Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Bản chất của phạm trù cái đẹp trong mỹ học Hy lạp - La mã cổ đại và biểu hiện của nó trong nghệ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.75 KB, 9 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bản chất của phạm trù cái đẹp trong mỹ học Hy lạp - La mã cổ
đại và biểu hiện của nó trong nghệ thuật
I. BẢN CHẤT PHẠM TRÙ CÁI ĐẸP TRONG MỸ HỌC HY LẠP
- LA MÃ CỔ ĐẠI
I.1. Đặc trưng thời đại
Vào thời kỳ Hy lạp - La mã cổ đại thương nghiệp đã xuất hiện
và phát triển, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Sự phát triển của
kinh tế đã dẫn tới sự phân hóa xã hội sâu sắc, xã hội có sự phân chia
đẳng cấp và giàu nghèo. Tư tưởng về tư hữu và chế độ tư hữu xuất
hiện, cùng với nó là sự xuất hiện của ý thức cá nhân con người trong
tư duy của người Hy lạp - La mã cổ đại.
Trong lao động đã có sự phân công rõ ràng, đó là việc thủ công
nghiệp tách khỏi nông nghiệp, lao động trí óc tách khỏi lao động
chân tay. Sự phân công trong lao động, trong đó đặc biệt là việc lao
động trí óc tách khỏi lao động chân tay đã làm xuất hiện trong xã hội
một tầng lớp chuyên lao động trong lĩnh vực tư tưởng, trí óc. Đây
chính là cơ sở xã hội cho sự ra đời của những tri thức khoa học, triết
học, mỹ học.
Ở thời Hy lạp - La mã cổ đại, mặc dù còn sơ khai nhưng các
thành tựu khoa học của toán học, vật lý học, thiên văn học… đã góp
phần không nhỏ và là cơ sở khoa học cho các triết gia, các nhà khoa
học nói riêng, và người Hy lạp - La mã cổ đại nói chung lí giải cho
các hiện tượng tự nhiên, vấn đề bản nguyên của thế giới…, đưa thế
giới quan của người Hy lạp - La mã bước ra khỏi thế giới quan thần
thoại đã tồn tại từ thời nguyên thủy.
Thời Hy lạp - La mã, nhà nước đã xuất hiện dưới hình thức các
thành bang. Mỗi thành bang chính là một thành thị, thể chế chính trị
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
theo hai dạng là cộng hòa dân chủ và cộng hòa quý tộc (tiêu biểu là


hai thành bang Spac và Aten). Với thể chế chính trị như thế đã làm
cho chế độ chiếm hữu nô lệ và bóc lột ở Hy lạp - La mã cổ đại không
đến mức quá khắc nghiệt, đồng thời tạo điều kiện cho cá nhân con
người khẳng định trí tuệ và bản lĩnh của bản thân.
I.2. Quan điểm triết học của một số triết gia tiêu biểu thời Hy
lạp - La mã cổ đại
Từ những đặc trưng thời đại nêu trên đã quy định nên một số
đặc điểm của triết học Hy lạp - La mã cổ đại như: triết học Hy lạp -
La mã cổ đại là ý thức hệ của giai cấp chủ nô; triết học thời kì này
coi trọng vấn đề con người; những tư tưởng triết học ở giai đoạn này
đều xuất hiện một cách tự phát và mang tính biện chứng sơ khai. Đại
diện cho triết học thời gian này là các triết gia như Pitago, Heraclit,
Đêmôcrit, Xôcrat, Platon, Arixtôt.
Pitago: Dựa vào các thành tựu toán học, đặc biệt là về các con
số, Pitago cho rằng bản chất của thế giới là các con số. Chính trật tự
và sự hòa điệu của các con số đã định hình nên thế giới này.
Heraclit: Được đánh giá là nhà triết học tối nghĩa trong thời đại
của mình, triết học của Heraclit mang nhiều yếu tố biện chứng và duy
vật. Trước hết ông khẳng định bản nguyên hay nguồn gốc của thế
giới này là lửa. Sự vận động của lửa tạo nên sự vật, hiện tượng trong
thế giới. Vạn vật trong thế giới này luôn không ngừng vận động như
sự vận động không ngừng chảy trôi của dòng sông. Luận điểm nổi
tiếng của ông bàn về vận động chính là “người ta không thể tắm hai
lần trên một dòng sông”.
Đêmôcrit: Là nhà triết học theo trường phái nguyên tử luận,
Đêmôcrit cho rằng khởi nguyên của thế giới là nguyên tử - vạn vật
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trong thế giới này có sự đa dạng, phong phú và khác nhau là do sự
khác nhau về hình dạng và trật tự sắp xếp của các nguyên tử.

