SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Hướng dẫn học sinh yếu lớp 3 giải toán có lời văn
Năm học 2014 – 2015
MÃ SKKN
PHẦN THỨ NHẤT
ĐẶT VẤN ĐỀ
- Trong chương trình toán ở tiểu học, việc giải các bài toán chiếm một vị trí rất
quan trọng, các khái niệm toán học, các quy tắc toán học đều được giảng dạy thông qua
giải toán. Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng các kiến thức, rèn luyện kĩ năng
tính toán. Đồng thời, qua việc giải toán cho học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát
hiện những mặt mạnh, mặt yếu của từng em về kiến thức, kĩ năng và tư duy để từ đó giúp
học sinh phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong học tập.
Qua dạy học lớp 3, tôi nhận thấy: Trên thực tế, từng lớp, từng trường đều có một
số em giỏi toán và một số em kém toán. Những em giỏi thì say mê học tập, những em yếu
kém thì lười học, sợ học và chán học.
Vậy làm thế nào, để đảm bảo chất lượng học tập của các em trong một lớp, làm thế
nào để giúp học sinh yếu học tập tốt hơn, đảm bảo yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng môn
Toán nói chung và nội dung giải toán có lời văn nói riêng? Tôi đã chọn đề tài: "Hướng
dẫn học sinh yếu lớp 3 giải toán có lời văn” để nghiên cứu thực hiện.
PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở khoa học
- Toán học có vị trí rất quan trọng, phù hợp với cuộc sống thực tiễn đó cũng là
công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp học sinh nhận thức thế giới xung
quanh, để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn.
- Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, nó có khả năng phát triển tư
duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy
nghĩ, phương pháp giải quyết vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có
nhiều tác dụng phát triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt góp phần
giáo dục sự nhẫn nại, ý chí vượt khó khăn.
- Từ vị trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của môn toán, vấn đề đặt ra cho người
dạy là làm thế nào để giờ dạy - học toán có hiệu quả cao, học sinh được phát triển tính
tích cực, chủ động sáng tạo trong việc tiếp thu kiến thức toán học. Vậy giáo viên phải có
phương pháp dạy học như thế nào để truyền đạt kiến thức và khả năng học bộ môn này
tới học sinh tiểu học?
- Đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học là dễ nhớ nhưng mau quên, sự tập trung
chú ý trong giờ học toán chưa cao, trí nhớ chưa bền vững thích học nhưng chóng chán. Vì
vậy giáo viên phải làm thế nào để khắc sâu kiến thức cho học sinh và tạo ra tâm thế sẵn
sàng học tập, chủ động tích cực trong việc tiếp thu kiến thức.
- Hiện nay, toàn ngành giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng đang
thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của
học sinh làm cho hoạt động dạy trên lớp "nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả". Để đạt được
yêu cầu đó giáo viên phải có phương pháp và hình thức dạy học để nâng cao hiệu quả cho
học sinh, vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi tiểu học và trình độ nhận
thức của học sinh để phù hợp với công cuộc đổi mới giáo dục của đất nước nói chung và
của ngành giáo dục tiểu học nói riêng.
- Trong chương trình môn toán tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan
trọng. Thông qua việc giải toán, các em thấy được nhiều khái niệm toán học như các số,
các phép tính, các đại lượng, các yếu tố hình học đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện
thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được mối quan hệ giữa các sự kiện,
giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc giải toán rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy
và những đức tính của con người mới. Có ý thức vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, làm
việc có kế hoạch, thói quen xét đoán có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc
mình làm có suy nghĩ độc lập, sáng tạo, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện
kỹ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo
viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng,
tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục những mặt thiếu sót.
2. Thực trạng
- Trên thực tế, học sinh yếu kém rất ngại làm bài, sợ giải toán vì khả năng tư duy
“phân tích, tổng hợp” của các em có nhiều hạn chế.
