù hợp đời sống xã hội hiện
đại.
Trong bài tiểu luận này, tôi muốn trình bày sâu vào vấn đề “Cái đẹp
trong văn hóa mặc của dân tộc Việt – qua các thời kỳ lịch sử”.
- Trang phục thời Hùng Vương
- Trang phục thời phong kiến
- Trang phục từ cách mạng tháng 8 đến nay.
2
I. TRANG PHỤC THỜI HÙNG VƯƠNG
Cách đây khoảng 2500 – 2700 năm, thời đại Hùng Vương (với sự ra
đời của nhà nước đầu tiên – nhà nước Văn Lang – văn hóa đồng thau).
Người dân đã biết sinh sống, bằng săn bắn, trồng trọt biết rang gai, đay,
dâu, nuôi tằm, ươm tơ dệt vải không còn phải dùng vỏ cây làm quần áo
nữa).
Theo một số hiện vật còn gìn giữ và thu được ở một số di chỉ, và
theo nghiên cứu của các nhà văn hóa học – khảo cổ học trang phục thời kỳ
này khó phong phú.
Phụ nữ mặc áo ngắn đến bong, xẻ ngực, bó sát vào người, phía
trong mặc yếm kín ngực. Chiếc yếm có cổ tròn rất cổ, có trang trí hình
chấm hạt gạo. Cũng có những dạo áo cánh ngắn, cổ vông, để hở một phần
vai và ngực hoặc kín ngực, hổ một phần vai và trên lưng. Trên áo có hoa
văn trang trí. Thắt lưng có 3 hàng chấm trang trí, cách điệu nhau, quấn
ngang bong, làm cho thân hình thêm tròn lẳn. Đầu và cuối thắt lưng thả
xống phía trước và sau người, tận cùng bằng những tua rua. Váy kín bó
sát sát vào thân cũn cỡn trang trí đẹp.
Đàn ông đóng khố là một dải vải, ciều ngang khoảng 10cm (20cm
thì gập đôi lại), chiều dài khoảng 1,2m hoặc dài hơn. Tùy theo chiều dài
của khổ, người ta quấn thành một hoặc nhiều vòng quanh bong, thả đuôi

khố về phía sau hoặc phía trước. Đàn ông Đông Sơn thường cởi trần.
Đàn ông và đàn bà đều búi tóc tròn sau gáy. Một hình thức khác là
tóc búi ngược một phần lên đỉnh đầu, một phần thả ra sau lưng. Cũng có
thể cả nam và nữ đều xòa tóc sau lưng (nam thường xõa tóc kín cổ, nữ
thường xõa tóc sau lưng).
Qua quan sát trên trống đồng ta thấy: trong các hoạt động tập thể,
các ngày lễ hội người ta còn mặc những chiếc váy làm bằng lông vũ, hoặc
bằng lá cây xòa ra rất đẹp, trên đầu họ là chiếc mũ cũng bằng lông vũ có
trang trí thêm những bông lau ở phía trước.
3
Người dân thời kỳ này cũng đeo rất nhiều loại trang sức. Những
vòng đeo tai đa dạng: có loại đơn giản chỉ là một sợi dây đồng uốn tròn sơ
sài, hay được đúc lion, có loại vòng tròn có hang khóa. Đặc biệt là có
những vòng hoa tai gắn quả nhạc hay đôi hoa ai bằng đá, hình con thú.
Những chuỗi hạt thường thấy.
Gồm các loại hạt hình tru, trái xoan, hình cầu.
Ngoài ra còn có nhẫn bằng đồng đeo ở ngón tay có gắn quả nhạc.
Đàn ông thường có tục săm mình (ban đầu với mục đích vẽ lên mình
để khi xuống nước nó không bị giao long hãm hại. Sau được nâng lên
thành hình thức trang điểm cho cơ thẻ). Đàn ông đàn bà đều nhuộm răng
đen, và có tục ăn trầu.
Tuy rằng những trang phục thời kỳ nào còn đơn giản, đồ trang sức
còn tô sớ, nhưng với điều kiện chế tác hạn chế, ta thấy được rằng; con
người thời khỳ bấy giờ đã có trình độ thẩm mỹ, óc tưởng tượng cao, đã
quan tâm nhiều tới vấn đề làm đẹp cho cơ thể, đồng thời khi thể hiện bàn
tay khéo léo cần căn cứ hoạt động.
4
II. TRANG PHỤC CÁC THỜI PHONG KIẾN
1. Thời nhà Lý
Có nền kinh tế phát triển tạo điều kiện phát triển mọi mặt của đời

