Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NỀN BÁO CHÍ VIỆT NAM, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.51 KB, 27 trang )

MÔN: QUẢN LÝ BÁO CHÍ – TRUYỀN THÔNG
Đề tài:
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ
Nguyễn Thị Thanh Phương
Hà Nội, 9/2014
1
MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI NỀN BÁO CHÍ TẠI VIỆT NAM
2.1. Khái niệm và các nguyên tắc
2.2. Cơ sở pháp lý
2.3. Cơ quan quản lý
2.4. Ý nghĩa của việc quản lý Nhà nước đối với báo chí
III. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI BÁO CHÍ
3.1. quản lý báo chí trên phương diện pháp luật ở nước ta
3.2. Quản lý báo chí trong tình hình thực tế hiện nay
IV. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ BÁO CHÍ
4.1 Xây dựng quy hoạch phát triển báo chí phù hợp
4.2 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về báo chí
4.3 Hoàn thiện chế độ chính sách và đầu tư thích hợp đối với lĩnh vực báo
chí
4.4 Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quản lý nhà nước về báo
chí
4.5 Nâng cao chất lượng và hiệu quả bộ máy quản lý
4.6 Tăng cường thanh tra, kiểm tra
V. KẾT LUẬN
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
2
I. PHẦN MỞ ĐẦU
Từ lâu, báo chí với những nỗ lực không ngừng của mình đã thực sự trở


thành một phần không thể thiếu của đời sống kinh tế và xã hội của đại đa số
cộng đồng sinh sống trên thế giới, đặc biệt là tại các nước đã và đang phát
triển. Tại Việt Nam, tuy báo chí không được coi là quyền lực thứ 4, song với
vai trò là tiếng nói của nhân dân, cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước,
báo chí cũng đóng góp một phần không nhỏ trong đời sống con người cũng
như trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Hiểu được tầm quan trọng và
sức mạnh tiềm ẩn của báo chí, Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận ra yêu cầu
cấp bách là phải có một cơ chế, chính sách hợp lý, thiết thực để quản lý ngành
báo chí. Chính vì lý do đó, hàng loạt nghị quyết, chỉ thị được ban hành nhằm
mục đích tăng cường quản lý công tác báo chí, xuất bản như: Nghị quyết
384- HĐBT ngày 5/11/1990 về tăng cường quản lý công tác báo chí, xuất
bản, Chỉ thị 22-CT/TW về tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản
lý công tác báo chí…Theo đà đó, 12/6/1999, Quốc hội khóa X đã thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí. Điều này cho thấy sự nỗ
lực không ngừng của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng quy chế quản
lý báo chí .
Cho đến nay, với sự phát triển không ngừng của mình, cả nước đã có
838 cơ quan báo in, 375 báo, tạp chí, trang thông tin điện tử, 67 đài phát thanh
truyền hình và một số Hãng thông tấn quốc gia là ngân hàng tin đối nội, đối
ngoại, chủ quản nhiều bản tin, báo, tạp chí, kênh truyền hình thông tấn. Với
sự phát triển nhanh chóng và không ngừng đó, yêu cầu về việc tập trung đẩy
mạnh công tác quản lý của Nhà nước về báo chí lại càng trở nên bức thiết.
Nhất là khi sự phát triền nhanh chóng đó lại không đi cùng với việc nâng cao
chất lượng quản lý, khiến cho hoạt động báo chí bộc lộ nhiều bất cập, xu
hướng thương mại hóa tăng cao, việc câu kéo, giật tít ngày một tràn lan, nhiều
tờ báo chạy theo thị hiếu tầm thường đăng bài ảnh với nội dung thiếu văn hóa,
đi ngược lại với thuần phong mỹ tục…
3
Trong khi đó, dưới góc độ Nhà nước thì các công cụ quản lý về báo chí
mà chủ yếu là pháp luật chưa hoàn thiện, không phù hợp với thực tiễn phát

triển sinh động trong lĩnh vực báo chí thời gian gần đây.
Tất cả đã đặt ra nhu cầu cần phải có những giải pháp hữu hiệu để nâng
cao hiệu quả quản lý Nhà nước cả về phương diện pháp lý lẫn thực tiễn.
Chính vì vậy mà tác giả đã quyết định chọn đề tài “Quản lý Nhà nước đối
với báo chí” để làm tiểu luận kết thúc môn học Quản lý báo chí và truyền
thông.
4
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
BÁO CHÍ
2.1. Khái niệm và các nguyên tắc
Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống
xã hội, là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội, là diễn đàn của nhân dân lao động. Báo chí không chỉ làm nhiệm
vụ thông tin mà còn thực hiện công tác tuyên truyền làm cho các hoạt động xã
hội phát triển theo định hướng của nhà cầm quyền và bình ổn xã hội. Như vậy
báo chí cũng là hình thức hoạt động cần sự quản lý của Nhà nước.
Nói đến quản lý Nhà nước đối với báo chí là nói đến những hoạt động
của bộ máy Nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động báo chí được ổn định và
phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội. Với vai trò là thiết chế trung
tâm trong hệ thống chính trị, Nhà nước đại diện cho nhân dân, đảm bảo cho
công dân được thực hiện các quyền cơ bản của mình, trong đó có quyền về tự
do ngôn luận, tự do báo chí. Nhà nuớc có trách nhiệm điều tiết để đảm bảo
báo chí phát triển, đáp ứng các nhu cầu về thông tin của nhân dân, đóng góp
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay,
Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đấu tranh chống các thế
lực thù địch lợi dụng chính sách tự do ngôn luận, tự do báo chí để đưa ra các
luận điệu sai trái, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” gây mất an ninh
chính trị và trật tự trong nước.
Hay nói cách khác, “Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực báo chí cũng như
bất kỳ một dạng quản lý xã hội nào khác, là dạng quản lý công vụ quốc gia