Với thực tế học sinh lớp tôi, trường tôi, còn có một số em giải toán có lời văn thiếu chính
xác, chưa đúng, tính toán còn sai, nhiều khi làm bài chưa có kỹ năng phán đoán, suy luận,
không biết làm thế nào ? Các em rất sợ học. Mà môn toán là môn "Thể thao trí tuệ" vừa
giúp các em giải trí tinh thần, vừa giúp việc dạy tốt môn toán là điều cần thiết mà giáo
viên cần quan tâm, trong đó "cách giải toán" là chú trọng trong chương trình toán 3.
* Về phía giáo viên
- Đã tôn trọng chương trình, bám sát chương trình sách giáo khoa, bám chuẩn nhưng
không rõ chuẩn có phù hợp với học sinh của mình hay không.
- Dạy cả ngày, thời gian đầu tư, nghiên cứu, học hỏi, nâng cao trình độ còn hạn chế,
giảng mãi, nói mãi mà học sinh vẫn chưa hiểu, chưa có ý thức học tập khiến giáo viên có
chút mệt mỏi, nản chí.
- Có tự học và tự bồi dưỡng nhưng nhiều khi còn chưa rõ mình học nhằm mục đích gì.
- Đã dạy phân hoá đối tượng sinh nhưng chưa triệt để, chưa thường xuyên, nhiều lúc chỉ
tập trung bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Thời gian dành riêng cho học sinh yếu chưa nhiều.
- Đã thành lập những đôi bạn cùng tiến, giáo dục cho các em ý thức đoàn kết, giúp đỡ bạn
nhưng không phải học sinh nào cũng muốn dành thời gian để hướng dẫn bạn mình học.
* Về phía học sinh
- Những học sinh giỏi thì hăng hái học hỏi, chỉ muốn cô giao thêm bài tập để giải toán
với mong muốn luyện tập những kiến thức đã học.
- Những học sinh đã học yếu thì lại lười học, ngại học, ngại giải toán, ngại tiếp xúc với
những bài toán nâng cao, những bài toán có lời văn có nhiều cách giải, những bài toán
nhiều phép tính. Chỉ hoàn thành bài tập sách giáo khoa, bài tập trong vở bài tập đã là một
việc quá lớn đối với các em.
- Học sinh yếu nghe cô giảng mãi mà vẫn chưa hiểu, gây nên tình trạng mất tập trung
trong giờ học, muốn nghĩ đến việc khác thay vì chú ý nghe cô giảng bài.
- Gia đình một số em chưa thực sự quan tâm đến việc học của con, con còn phải làm việc
nhà, còn chưa có thời gian dành cho việc học.
- Ý thức học tập của một số học sinh chưa cao, các em chưa chịu đào sâu suy nghĩ, chưa
chịu học hỏi bàn bè, chưa thực sự cầu tiến
II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Điều tra phân loại học sinh yếu kém toán ở lớp
a. Ra đề khảo sát
Căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng môn toán lớp 2, ngay từ đầu năm học lớp 3, tôi tiến
hành khảo sát chất lượng học sinh lớp của mình (38 em) và thu được kết quả như sau:
Hoàn thành Chưa hoàn thành
28 em = 73,7% 10 em = 26,3%
Còn 10 em học sinh chưa hoàn thành là
01. Hoàng Văn Quyền
02. Uông Văn Duy
03. Lê Khắc Khánh Duy
04. Nguyễn Thị Diệu Ly
05. Lê Trọng Hiếu
06. Lê Đăng Phiêu
07. Lê Thị Hoàn
08. Lê Thị Hà
09. Nguyễn Việt Hoàng
10. Lê Thị Lan
b. Nguyên nhân
- Qua điều tra, tìm hiểu tôi thấy các em chưa hoàn thành chủ yếu là do những nguyên
nhân sau:
* Phía gia đình:
- Do các gia đình một số em học sinh còn bận lo buôn bán từ sáng tới tối, nên ít có thời
gian chăm sóc, kèm cặp các em học thêm ở nhà. Một số gia đình khác thì bố mẹ lại chưa
quan tâm đúng mức tới việc học tập của các em, chủ yếu trông chờ vào nhà trường.