sống xã hội. Với ý thức dân tộc, nhà vua chủ trương dùng gấm vó trong
nước:
Năm 1059 Vua Lý Thánh Tông định triều phục cho các quan vào
chầu vua các quan phải đi tất, đi hia, đội mũ phác đầu, mặc áo bào tía,
cầm hốt ngà, thắt đai da. Vu mặc áo màu vàng, quần tía, búi tóc, cài trâm
vàng.
Trang phục võ tướng thời Lý khá hoàn chỉnh: mũ chùn kín tai, áo
dài đến đầu gối, cánh tay áo được may gọn gàng, chật, bó sát cổ tay, có
những mảnh giáp, hoặc diềm vải trang trí hình xoắn ốc hay hình bông hao
nhiều cánh to ở trước ngực. Rất nhiều đường viên song song, hình cong
hoặc xoắn ốc, tiếp dưới là những quả nhạc nhỏ, hoặc những tua rủ rồi mới
đến hàng quả nhạc. Dây lưng bằng vải thì buông rủ hai đầu xuống phía
trước. Nếu là đai lưng bằng da thì sát vào bụng, đều làm nổi lên đường nét
khoẻ, đẹp cho cơ thể. Đôi hia ở dưới chân cao đến đầu gối và được trang
trí đơn giản.
Các vũ nữ, tóc thường búi cao lên đỉnh dầu, trên trán có một điểm
trang trí, cổ đeo những chuỗi hạt, mặc váy ngán có nhiều nếp.
Trang phục của nhân dân: thời kỳ này “quá nửa người dân làm sư
sãi”. Tượng phật ADi Đà (từ năm 1057) còn lại tại chùa Phật Tích cho ta
thấy: tấm áo pháp khoác ngoài có đường cong, đường thẳng gấp khúc hay
buông rủ, rất sinh động. Nếp áo nổi lên như những đường gân của tấm lá
ren dính sát cơ thể. Khi đi dồn dập chảy suôi, chỗ thì vắt chéo mềm mại,
hay chạy vòng như sóng lượn, chỗ thì nhẹ nhàng, vài đường nằm ngang
cho thấy tấm áo vừa rộng, vừa gợi tả được độ mỏng và mịn của vải dù
tượng làm bằng đá.
Người dân cũng có tục săm mình, đàn bà đeo khuyên bạc vũ nữ
thường búi tóc xao và buộc diềm hoa trên đầu.
5
2. Trang phục thời Trần
Đây là thời kỳ có nhiều loại vải mới. Vải bông, vải gai, lụa lĩnh, sa,

the, nái, sồi, đoạn, gấm vóc,… Nghề thêu cũng phát triển.
Năm Hưng Long thứ 8 (1300). Quan võ dùng kiểu mũ áo mới. Quan
văn đội mũ chữ Đinh ( ) màu đen. Cửa tay áo các quan văn, võ rộng từ
9 tấc đến 1 thước 2 tấc.
Năm 1395 Lịch Triều tạp kỷ quy định: Nhất phẩm thì màu tía, nhị
phẩm màu đại hồng, tam phẩm màu đào hồng, tứ phẩm, ngũ phẩm màu
lục; thất phẩm màu biếc, bát cửu phẩm màu xanh.
“Trang phục nhân dân:
Đàn ông thường cởi trần hoặc mặc áo tứ thân màu đen, cổ cáo tròn
bằng the, quần mỏng bằng lụa thâm. Đại đa số trọc đầu, đi đất, có người
đi giầy da. Tục xăm mình cũng rất phổ biến.
3. Trang phục thời Lê - Mạc
Trang phục triều đình:
Đời vùa Lý Thánh Tông (từ năm 1934) khi hành đại lễ: vua mặc áo
long cổn, đầu đội mũ miện, còn lễ thượng triều thì mặc áo hoàng bào, đội
mũ xung thiên.
Chúa Trịnh trong các đại lễ, và ngày thường không khác vua Lê là
mấy chỉ khác về màu ắc (vua dùng màu vàng, chúa dùng màu tía) thể hiện
sự lấn quyền nghiêm trọng.
1486 định kiểu mũ chầu: các quan van võ vào chầu, đội mũ ô sa, hai
cánh chuồn phải nhất luật hơi hướng về đằng trước, khong được tự ý làm
ngang, hay lệch.
Triều đình lại định thể trang phục khi tiếp sứ nhà Minh các công
hầu, bá, nh phò mã, và các quan văn võ, đều phải màu sẫm, cáo có cổ
bằng gai, tơ, sa là sắc xanh dài cách đất một tấc (3,3cm) tay rộng 1 thước
hai tấc (40cm). Sự quy định về trang phục thể hiện lòng tự tôn dân tộc,
không để cho nước ngoài coi thường.
6

×