của bộ máy Nhà nước - là công việc của bộ máy hành pháp. Nó là sự tác động
có tổ chức và được điều chỉnh bằng pháp luật, trên cơ sở quyền lực Nhà nước
đối với các quá trình xã hội và hoạt động báo chí do các cơ quan có thẩm
quyền trong hệ thống hành pháp từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực
hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội,
thỏa mãn nhu cầu tự do báo chí của công dân”.
5
Các hoạt động của báo chí xét trên hình diện chung có ảnh hưởng rất
lớn đến đời sống xã hội. Vì vậy, muốn đảm bảo được các hoạt động này đi
vào khuôn khổ đặt dưới sự điều chỉnh của pháp luật, chúng ta cần có những
nguyên tắc quản lý phù hợp. Sau đây là những nguyên tắc cơ bản trong quản
lý Nhà nước đối với báo chí.
* Nguyên tắc tôn trọng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của công
dân
Tôn trọng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí là một
nguyên tắc hiến định.
Điều 2, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999 quy định: “Nhà nước
tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự
do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình”. Và
Điều 4 luật này cụ thể hóa như các quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận như
sau: “Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế
giới; tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài,
ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức,
cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin; phát
biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với
các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của
các tổ chức đó”.
Để đảm bảo nguyên tắc này, Nhà nước cần phải luôn tạo ra những cơ

chế pháp lý phù hợp với các loại hình hoạt động báo chí nhằm phục vụ tốt
nhất nhu cầu của đông đảo quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, Nhà nước
cũng cần đề ra một phương thức hướng các hoạt động báo chí tuân thủ pháp
luật, nhằm tạo điều kiện tốt để các cơ quan chức năng Nhà nước thuận lợi hơn
trong việc quản lý.
6
* Nguyên tắc đảm bảo quyền thụ hưởng thành quả hoạt động báo chí
một cách bình đẳng của tất cả công dân
Bằng hoạt động của mình, báo chí đã góp phần đáng kể vào việc ổn
định chính trị, phát triển kinh tế và định hướng dư luận xã hội một cách tích
cực. Ở nước ta, pháp luật trong quản lý Nhà nước đối với báo chí là công cụ
khá quan trọng nhằm bảo tồn, phát triển nền văn hóa dân tộc hiện đại, nhân
văn; tiếp thu tinh hoa văn hóa và tiến bộ về khoa học, công nghệ của nhân
loại, đảm bảo cho quá trình hội nhập môi trường thông tin, báo chí toàn cầu
được nhanh chóng và thành công. Với điều kiện đó, hoạt động báo chí ngày
nay có những tiến bộ rõ rệt và đáp ứng khá tốt nhu cầu thông tin của mọi
người dân quan tâm. Tất cả thành quả này của báo chí cần được phổ cập đến
toàn thể các đối tượng thụ hưởng khác nhau trong xã hội. Đây được xem như
một nguyên tắc biểu hiện tính nhân văn sâu sắc với mục tiêu nâng cao chất
lượng dân trí. Để cụ thể hóa nguyên tắc này, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung
năm 1999 đã quy định: “Nhà nước có chính sách hỗ trợ ngân sách, tạo điều
kiện cho xuất bản, phát hành báo chí đến với nhân dân các vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội khó khăn và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn, đến với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài”.
* Kiên quyết đấu tranh chống lợi dụng việc tôn trọng tự do báo chí, tự
do ngôn luận làm trái pháp luật
Từ khi ra đời cho đến ngày nay, báo chí luôn có những ảnh hưởng nhất
định đến tình hình an ninh chính trị của một quốc gia và cả quốc tế bởi tính
quần chúng của nó. Nhất là ngày nay, vấn đề tôn trọng quyền tự do báo chí, tự
do ngôn luận trên báo chí luôn được đặt ra và xem như quyền cơ bản của con

người mà các thể chế chính trị và hình thức nhà nước buộc phải tôn trọng. Ý
thức được vấn đề này, các thế lực thù địch và ngoại bang luôn tìm cách lợi
dụng báo chí và các diễn đàn nhân dân làm cơ sở cho việc chống phá Nhà
nước ta, chống phá công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, chống phá sự
nghiệp đại đoàn kết nhân dân. Đây là những hành vi vô cùng nguy hiểm làm
7
thiệt hại đến lợi ích cả một quốc gia dân tộc. Cho nên, Nhà nước ta luôn luôn
đề ra kim chỉ nam cho hoạt động của mình trước tình hình lợi dụng đó là kiên
quyết đấu tranh và đấu tranh đến cùng để chống lại các hành vi đầy mưu đồ
này. Vì vậy, trên cơ sở cụ thể hóa Hiến pháp 1992, Luật Báo chí sửa đổi, bổ
sung năm 1999 một mặt khẳng định sự tôn trọng quyền tự do báo chí của
công dân, mặt khác đã tạo ra hành lang pháp lý ngăn chặn triệt để những âm
mưu này khi quy định: “Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế,
cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo
chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
tập thể và công dân”. Đây được xem như quan điểm chung nhất nhằm nghiêm
cấm việc lợi dụng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí để phá
hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước, kích động bạo lực và tuyên
truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước;
chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc; gây rối trật tự công cộng, xâm phạm đến
tính mạng, sức khỏe, danh dự, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công
dân, hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.
Mọi hành vi vi phạm đều được xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
2.2 Cơ sở pháp lý
Cách mạng Tháng 8 thành công, Đảng và Nhà nước ta đã chăm lo xây
dựng hệ thống văn bản pháp lý tạo cơ sở cho việc quản lý Nhà nước đối với
báo chí. Ngày 10-10-1945, Hồ Chủ tịch đã ra sắc lệnh về việc duy trì tạm thời
các luật lệ hiện hành, nhưng nêu rõ: “Những điều khoản trong các luật cũ
được tạm thời giữ lại do sắc lệnh này, chỉ thi hành khi nào không trái với

nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính phủ dân chủ cộng hòa”.
Và cũng từ thời điểm này, vấn đề hoạt động báo chí, ngôn luận rất được
Nhà nước ta quan tâm. Vì vậy, ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà được thành lập, Hiến pháp đầu tiên 1946 ra đời đã ghi nhận quyền tự do
báo chí, tự do ngôn luận của công dân. Đến Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980,
8
Hiến pháp 1992 đều quy định về tự do báo chí, ngôn luận; không ai được xâm
phạm đến quyền này của nhân dân và cũng nghiêm cấm việc lợi dụng quyền
tự do báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân.
Tính đến nay đã có gần 50 văn bản được Nhà nước ta ban hành liên
quan đến báo chí như: Sắc lệnh 41 ngày 29-3-1946 về chế độ kiểm duyệt báo
chí; Sắc lệnh số 282 ngày 14-12-1956 về chế độ báo chí, Luật số 100/SL-L-
002 ngày 20-5-1957 quy định chế độ báo chí (Luật Báo chí 1957); Nghị định
số 197/TTg ngày 9-7-1957 quy định chế độ và quyền lợi của người làm báo
chuyên nghiệp và Nghị định số 298/TTg ngày 9-7-1957 quy định chi tiết thi
hành Luật Báo chí năm 1957; Nghi định số 133/HĐBT ngày 20-4-1992 của
Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí về các mặt; Chỉ
thị 63/CT-TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí-
xuất bản; Nghị định số 384/HĐBT về tăng cường công tác quản lý báo chí-
xuất bản; Thông tư số 131/TT-VP ngày 20-11-1990 của Bộ Văn hóa - Thông
tin hướng dẫn thi hành Nghị định 384/HĐBT và có điều chỉnh một số tiêu
chuẩn nghiệp vụ của chức danh viên chức báo chí, Bộ luật Hình sự 1999, Bộ
luật Dân sự 1995… Mặc dù các văn bản này không đồng bộ và mang tính phổ
quát, thể hiện các quan điểm khác nhau của Nhà nước ta đối với báo chí trong
từng giai đoạn lịch sử khác nhau nhưng phần nào đã đặt ra một cơ sở pháp lý
để các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý
Nhà nước đối với báo chí của mình.
Ngày 28-12-1989, Quốc hội thông qua Luật Báo chí và ngày 2-1-1990,
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký lệnh công bố Luật Báo chí nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thay thế Luật Báo chí năm 1957. Đến ngày 12-6-

1999, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Báo chí và có hiệu lực đến ngày nay.
Luật Báo chí năm 1990 vừa kế thừa những nguyên tắc đúng đắn của
Luật Báo chí năm 1957, vừa bổ sung và hoàn thiện một bước luật pháp của
Nhà nước ta về báo chí. Luật Báo chí năm 1990 cũng phản ánh những thay
9
đổi to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của nước ta trong sự nghiệp đổi mới
do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.
Song song đó, Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 51/2002/NĐ-CP
ngày 26-4-2002 quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí; Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Báo chí. Trong nghị định này, đã đi sâu vào quy định
một số điểm mới của Luật Báo chí hiện hành.
Nhìn chung, hai văn bản pháp luật hiện hành này đã khắc phục được
một số nhược điểm của các văn bản trước, định hình cho chức năng quản lý
báo chí bằng các cơ sở pháp lý rất cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ.
2.3. Cơ quan quản lý
Ở Việt Nam, việc xác định cơ quan quản lý Nhà nước đối với báo chí
mang tính lịch sử, bởi lẽ từ khi ra đời, nước ta đã 4 lần ban hành Hiến pháp:
gồm Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992. Mỗi
khi Hiến pháp mới ra đời, cơ cấu tổ chức, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mỗi
cơ quan Nhà nước sẽ có những thay đổi cơ bản. Chính vì vậy mà qua mỗi thời
kỳ, cơ quan quản lý Nhà nước đối với báo chí cũng có sự thay đổi cả về tên
gọi lẫn phạm vi thẩm quyền quản lý. Ở đây chúng ta không thể đi ngược lại
lịch sử để đi tìm hiểu cơ quan quản lý Nhà nước đối với báo chí qua từng thời
kỳ khác nhau mà chỉ tìm hiểu cơ quan có thẩm quyền quản lý Nhà nước đối
với báo chí từ Hiến pháp 1992 và Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999
đến hiện nay.
Theo quy định của Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung 1999, các cơ quan quản
lý Nhà nước về báo chí ở Trung ương và địa phương được quy định như sau:
1- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về báo chí.

2- Bộ Văn hoá - Thông tin chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện
quản lý nhà nước về báo chí.
3- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về
báo chí theo quy định của Chính phủ.
10
Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ trong việc phối hợp với Bộ Văn hoá - Thông tin để
thực hiện thống nhất quản lý Nhà nước về báo chí.
4- Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện
quản lý Nhà nước về báo chí trong phạm vi địa phương theo sự phân cấp của
Chính phủ".
Như vậy ở Trung ương, cơ quan có chức năng quản lý Nhà nước đối
với báo chí là Chính phủ và Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Thông tin và
Truyền thông). Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước đối với báo chí trên
phạm vi cả nước bằng việc ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến báo
chí. Với cương vị là người người đứng đầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
sẽ thực hiện một số nhiệm vụ quản lý của mình liên quan đến báo chí trên cơ
sở đệ trình của Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền
thông) để kịp thời giải quyết các vấn đề cấp bách quan trọng vượt quá thẩm
quyền của Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông).
Riêng đối với báo chí, Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Thông tin và
Truyền thông) có các trách nhiệm và quyền hạn:
+ Hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức thực hiện quy hoạch mạng lưới báo chí
trong cả nước, văn phòng đại diện cơ quan thường trú ở nước ngoài của các
cơ quan báo chí Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
+ Quản lý các loại hình báo chí trong cả nước bao gồm báo in, báo nói,
báo hình, báo điện tử, thông tấn và thông tin trên mạng;
+ Chủ trì giao ban báo chí, quản lý thông tin của báo chí theo quy định
của pháp luật về báo chí;