* Phía giáo viên:
- Phương pháp dạy học còn áp dụng chung cho học sinh đại trà, chưa phù hợp với nhận
thức chậm của các em, chưa dành nhiều thời gian để phụ đạo cho các em.
* Bản thân học sinh
Ở mỗi học sinh yếu bộ môn Toán đều có nguyên nhân riêng, rất đa dạng. Có thể chia ra
một số loại thường gặp là:
* Loại 1. Do quên kiến thức cơ bản, kỹ năng tính toán yếu.
* Loại 2. Do chưa nắm được phương pháp học môn Toán, năng lực tư duy bị hạn
chế.
* Loại 3. Do lười học, chưa tự giác làm bài, chưa chịu hỏi bạn hỏi cô, còn sợ làm
toán.
* Loại 4. Do thiếu điều kiện học tập hoặc do điều kiện khách quan tác động - học
sinh có hoàn cảnh đặc biệt (gia đình xảy ra sự cố đột ngột, hoàn cảnh éo le…).
2. Phân loại đối tượng học sinh yếu
- Lớp tôi có em Quyền, Duy, Ly, là những em giải toán còn yếu. Các em thường
sợ làm loại toán có lời văn và có nhiều phép tính vì thường trả lời sai, làm tính không
đúng, chưa xác định được đơn vị, chưa biết cách tóm tắt bài toán dẫn đến không xác định
được dạng toán.
3. Nghiên cứu nội dung chương trình toán có lời văn dạy ở tiểu học
Tôi đã nghiên cứu toàn bộ chương trình toán có lời văn từ lớp 1 đến lớp 5, bám sát theo
chuẩn kiến thức kĩ năng và thấy nội dung toán có lời văn được sắp xếp theo vòng tròn
đồng tâm, căn cứ vào kiến thức đã học ở lớp dưới, lên các lớp trên thì mở rộng, nâng cao.
a) Ở lớp một: Các em đã học các bài toán đơn giản, giải bằng 1 phép tính về thêm
bớt nhiều hơn 1 số đơn vị.
Loại toán này đơn giản. Nhưng cũng phải củng cố cho các em nắm vững thì mới làm
được các bài toán ở lớp trên.
Ví dụ:
- Trang gấp được 3 cái thuyền, Nam gấp được nhiều hơn Trang 3cái. Hỏi Nam gấp được
mấy cái thuyền?
- Tùng làm được 4 bài toán, Cúc làm được 6 bài toán. Hỏi ai làm được nhiều hơn và
nhiều hơn bao nhiêu bài toán?
Nhất là các bài toán có dữ kiện cụ thể, các em cần suy nghĩ làm tính cộng hay tính trừ là
đúng và chú ý dựa vào câu hỏi mà trả lời cho đúng.
b) Ở lớp hai: Các em được ôn lại các dạng toán lớp 1 và luyện thêm
- Bài toán về nhiều hơn
- Bài toán về ít hơn
Đây là dạng toán tổng hợp giải bằng 2 phép tính. Tôi cho các em chưa hoàn thành ôn
luyện các dạng toán này với các số trong phạm vi 100, giúp các em hiểu mối quan hệ
giữa các đối tượng với các dữ kiện đơn giản của bài toán. Từ đó hình thành tư duy toán
cho học sinh, giúp các em phân tích, tổng hợp, giải được các dạng toán nhanh, chính xác.
Bước đầu có kỹ năng trình bày bài toán.
c) Ở lớp ba
- Ôn tập bài toán về nhiều hơn (ít hơn)
- Gấp 1 số lên nhiều lần
- Giảm 1 số đi nhiều lần
- Tìm 1 phần mấy của một số
- Giải toán tổng hợp bằng 2 phép nhân chia có liên quan rút về đơn vị.