Xôcrat: Triết học của Xôcrat được Heghen đánh giá là “một
bước ngoặt lịch sử vĩ đại”. Khác với các triết gia đi trước Xôcrat
không hướng triết học của mình vào vấn đề tự nhiên mà đi vào
nghiên cứu về vấn đề con người. Trong vấn đề con người, Xôcrat tập
trung nghiên cứu về đạo đức con người và phạm trù trung tâm của
đạo đức học Xôcrat là phạm trù đức hạnh. Đức hạnh chính là sự tự
chủ, lòng dũng cảm và sự công bằng. Như vậy đạo đức học nói riêng
và triết học nói chung của Xôcrat là một nền đạo đức học, triết học
duy lí chủ quan.
Platon: Là học trò của Xôcrat, triết học của Platon là sự kế thừa
triết học của Xôcrat theo hướng duy tâm khách quan với nền tảng là
học thuyết ý niệm. Ý niệm theo Platon là cơ sở, nguồn gốc, nguyên
mẫu của mọi sự vật cảm tính. Hay nói cách khác thế giới vạn vật
chính là cái bóng, là bản sao của thế giới ý niệm. Thế giới ý niệm tồn
tại vĩnh hằng, bất biến và là bản chất của thế giới hiện thực.
Arixtôt: Là học trò của Platon song ông lại phê phán học thuyết
ý niệm của Platon và ông đưa ra quan điểm nổi tiếng thầy rất quý
nhưng chân lý còn quý hơn cả. Ông đã xây dựng học thuyết triết học
của mình theo khuynh hướng duy vật. Trước hết Arixtôt đưa ra
thuyết bốn nguyên nhân để giải thích tồn tại. Theo ông bản chất của
sự vật nằm ngay trong chính bản thân nó. Chính vì vậy mà đối tượng
của nhận thức con người chính là thế giới hiện thực khách quan.
I.3. Quan điểm mỹ học của một số triết gia tiêu biểu thời kì Hy
lạp - La mã cổ đại
Dựa trên cơ sở triết học, mỹ học thời kì Hy lạp - La mã cũng
hình thành và phát triển cùng với triết học. Các triết gia cũng chính là
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhà mỹ học, vì vậy mà các quan điểm mỹ học của họ đều có cơ sở từ
chính hệ thống triết học của mình. Một số triết gia tiêu biểu đó là