+ Thực hiện chế độ phát ngôn cung cấp thông tin cho báo chí theo phân
cấp và ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ;
+ Ban hành quy chế tổ chức hội thi về báo chí;
+ Quy định về báo lưu chiểu, quản lý kho lưu chiểu báo chí quốc gia;
11
+ Cấp, gia hạn, tạm đình chỉ, đình chỉ, thu hồi giấy phép hoạt động báo
chí; giấy phép xuất bản đặc san, số phụ, phụ trương, chương trình đặc biệt,
chương trình phụ; thẻ nhà báo; cấp phép cho báo chí xuất bản ở nước ngoài
phát hành tại Việt Nam;
+ Quy định về việc hoạt động của báo chí và nhà báo trong cả nước,
phối hợp với các cơ quan có liên quan quản lý hoạt động của báo chí Việt
Nam liên quan đến nước ngoài và hoạt động báo chí của người nước ngoài, tổ
chức nước ngoài tại Việt Nam;
+ Thỏa thuận về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng Biên tập, Phó Tổng
Biên tập, Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc, Giám đốc, Phó Giám đốc các
cơ quan báo chí;
+ Quy định tiêu chuẩn, chuyên môn, nghiệp vụ người đứng đầu cơ
quan báo chí.
Ở địa phương, trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với báo chí thuộc về
Uỷ ban Nhân dân các cấp tỉnh theo sự phân cấp của Chính phủ. Đây là các cơ
quan Nhà nước có sự can thiệp một cách trực tiếp, sâu sắc nhất đối với việc
quản lý Nhà nước đối với báo chí thông qua các Sở Thông tin - Truyền thông
và các bộ phận trực thuộc.
2.4. Ý nghĩa của việc quản lý Nhà nước đối với báo chí
Báo chí với tư cách là công cụ quan trọng về công tác tư tưởng, chính
trị của Đảng, với sự đa dạng của các loại hình báo chí và những lợi thế riêng
có, báo chí hoàn toàn có khả năng đóng góp rất tích cực, có hiệu quả vào sự
nghiệp giữ vững và tăng cường sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Trong những năm qua, hoạt động của báo chí nước ta đã và đóng góp rất lớn
cho sự phát triển và hội nhập thế giới trên mọi lĩnh vực. Song song đó vẫn

còn tồn đọng nhiều vấn đề phát sinh cần sự điều chỉnh sâu sắc của các cơ
quan chuyên trách.
Quản lý Nhà nước đối với báo chí là một chức năng thật sự cần thiết
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Nó đáp ứng nguyện vọng của đông đảo
12
quần chúng nhân dân trong xã hội. Bới lẽ vấn đề tự do báo chí và tự do ngôn
luận trên báo chí là một nhu cầu có thực của xã hội, nó đánh giá tiêu chuẩn
phát triển về các quyền tự nhiên mang tính nhân bản trong toàn xã hội. Nhu
cầu về tự do báo chí, ngôn luận sẽ vẫn còn tiếp tục tiếp diễn và có ảnh hưởng
rất lớn đến tình hình trị an, trật tự xã hội của đất nước. Bên cạnh dó, trên bình
diện quốc tế, các thông tin mà báo chí cung cấp cũng như các hoạt động liên
quan đến báo chí cũng có những ảnh hưởng nhất định đến vấn đề an ninh
chính trị của toàn cầu.
Với thực trạng như thế, quản lý Nhà nước đối với báo chí sẽ có các ý
nghĩa to lớn khi vừa đảm bảo được trật tự an ninh, an toàn xã hội vừa đảm
đảm bảo tôn trọng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công
dân. Ngoài ra trước tình hình xuyên tạc của các thế lực thù địch, quản lý Nhà
nước đối với báo chí sẽ làm cho báo chí hoạt động và phát triển theo đúng chủ
trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đấu tranh tích cực, làm thất bại
các âm mưu sử dụng diễn đàn của nhân dân cho chiến lược diễn biến hòa bình
trên phương diện thông tin đại chúng và văn hóa xã hội.
13
III. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI BÁO CHÍ
3.1. Quản lý báo chí trên phương diện pháp luật ở nước ta
Nhận thức vai trò và vị trí của báo chí, thông tin đối với các mặt của
đời sống xã hội nên từ năm 1945 đến nay, Nhà nước ta luôn quan tâm đến
việc ban hành các văn bản pháp lý thể hiện vai trò, trách nhiệm và chức năng
của các cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý báo chí.
Trải qua hơn 60 năm đồng hành cùng các thể chế chính trị, pháp luật về
quản lý Nhà nước đối với báo chí đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung và hoàn

thiện cho phù hợp với tình hình mới và yêu cầu mới trong từng gia đoạn lịch
sử khác nhau của đất nước. Qua đó, cho thấy hệ thống pháp luật liên quan đến
báo chí ngày càng có tính hệ thống và thực tiễn trong việc điều hòa, điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội báo chí giữa các chủ thể nhằm hướng đến một
trật tự chung theo định hướng và ý chí của Nhà nước. Xuyên suốt dòng lịch
sử, pháp luật về quản lý Nhà nước đối với báo chí đã từng bước được đổi mới,
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và việc thực hiện các quyền tự do ngôn
luận trên báo chí của công dân luôn được pháp luật quy định và đảm bảo thực
hiện ở từng mức độ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của
mỗi giai đoạn lịch sử. Các văn bản sau có sự chọn lọc và kế thừa biện chứng
của các thành tựu trước đó. Sự kế thừa và phát triển liên tục của pháp luật báo
chí phản ánh đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác
báo chí.
Song song đó, quá trình bổ sung, sửa đổi pháp luật trong lĩnh vực báo
chí đã góp phần tích cực, quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động
báo chí. Là một bộ phận của hoạt động văn hóa thuộc thượng tầng kiến trúc
rất nhạy cảm với chính trị, báo chí là phương tiện lợi hại trong đấu tranh giai
cấp, có tác động trực tiếp tới lợi ích giai cấp. Vì vậy, ở chế độ nào cũng vậy,
thông qua pháp luật, giai cấp thống trị mà đại diện là đảng cầm quyền luôn
luôn tìm cách kiểm soát chặt chẽ hoạt động báo chí, điển hình là các điều cấm
với các chế tài nghiêm khắc nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời các chủ thể có
14
hành vi vi phạm đến quyền lợi giai cấp, quyền lợi quốc gia, dân tộc thông qua
hoạt động báo chí. Trong điều kiện đang trên đường đổi mới tư tưởng và kinh
tế thị trường, với hoàn cảnh chưa hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta hiện
nay, việc đảm bảo cho báo chí phát triển theo hướng lành mạnh, phù hợp với
pháp luật càng cần thiết đặt ra để có thể loại trừ các khả năng nhân danh đổi
mới, tự do, dân chủ nhằm công bố những tác phẩm có nội dung “quá trớn”,
kích động; nhân danh sự kiên định để phổ biến những quan điểm bảo thủ, lạc
hậu, lỗi thời v.v…