- Giải bài toán tổng hợp bằng 2 phép chia có liên quan đến rút về đơn vị
- Các bài toán có nội dung hình học.
d) Ở lớp 4.
- Tiếp tục giải toán liên quan đến rút về đơn vị
- Giải toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu
- Tìm hai số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số
- Tìm phân số của một số
- Các bài toán có nội dung hình học
e) Ở lớp 5.
- Ôn tập về giải toán liên qua đến rút về đơn vị, toán tổng - hiệu, tổng - tỉ
- Giải toán về quan hệ tỉ lệ
- Toán về tỉ số phần trăm
- Toán chuyển động đều
- Các bài toán có nội dung hình học
4. Khắc phục những sai sót thường gặp của học sinh
- Với đối tượng loại 1:
Vì kiến thức ở lớp dưới của các em bị hổng, không thể nào bù đắp ngay được trong một
thời gian ngắn. Tôi đặt quyết tâm trong suốt cả năm học, đặc biệt là học kì I để giúp
nhóm học sinh loại này lấp dần các lỗ hổng kiến thức. Đối với những học sinh này phải
có thêm thời gian học dưới sự hướng dẫn lại tỉ mỉ những kiến thức cơ bản, trọng tâm theo
một hệ thống riêng và yếu tố dẫn đến thành công là nắm chắc, luyện kĩ. Trong các buổi
học trên lớp thường được kiểm tra, rà soát và củng cố các kiến thức, nhận xét ngay trong
tiết luyện tập, thường xuyên khích lệ động viên mỗi khi các em hoàn thành tốt bài học,
kiểm tra. Điều này sẽ làm các học sinh này có nhiều tiến bộ. Cụ thể là: thích học toán,
hay xung phong lên bảng…
- Những học sinh chưa biết trình bày câu trả lời, đáp số, tôi hướng dẫn các em dựa vào
câu hỏi, quy ước với các em hỏi gì trả lời đấy, bỏ từ “hỏi”, bỏ từ “bao nhiêu” thêm từ
“là”
VD: Hỏi lớp 3C có bao nhiêu học sinh?
Trả lời: Lớp 3C có số học sinh là
Khi các em đã biết trả lời, có thể hướng dẫn, ngoài cách trả lời đó, có thể đưa từ “số” lên
đầu câu trả lời “Số học sinh của lớp 3C là”. Sau khi viết phép tính thì xuống dòng viết
“đáp số” rồi viết dấu hai chấm rồi mới đến kết quả của bài toán. Đơn vị ở câu trả lời thì
cho trong ngoặc đơn, ở đáp số thì không cần ngoặc đơn nhưng phải đầy đủ.
VD:
Mẹ mua số quả cam là:
24 + 3 = 27(quả)
Đáp số: 27 quả cam
- Những học sinh còn nhầm lẫn trong tính toán, tôi yêu cầu các em học thật kĩ để thuộc
bằng được bảng nhân - chia, bảng cộng - trừ, nhắc nhở các em thường xuyên, tỉ mỉ, nhẹ
nhàng, đặc biệt không gây áp lực cho các em.
- Tôi kiểm tra lại kiến thức của các em sau một thời gian nhất định
- Với đối tượng loại 2:
Vấn đề cơ bản là giúp các em lấy lại lòng tự tin, phát huy được những tố chất cơ
bản đang tiềm ẩn trong mỗi em trong việc học tập môn Toán. Phương pháp trực quan, hệ
thống các bài tập từ dễ đến khó, tìm các cách giải khác nhau cùng với các câu hỏi vừa
sức, các bài toán vui, các bài toán gắn với thực tế chính là chìa khoá để giải quyết vấn đề.