Pitago, Heraclit, Đêmocrit, Xocrat Platon, Arixtôt.
Pitago: Xuất phát từ quan niệm về các con số và thuyết hòa
điệu, Pitago cho rằng: cái đẹp là dấu hiệu hòa điệu của sự vật. Cơ sở
của cái đẹp là tính tỉ lệ đúng đắn giữa các bộ phận. Cái đẹp là tính
hợp quy luạt của con số. Như vậy theo quan niệm của Pitago thì cái
đẹp chính là sự hòa điệu và hợp lí về tỉ lệ giữa các bộ phận.
Heraclit: Khác với Pitago, là một nhà duy vật Heraclit cho rằng
cái đẹp không có cơ sở trong các quan hệ số lượng mà nằm ngay
trong tính chất của các sự vật. Cái đẹp ở đây vừa mang tính cụ thể lại
vừa mang tính tương đối. Cái đẹp được nảy sinh trong tính thống
nhất giữa các mặt đối lập, mà cơ sở của tính thống nhất này chính là
sự hòa điệu. Với quan điểm này Heraclit đã khẳng định tính vật chất
và thống nhất giữa các mặt đối lập của cái đẹp dựa trên cảm xúc thẩm
mỹ.
Đêmôcrit: Là nhà triết học theo trường phái nguyên tử luận,
Đemocrit đã đưa ra quan điểm duy vật khách quan về cái đẹp. Theo
Đemocrit, cái đẹp có cơ sở khách quan là tính vật chất, một sự vật,
hiện tượng được coi là đẹp khi nó nằm trong một trật tự, có sự hài
hòa, cân xứng về các mặt.
Xocrat: Xuất phát từ đối tượng triết học là cái tôi đạo đức,
những quan điểm về mỹ học nói chung và phạm trù cái đẹp nói riêng
của Xocrat mang tính duy tâm chủ quan. Theo Xocrat cái đẹp ở đây
là cái đẹp tâm hồn, là sự kết hợp giữa vẻ đẹp với phẩm chất tâm hôn.
Chính vì vậy ông đòi hỏi trong nghệ thuật các nghệ sĩ phải thể hiện
được những “trạng thái của tâm hồn”. Nói cách khác cái đẹp của
Xocrat là cái đẹp đạo đức, chú trọng nội dung hơn hình thức.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Platon: Là học trò của Xocrat, triết học của Platon là sự kế thừa
triết học duy tâm của Xocrat, song khác với Xocrat, Platon đi theo

khuynh hướng khách quan. Theo Platon cái đẹp là một ý niệm tồn tại
vĩnh viễn và nguồn gốc của nó nằm trong thế giới thần linh. Đặc biệt
Platon đã đưa ra một định nghĩa về cái đẹp đó là “Cái đẹp tồn tại
vĩnh viễn, nó không tự xuất hiện, không mất đi, không tăng thêm,
không giảm đi, thậm chí nó không đẹp ở nơi đây mà lại xấu ở nơi kia,
không đẹp ở quan hệ này mà lại xấu ở điểm khác, không đẹp đối với
cái này và lại thô kệch đối với cái kia. Cái đẹp hiện ra không như một
vẻ mặt hoặc như một cánh tay, cũng không ở bất cứ phần nào của cơ
thể. Đẹp cũng không hiện ra như một lập luận hoặc như một khoa học
nào; Cái đẹp là tự nó…”. Như ta thấy với định nghĩa này của Platon
đã khẳng định quan điểm duy tâm khách quan về cái đẹp khi kéo nó
lên thế giới của thần linh, siêu hiện thực, bất biến, tồn tại vĩnh viễn
đó là cái đẹp mà “sẽ hiện ra với tất cả sự lộng lẫy của nó khi chúng ta
bước sau thần Jupiter cũng như những người khác bước sau các vị
thần khác, trong tiếng nhạc hòa tấu của thiên đình”.
Arixtot: Mặc dù là học trò của Platon song Arixtot lại phê phán
học thuyết ý niệm - một học thuyết triết học duy tâm khách quan và
xây dựng cho mình một hệ thống triết học theo khuynh hướng duy
vật. Trên nền tảng đó, Arixtot cũng đưa ra một quan niệm duy vật về
cái đẹp. Theo Arixtot thì vẻ đẹp của một sự vật, hiện tượng là một
đặc tính, một phẩm chất của chúng. Theo đó thì cái đẹp không tách
rời thực tại đẹp. Nói cách khác nguồn gốc của cái đẹp chính là từ
hiện thực khách quan và cái đẹp chỉ có thể “xác lập tính chất khách
quan trong mối tương quan của những đặc tính của vật thể với sự cảm
thụ của con người”.
5

×