Hơn nữa, các văn bản pháp luật về báo chí nêu trên khi áp dụng vào đời
sống xã hội thời gian vừa qua đã góp phần hiệu quả ngăn chặn các hoạt động
báo chí chạy theo xu hướng thương mại hóa, bất chấp hậu quả về chính trị, tư
tưởng và văn hóa bởi mặc dù chúng ta khẳng định lợi nhuận của hoạt động
báo chí trong cơ chế thị trường cũng phải trở thành vấn đề phải tính toán song
không thể xa rời mục tiêu chính trị, tư tưởng và văn hóa, giữa chúng có quan
hệ biện chứng, trong đó chính trị, văn hóa, tư tưởng là mục tiêu hàng đầu
xuyên suốt và bao trùm.
Tuy nhiên, xét từ quan điểm hệ thống cho thấy, pháp luật về quản lý
Nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở nước ta vẫn chưa đầy đủ, hoàn thiện và
thiếu thể hiện sự cập nhật đối với các vấn đề mới xuất hiện trong xã hội. Theo
đó, vẫn còn nhiều quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành mà cụ thể
là Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung 1999 chưa phù hợp với thực tiễn hoạt động
báo chí hoặc còn thiếu:
Thứ nhất, một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan lĩnh vực báo
chí có sự chồng chéo, thiếu sự thống nhất, gây khó khăn cho việc áp dụng. Cụ
thể, trong nội dung cụ thể về quản lý Nhà nước đối với hoạt động phát thanh,
truyền hình có sự mâu thuẫn giữa vai trò quản lý Nhà nước của Bộ Văn hóa -
Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) và việc quản lý thống nhất
toàn ngành của Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Truyền hình Việt Nam. Theo
đó, Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) là cơ quan
15
thuộc Chính phủ có quyền quản lý Nhà nước về báo chí trong toàn quốc,
trong đó các cơ quan báo chí đặc thù (Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng
nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam…) trong khi theo quy định của pháp
luật, những cơ quan báo chí này lại có những vị trí ngang bằng với Bộ Văn
hóa - Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) về địa vị pháp lý, do
đó việc thực hiện quản lý Nhà nước không tránh khỏi những vướng mắc,
chồng chéo và cả nể nhau.
Hay những quy định của pháp luật hiện nay về vai trò, nhiệm vụ của cơ

quan chủ quản báo chí, nhưng vẫn chưa cụ thể. Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung
năm 1999 quy định: “Cơ quan chủ quản báo chí chịu trách nhiệm trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình đối với các sai phạm của cơ quan báo chí trực
thuộc” cũng không rõ ràng. Cụ thể, Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh vừa trong trường
hợp này sẽ là cơ quan thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn quản lý Nhà nước đối
với báo chí ở địa phương vừa là cơ quan chủ quản của một số đơn vị báo chí
(đài phát thanh, đài truyền hình tỉnh). Nếu như có sai phạm thì việc truy cứu
trách nhiệm, xử lý khó có tính khách quan, công bằng chậm khắc phục. Điển
hình như vụ việc bổ nhiệm lãnh đạo Đài Phát thanh - Truyền hình các tỉnh Trà
Vinh, Bà Rịa-Vũng Tàu, Sóc Trăng, Đồng Nai không đúng quy định Luật Báo
chí vừa diễn ra vào năm 2009. Dù cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền
nhắc nhở song Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân các địa phương này vẫn chưa thực
hiện đúng quy định và vẫn chưa thể có biện pháp chế tài thích đáng.
Thứ hai, về trách nhiệm của báo chí đối với quyền tự do báo chí, quyền
ngôn luận trên báo chí của công dân. Điều 5 Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm
1999 quy định: “Cơ quan báo chí có trách nhiệm: 1. Đăng, phát sóng tác phẩm,
ý kiến của công dân; trong trường hợp không đăng, phát sóng phải trả lời và
nêu rõ lý do; 2. Trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có chức vụ trả lời bằng thư
hoặc trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến”.
Quy định này không có tính khả thi và hầu như cơ quan báo chí nào
trong cả nước cũng đều vi phạm. Báo chí không thể đăng hoặc phát sóng mọi
16
tác phẩm, ý kiến của công dân, đồng thời cũng không có khả năng trả lời từng
công dân và nêu rõ lý do không đăng hoặc phát sóng tác phẩm, ý kiến của họ.
Nói riêng về đơn thư khiếu nại, tố cáo thì hiện nay, số lượng đơn thư khiếu
nại, tố cáo của công dân gửi đến các cơ quan báo chí là rất lớn. Nhất là trong
các trường hợp khiếu kiện liên tục, kéo dài, người dân thường photo các đơn
thư khiếu nại, tố cáo gửi cho nhiều cơ quan báo chí cùng một lúc. Cũng liên
đến nội dung này, Nghị định 51/2002/NĐ-CP ngày 26-4-2002 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