- Với đối tượng loại 3:
Những học sinh này trong lớp thường không chú ý nghe giảng, mỗi khi làm bài
kiểm tra tại lớp thường cẩu thả, không có ý thức kiểm tra lại bài làm. Cô giáo nhắc nhở
thì xem lại qua loa cho xong chuyện. Bài tập và bài học ở nhà không chuẩn bị chu đáo
trước khi đến lớp. Tóm lại, đối với diện học sinh này cần có sự kết hợp chặt chẽ với phụ
huynh nhằm quản lý việc học ở nhà và việc kiểm tra nhắc nhở thường xuyên ở lớp để
từng bước đưa các em vào nền nếp học tập.
- Với đối tượng loại 4:
Các em này thiếu thốn cả vật chất lẫn tình cảm. Tôi bố trí thời gian kèm cặp, lấp
dần lỗ hổng kiến thức, hình thành dần phương pháp học toán cho các em. Luôn khích lệ
động viên để các em không bị mặc cảm, tự ti mà tự tin vào bản thân mình để từ đó vươn
lên trong học tập. Với các em này, cô giáo phải hết lòng thương yêu, giúp đỡ. Cô là chỗ
dựa tinh thần và tình cảm của các em. Sự tiến bộ của các em chính là phần thưởng vô giá
đối với người giáo viên chủ nhiệm.
5. Cụ thể hoá các phương pháp giải toán
5.1. Xác định phép tính phù hợp với yêu cầu của đề bài
Vì có những em nhiều khi cách giải đúng nhưng tính toán sai dẫn đến kết quả bài toán
sai. Vậy giáo viên phải nhắc nhở học sinh khi làm bài phải tính toán chính xác, trình bày
khoa học rõ ràng. Nếu là phép +, -, x, : trong bảng, phải học thuộc để vận dụng nhanh.
Nếu là các phép +, -, x, : ngoài bảng các em phải đặt tính cột dọc ra giấy nháp.
Với các yêu cầu giải toán thông thường, tôi quy ước với học sinh như sau
- Nhiều hơn: làm phép cộng
- Ít hơn: làm phép trừ
- Gấp 1 số lần: làm phép nhân
- Kém 1 số lần: làm phép chia
- Hỏi tất cả (cả hai) : làm phép cộng
- Hỏi còn lại : làm phép trừ
Ví dụ: Nam có 10 nhãn vở, Bắc có 20 nhãn vở. Hỏi cả hai bạn có bao nhiêu nhãn
vở?
Bài giải
Cả hai bạn có số nhãn vở là:
10 + 20 = 30 (nhãn vở)
Đáp số: 30 nhãn vở
Giáo viên phải nhấn mạnh cho học sinh sau một lời giải là 1 phép tính. Có bao nhiêu câu
hỏi có bấy nhiêu đáp số (chú ý cả tên đơn vị).
Sau khi học sinh đã thành thạo cách giải đối với các bài toán thông thường, tôi lựa chọn
một vài dạng toán tiêu biểu để mở rộng và phát triển tư duy của học sinh.
- Có từ ít hơn: làm tính cộng.
VD: Tùng có 12 cái kẹo, Tùng có ít hơn Quỳnh 3 cái kẹo. Hỏi Quỳnh có bao nhiêu cái
kẹo?
Số kẹo của Quỳnh là
12 + 3 = 15(cái)
Đáp số: 15 cái kẹo
- Có từ nhiều hơn: làm tính trừ
VD: Khải mua 15 ki - lô - gam chè, Khải mua nhiều hơn Xuân 5 ki - lô- gam. Hỏi Xuân
mua bao nhiêu ki- lô - gam chè? (15 -5)
- Có từ gấp: làm tính chia
VD: Thuỷ được 60 hoa điểm 10, số hoa điểm 10 của Thuỷ gấp 3 lần số hoa điểm 10 của
Huyền. Hỏi Huyền được bao nhiêu hoa điểm 10? (60:3)
- Có từ kém: làm tính nhân
VD: Thuỷ có 10 qua tính, số que tính của Thuỷ kém của Hà 3 lần. Hỏi Hà có bao nhiêu
que tính?