Luật Báo chí quy định: “Khi cơ quan Nhà nước, tổ chức Đảng, tổ chức xã hội
(gọi chung là tổ chức) và người có chức vụ nhận được ý kiến, kiến nghị, phê
bình, khiếu nại của tổ chức, công dân, tố cáo của công dân do cơ quan báo chí
chuyển đến hoặc đăng, phát trên báo chí, trong thời hạn ba mươi (30) ngày, kể
từ ngày nhận được hoặc từ ngày báo chí đăng, phát thì người đứng đầu tổ
chức, người có chức vụ phải thông báo cho cơ quan báo chí kết quả hoặc biện
pháp giải quyết.
Nếu quá thời hạn nêu trên mà không nhận được thông báo của người
đứng đầu tổ chức, người có chức vụ thì cơ quan báo chí có quyền chuyển ý
kiến, kiến nghị, phê bình, khiếu nại, tố cáo của công dân đến cơ quan cấp cao
hơn có thẩm quyền giải quyết hoặc đưa vấn đề đó lên báo chí”.
Quy định như trên rất thiếu tính khả thi vì rất nhiều tổ chức, người có
chức vụ thường tỏ ra im lặng đối với vấn đề mà báo chí đề cập, đặc biệt là
những vụ việc phức tạp. Nhiều khi đã chuyển lên cấp cao hơn vẫn gặp phải
tình trạng im lặng này. Vấn đề lớn nhất ở đây là có quy định nhưng thiếu chế
tài nên các cơ quan báo chí cũng chỉ dừng lại ở bước thông tin và chấm dứt
việc thông tin này.
Ngoài ra, còn có một số vấn đề chưa được quy định hoặc quy định
thiếu cụ thể trong Luật Báo chí hiện hành:
Trước hết là những quy định liên quan đến báo điện tử.
17
Như trên đã trình bày, đến nay, cả nước có 37 báo điện tử, 160 trang
điện tử của các cơ quan báo chí, hàng ngàn trang thông tin điện tử… Bên
cạnh đó, còn có hơn 77.000 website có tên miền .vn (tên miền đăng ký ở Việt
Nam) và một số lượng lớn blog cá nhân trên website không kiểm soát được.
Nhiều website, blog không chỉ đưa lên mạng thông tin riêng của tổ chức, cá
nhân sở hữu chúng mà còn cung cấp cho người đọc tin tức từ nhiều nguồn
khác nhau và trình bày quan điểm riêng về nhiều vấn đề thời sự không khác gì
một tờ báo điện tử; thậm chí, một số website, blog còn đưa những thông tin
xấu hoặc xúc phạm danh dự của tổ chức, cá nhân. Với xu hướng hội tụ các

loại hình thông tin trên hệ thống mạng hiện nay, để xem chương trình truyền
hình, truy cập các website, blog và thụ hưởng các loại dịch vụ có nội dung
được số hóa khác, người ta chỉ cần một chiếc máy vi tính, thậm chí một máy
điện thoại di động. Hội tụ thông tin đã làm thay đổi mô hình thông tin truyền
thống và do vậy cũng đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết trong hoạt động
quản lý Nhà nước về thông tin và truyền thông.
Luật Báo chí hiện hành chưa có quy định điều chỉnh hoạt động của các
website, blog và mô hình hội tụ thông tin nói trên. Nói riêng về báo điện tử thì
nhiều quy định trong Luật cũng không áp dụng được. Ví dụ, báo điện tử
không xuất bản theo kỳ mà cập nhật tin, bài đến từng phút; khi phát hiện sai
sót, có thể chỉnh sửa hoặc tự gỡ bỏ từng phần, thậm chí gỡ bỏ cả bài ra khỏi
trang báo. Do vậy, rất khó xác định bản nào được coi là bản gốc để lưu chiểu,
lưu trữ cũng như khó có căn cứ để khởi kiện hoặc buộc cải chính khi báo có
sai phạm. Một đặc điểm đáng chú ý nữa của báo điện tử là khả năng tương tác
tức thời với độc giả. Báo có thể nhận được ngay ý kiến phản hồi đối với từng
bài báo hoặc tổ chức các diễn đàn trực tuyến, thu hút công chúng tham gia,
không bị giới hạn bởi không gian, thời gian. Bản thân các báo điện tử cũng
luôn có nguy cơ bị kẻ xấu chèn thông tin không lành mạnh, ngoài ý muốn,
làm ảnh hưởng đến uy tín của báo và gây nhiễu loạn thông tin.
3.2. Quản lý báo chí trong tình hình thực tế hiện nay
18
Xét về mặt thực tiễn, quản lý Nhà nước đối với báo chí được thể hiện
trên nhiều phương diện khác nhau tùy theo từng giai đoạn lịch sử. Song song
đó, hiệu quả của hoạt động quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này cũng được
xem xét thông qua hiệu quả tuân thủ pháp luật của nhiều đối tượng liên quan
như: Cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan chủ quản báo chí, cơ quan báo chí và
nhà báo, phóng viên. Hơn nữa, hoạt động báo chí là một loại hình hoạt động
mang tính quần chúng và tác động lên nhiều mặt của xã hội, chính vì lẽ đó để
đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với báo chí cũng cần quan tâm đến
mức độ trật tự xã hội đạt được thông qua hoạt động báo chí. Từ những yêu cầu

này, có thể thấy trên phương diện thực tiễn, quản lý Nhà nước đối với báo chí
giai đoạn hiện nay đang đặt ra sự quan tâm bức thiết với các nội dung sau:
Thứ nhất, về quy hoạch làm không liên tục, nhiều khi có tình trạng thả
lỏng. Cho đến nay, một số địa phương vẫn chưa làm xong việc quy hoạch, sắp
xếp hệ thống báo chí trên địa bàn mình. Thực tế hoạt động báo chí hiện nay
vẫn tồn tại hiện tượng vừa thừa vừa thiếu. Thừa ở chỗ có nhiều tờ báo có nội
dung gần trùng nhau, có khi chỉ đọc khoảng vài tờ báo kinh tế trong một thời
điểm, người xem sẽ thấy có nội dung gần như nhau. Còn thiếu ở chỗ, nội
dung một số mảng đề tài không được đề cập đến, nhất là mảng đề tài về các
ngành khoa học.
Thứ hai, chiến lược phát triển vẫn còn hiện tượng nhập nhằng và cố
tình vi phạm pháp luật báo chí liên quan đến đối tượng được quyền thành lập
cơ quan báo chí nhưng rất chậm xử lý và điều chỉnh. Luật Báo chí sửa đổi, bổ
sung năm 1999 quy định: “Báo chí nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội, là
cơ quan ngôn luận của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội (dưới đây gọi
chung là tổ chức), là diễn đàn của nhân dân”. Như vậy có nghĩa là chỉ cơ
quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị -
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp được thành lập cơ quan
báo chí. Tuy nhiên trên thực tế, một số cơ quan báo chí được thành lập và
19
hoạt động không đúng quy định về điều kiện thành lập cơ quan báo chí theo
Luật Báo chí hiện hành. Cụ thể:
Một số cơ quan báo chí do các doanh nghiệp Nhà nước thành lập, như
Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC thuộc Tổng Công ty Truyền thông đa
phương tiện VTC và Báo điện tử VNMedia thuộc Tập đoàn Bưu chính - Viễn
thông Việt Nam, sau một thời gian dài hoạt động mới được chuyển về trực
thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông.
Một số báo điện tử trong một thời gian dài hoạt động không có cơ
quan chủ quản như Luật Báo chí hiện hành quy định: VietNamNet,