Giải
Số que tính của Hà là:
30 : 3 = 10 (que tính)
Đáp số: 10 que tính
Với biện pháp này, các em được nâng cao trình độ tư duy lên 1 bước. Từ đó các em chọn
cách giải đúng, chính xác để hình thành kỹ năng giải toán có lời văn rõ ràng, chính xác.
5. 2. Hướng dẫn học sinh các bước giải toán
Bước này tuy đơn giản nhưng tương đối khó với học sinh. Đó là lời văn ngắn gọn,
chính xác, đúng nội dung bài để trả lời (phép tính tìm gì?) theo thứ tự:
- Loại toán đơn: Lời giải - phép tính - đáp số.
- Loại toán hợp: Lời giải - phép tính - lời giải - phép tính - đáp số.
* Trước tiên phải hướng dẫn học sinh tóm tắt đầu bài.
Giáo viên đưa ra 1 số câu hỏi đàm thoại gợi ý học sinh yếu, trung bình suy đoán, lựa chọn
cách giải đúng.
Ví dụ: Có 70 thếp giấy gói đều thành 7 bọc. Hỏi có 100 thếp giấy sẽ gói đều được bao
nhiêu bọc?
Gợi ý: - Bài toán cho biết gì?
- Bài toán hỏi gì?
Tóm tắt:
70 thếp giấy: 7 bọc giấy
100 thếp giấy: …? bọc giấy
5.3. Xác định dạng toán
- Hướng dẫn học sinh xác định dạng toán bằng các câu hỏi:
Với dạng toán liên quan đến rút về đơn vị
+ Bài toán có mấy đơn vị, là những đơn vị nào?
+ Đơn vị nào đã biết hai giá trị? Đơn vị nào biết một giá trị, còn phải tìm một giá trị?
+ Bài toán như vậy thuộc dạng toán nào?
5.4. Tìm cách giải và trình bày bài giải
- Giáo viên đưa ra những câu hỏi phân tích ngược từ cuối lên để hướng dẫn học
sinh tìm được cách giải đúng cho bài toán.
VD: - Muốn biết 100 thếp giấy gói đều được bao nhiêu bọc thì phải biết gì? (phải biết
mỗi bọc có bao nhiêu thếp giấy)
- Muốn biết mỗi bọc có mấy thếp giấy làm thế nào? (lấy số thếp giấy chia cho số bọc đã
gói)
- Để tìm số bọc giấy gói được từ 100 thếp giấy làm thế nào? (lấy 100 thếp chia cho số
thếp của một bọc)
Bài giải
Số thếp giấy của một bọc là:
70 : 7 = 10 (thếp giấy)
100 thếp giấy gói đều được số bọc là:
100 : 10 = 10 (bọc giấy)
Đáp số: 10 bọc giấy
Lưu ý: - Đây là bài toán hợp giải bằng 2 phép chia. Tên đơn vị của 2 phép tính
khác nhau, phép tính trên có đơn vị của đại lượng 1, phép tính dưới có tên đơn vị của đại
lượng 2 (đại lượng phải đi tìm. Chính là đáp số bài toán).
- Khi viết câu trả lời, các đơn vị đo lường không được viết tắt
VD: Không viết “kg” mà phải viết “ki - lô- gam”
6. Giúp học sinh tìm nhiều cách giải để tìm cách giải hợp lý nhất, ngắn gọn
nhất, tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy toán
Bước này đối với học sinh yếu, kém, trung bình giải toán là khó khăn. Song người giáo
viên phải hướng dẫn gợi mở, giúp học sinh thể hiện được khả năng giải toán của mình là
cần thiết.
Ví dụ: Thắng cắt được 12 lá cờ. Toàn cắt được số lá cờ nhiều gấp đôi Thắng. Hỏi 2 bạn
cắt được bao nhiêu lá cờ?
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đầu bài toán. Tóm tắt đầu bài bằng cách vẽ sơ
đồ đo ạn thẳng (nếu vẽ được) để tìm ra cách giải đúng, và nhiều cách khác.