VnExpress. Chỉ từ năm 2008, Thủ tướng Chính phủ mới quyết định giao 2
báo điện tử này cho Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ Khoa học và Công
nghệ trực tiếp quản lý.
Thứ ba, công tác quản lý, bồi dưỡng nâng cao trình độ báo chí của Bộ
Thông tin và Truyền thông vẫn còn những hạn chế như: Chưa thực hiện được
kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý chuyên sâu mảng phát thanh,
truyền hình, internet. Khối lượng công việc phải xử lý trong công tác quản lý
Nhà nước về báo chí ngày càng nhiều và phức tạp, trong khi đó đội ngũ cán
bộ quản lý còn thiếu và yếu, một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu của
công tác quản lý trong tình hình mới.
Riêng về đội ngũ phóng viên, trước xu hướng thương mại và thực dụng
hóa cuộc sống và sinh hoạt báo chí, nhiều phóng viên không được đào tạo
chính quy, kém năng lực, thiếu bản lĩnh chính trị đã dẫn đến sai phạm luật mà
điển hình trong thời gian gần đây là vụ việc ngày 14-10-2008, Tòa án Nhân dân
TP.Hà Nội tuyên phạt nhà báo Nguyễn Văn Hải và nhà báo Nguyễn Việt Chiến
của Báo Tuổi Trẻ và Báo Thanh Niên án tù và tù không giam giữ vì hành vi lợi
dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, công dân. Toà án
xác định, 2 phóng viên đã viết nhiều tin bài sai sự thật, không có căn cứ về vụ
án PMU 18 xâm phạm lợi ích Nhà nước và một số cán bộ cao cấp.
20
IV. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ BÁO CHÍ
Để góp phần khắc phục sự yếu kém về mặt quản lý nhà nước trong lĩnh
vực báo chí, chúng tôi xin nêu lên một số giải pháp sau:
4.1 Xây dựng quy hoạch phát triển báo chí phù hợp
Với phương châm “phát triển đi đôi với quản lý tốt”, Đảng và Nhà nước ta
khuyến khích sự phát triển cả về chất và lượng, không chỉ đơn thuần là tăng
về mặt số lượng mà còn phải mở rộng quy mô, phạm vi tác động và nâng cao
chất lượng thông tin. Đây là yêu cầu tất yếu trong một xã hội ngày càng phát
triển, dân trí và nhu cầu thông tin giao tiếp ngày càng tăng cao. Tuy nhiên, sự
phát triển này phải phù hợp với quy hoạch và chiến lược phát triển của Nhà

nước, tránh sự chồng chéo, bất hợp lý. Việc này đòi hỏi chúng ta phải xây
dựng chiến lược phát triển dài lâu cho ngành báo chí nước nhà thông qua việc
đánh giá đúng thực trạng và tiềm năng của báo chí Việt Nam.
4.2 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về báo chí
Chất lượng, hiệu quả quản lý xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa phụ thuộc rất nhiều vào mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật.
Vì vậy, yêu cầu về một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ trong
lĩnh vực báo chí là hết sức cần thiết.
Chúng ta cần hiểu rõ rằng hệ thống pháp luật về báo chí cần phải vừa
đảm bảo sự chặt chẽ trong quy định, chế tài, vừa đảm bảo sự thông thoáng
cho nhà báo và các cơ quan báo chí phát huy tính sáng tạo. Tránh trường hợp
như khi ra đời Nghị định 79/2013/NĐ-CP đã gây rất nhiều tranh cãi về vấn đề
cơ quan nào cũng có quyền xử phạt báo chí, nghị định này đã phá vỡ tính
thống nhất về lãnh đạo và quản lý báo chí, gây rối rắm, bất khả thi và chồng
chéo về thẩm quyền xử phạt
Qua 19 năm thi hành Luật Báo chí, một số điều quy định của Luật như
quy định về các loại hình báo chí, quảng cáo trên báo chí, lưu chiểu, cải chính
trên báo chí, tài chính báo chí đến nay đã không còn phù hợp. Vì vậy, pháp
luật báo chí cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Việc xây
21
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật báo chí cần hướng vào các nội dung
sau: Thứ nhất, cụ thể hoá, chi tiết hoá các điều khoản quy định. Thứ hai, xác
định rõ trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động báo chí. Thứ ba, rà
soát, bổ sung những vấn đề mới do thực tiễn và sự phát triển của báo chí đặt
ra. Thứ tư, bảo đảm quyền tự do báo chí của công dân.
4.3 Hoàn thiện chế độ chính sách và đầu tư thích hợp đối với lĩnh
vực báo chí
Bất cứ ngành nào, muốn có sự phát triển, bên cạnh việc định hướng
đúng, còn cần có sự đầu tư thích hợp cả về nguồn kinh phí cũng như nhân lực.
Chế độ, chính sách đối với lĩnh vực báo chí trong điều kiện phát triển kinh tế

thị trường là một vấn đề lớn cần được xem xét, giải quyết cả về lý luận và
thực tiễn. Tuy nhiên, các chế độ, chính sách đối với báo chí vẫn còn lạc hậu,
chưa theo kịp sự phát triển hoạt động báo chí. Do vậy, cần khẩn trương rà soát
để bổ sung, sửa đổi một số chính sách, chế độ báo chí như: lương báo chí,
thuế, nhuận bút, chính sách tài trợ, giá, quảng cáo. Nhà nước cũng cần có kế
hoạch khảo sát, nghiên cứu các hình thức hoạt động kinh doanh của các cơ
quan báo chí lớn để có chính sách khuyến khích các hình thức kinh doanh phù
hợp, tạo nguồn thu, tăng cường cơ sở vật chất đồng thời thực hiện đúng nghĩa
vụ với Nhà nước.
Hiện nay, Nhà nước vẫn đầu tư khá lớn cho báo chí với cơ cấu ngân
sách gồm: ngân sách nhà nước cho phát thanh, truyền hình, báo in, báo điện
tử. Trong đó, phần đầu tư cho phát thanh, truyền hình là lớn nhất do các
phương tiện trang thiết bị ban đầu rất đắt tiền. Trong tương lai, phần đầu tư
cho báo điện tử cũng đòi hỏi lượng ngân sách khá lớn. Thực tế, đa số các báo,
đài đều hoạt động dựa vào ngân sách. Nhà nước vẫn nên cấp ngân sách nhưng
cần tính toán rõ các tiêu chí: mức trợ cấp, đối tượng, thời gian, trợ cấp không
hoàn lại hoặc cho vay ban đầu với lãi suất thấp để báo chí hoạt động đúng
pháp luật, đúng định hướng, có hiệu quả. Tăng cường đầu tư cho các báo địa
phương vùng sâu, khó khăn; có chính sách để tăng cường xuất bản và phát
22
sóng thêm các đài bằng thứ tiếng của các dân tộc thiểu số để chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước đến được với đồng bào các dân tộc.
Hơn nữa, hoạt động báo chí là một nghề vất vả và nguy hiểm. Quyết
định chất lượng nội dung của một tờ báo là tổng biên tập và các nhà báo, vì
vậy, Nhà nước cũng phải tính đến chính sách, chế độ hợp lý đối với nhà báo.
4.4 Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quản lý nhà nước về báo
chí
Mỗi quốc gia có điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội khác nhau
nên có sự khác nhau trong hoạt động và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước
về báo chí. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập toàn cầu, hoạt động báo chí cần

phải đáp ứng yêu cầu thu hẹp sự khác biệt về công nghệ, trình độ nghiệp vụ
với các nước trong khu vực và thế giới.
Sự hợp tác quốc tế về quản lý báo chí phải bảo đảm vừa phát triển quan
hệ, nhanh chóng hội nhập vừa bảo đảm chủ quyền, độc lập dân tộc, bình
đẳng, các bên cùng có lợi. Trước hết, cần tổ chức thực hiện tốt các văn bản
quốc tế quan trọng có liên quan như: Công ước toàn cầu về Luật bản quyền,
Công ước Brussels về phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua
vệ tinh, Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật Chủ
động xây dựng các kế hoạch khảo sát kinh nghiệm quản lý báo chí ở một số
nước trên thế giới; tham dự các hội nghị quốc tế liên quan đến báo chí như:
Diễn đàn xã hội thông tin, Diễn đàn Liên hiệp quốc về quản lý Internet, các
hội nghị Bộ trưởng Thông tin các nước ASEAN; tham gia các hoạt động
chống khủng bố, chống tệ nạn xã hội, xoá đói giảm nghèo, vì môi trường
sống, vì hoà bình và trực tiếp tham gia vào các tổ chức báo chí khu vực và
quốc tế vì các mục đích trên.
4.5 Nâng cao chất lượng và hiệu quả bộ máy quản lý
Thứ nhất, cần xây dựng các quy định cụ thể, rõ ràng nhằm điều chỉnh
tốt hơn chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp giữa Bộ Thông tin và truyền
thông với các bộ, ngành có liên quan.
23
Thứ hai, ở địa phương, cần xây dựng các quy định mới và cụ thể hơn
để tổ chức lại bộ máy quản lý nhà nước cũng như để nâng cao vai trò của các
Sở Thông tin và truyền thông.
Thứ ba, triển khai áp dụng phương tiện kỹ thuật và công nghệ quản lý
hiện đại vào hệ thống quản lý nhà nước về báo chí. Với một đội ngũ cán bộ,
nhân viên thiếu, trình độ có hạn, đầu việc nhiều thì đẩy nhanh việc áp dụng
công nghệ thông tin, phương pháp quản lý hiện đại vào hệ thống quản lý báo
chí là việc làm cấp thiết. Điều đó vừa tinh giản được biên chế theo chủ trương
chung của Đảng, Nhà nước, vừa quán xuyến công việc một cách có hiệu quả.
Ngoài ra, về cán bộ quản lý báo chí, pháp luật cần quy định hệ thống

tiêu chuẩn chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ phù hợp với thực tiễn, bảo đảm
công tác chuyên môn của từng đối tượng. Cán bộ quản lý báo chí phải có tri
thức báo chí, tri thức về khoa học công nghệ thông tin và quản lý, tri thức
pháp luật. Cần có những quy định cụ thể về tuyển dụng cán bộ, sắp xếp và bố
trí cán bộ. Có một tình trạng tuy không phổ biến nhưng cũng cần lưu ý là các
cơ quan cấp ủy và tổ chức cấp tỉnh coi ngành nào cũng giống ngành nào, “đã
là tỉnh ủy viên thì làm gì cũng được”. Do vậy, nhiều người làm trái nghề vẫn
phải nhận vì “tổ chức phân công”. Cuối cùng, Nhà nước cần có chính sách
đào tạo và đào tạo lại những người quản lý báo chí để theo kịp tốc độ phát
triển chung của xã hội và không tụt hậu quá xa so với các nước trong khu vực
và trên thế giới.
4.6 Tăng cường thanh tra, kiểm tra
Đây là nhiệm vụ quan trọng của quản lý nhà nước về báo chí vì báo chí
có quan hệ trực tiếp tới chính trị. Báo chí không những phản ánh dư luận mà
còn tạo ra và hướng dẫn dư luận. Vì vậy, hoạt động này cần diễn ra thường
xuyên, nhanh nhạy để kịp thời ngăn chặn, xử lý những vi phạm pháp luật về
báo chí.
24
V. KẾT LUẬN
Quản lý báo chí từ trước đến nay luôn là vấn đề khó khăn đối với bất
cứ nhà nước nào trên thế giới, bởi quản lý sao cho hợp lý để vừa chặt chẽ, vừa
thông thoáng là chuyện thực sự rất phức tạp và khó khăn. Chính vì thế, công
tác quản lý báo chí đòi hỏi sự góp sức của nhiều cấp, nhiều ngành, của cả cơ
quan báo chí và các cơ quan làm nhiệm vụ quản lý báo chí, đặc biệt là vai trò
của ngành thông tin và truyền thông. Có làm tốt công tác quản lý báo chí thì
các cơ quan báo chí mới phát triển mạnh mẽ, đúng hướng, góp phần để báo
chí cách mạng phát triển không ngừng, phục vụ Tổ quốc và nhân dân ngày
một tốt hơn
25

×