Tóm tắt
Thắng cắt: 12 lá cờ
Toàn : Gấp đôi (gấp 2)
Hai bạn: lá cờ?
Giải
Cách 1: Số lá cờ bạn Toàn cắt được là :
12 x 2 = 24 (lá cờ)
Số lá cờ 2 bạn cắt được là :
12 + 24 = 36 (lá cờ)
Đáp số : 36 lá cờ
Các em có thể tìm cách giải khác
Cách 2. Số lá cờ 2 bạn cắt được là:
12 x 2 + 12 = 36 (lá cờ)
Đáp số: 36 lá cờ
- Giáo viên giải thích cho học sinh hiểu: Thực ra cách 2 này chính là cách giải
gộp 2 phép tính của cách 1 mà thôi. Sau đó giáo viên gợi ý quan sát sơ đồ tìm cách giải
khác: Giáo viên cho học sinh nhận xét.
Số lá cờ của Thắng được biểu thị mấy đoạn thẳng? (1 đoạn thẳng)
Số lá cờ của Toàn biểu thị mấy đoạn thẳng? (2 đoạn thẳng)
Số lá cờ của 2 bạn biểu thị mấy đoạn thẳng? (3 đoạn thẳng)
Vậy nhìn vào sơ đồ em hãy tìm cách giải:
Giải
Số đoạn thẳng biểu thị số cờ của Toàn, Thắng cắt được là:
1 + 2 = 3 (đoạn thẳng)
Số lá cờ của 2 bạn Toàn, Thắng cắt là:
12 x 3 = 36 (lá cờ)
Đáp số: 36 lá cờ
- Các em phải chú ý tên đơn vị của mỗi phép tính, làm bài ra giấy nháp cẩn thận,
kiểm tra kết quả, đúng mới viết vào bài làm. Cần rèn luyện kỹ năng tính nhẩm, tính viết
thành thạo cho học sinh trong quá trình giải toán, để hoàn thiện bài giải.
- Về nhà, tôi yêu cầu các em làm lại bài toán vừa giải ở lớp để các em yếu kém
nắm vững cách giải, lần sau gặp loại bài như thế là làm được ngay. Tôi còn yêu cầu phụ
huynh kết hợp chặt chẽ với giáo viên, có trách nhiệm hướng dẫn con học ở nhà giúp các
em làm đầy đủ bài tập trong chương trình. Ngoài ra, tôi còn giao cho những em giỏi toán
ở lớp mỗi em giỏi giúp một em kém. Lập thành đôi bạn cùng tiến bằng cách: Giờ truy bài
kiểm tra bài làm của bạn. Nếu bạn giải sai thì hướng dẫn giải lại cho bạn nắm được
phương pháp giải toán.
Từ đó học sinh tìm được triệt để số cách giải một bài toán. Học sinh nắm chắc đề toán,
hiểu kỹ đề, để tìm nhiều cách giải khác có lời văn chính xác, phát triển tư duy toàn diện.
Kết hợp giải toán với rèn luyện kỹ năng tính toán giúp học sinh giải toán đúng, tránh
nhầm lẫn khi thực hiện phép tính.
7. Tăng cường kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, động viên, khuyến khích các
em kịp thời
- Với học sinh yếu, các em thường có tâm lý chán học, tự ti, không mạnh dạn, tự tin
khi được cô hỏi bài hay hướng dẫn làm bài nhưng nếu các em được động viên, khuyến
khích kịp thời, được nghe những lời khen từ phía cô giáo như “dạo này em có nhiều tiến
bộ đấy, em cố gắng lên, nếu cứ đà này, em chăm học hơn một chút nữa, cô tin rằng em sẽ
nắm được cách giải các bài toán, theo kịp chương trình, theo kịp các bạn” các em sẽ tự tin
hơn, không ngần ngại khi đối mặt với các bài toán, không e ngại khi nêu ý kiến của mình
với cô, với bạn và sẽ mau chóng tiến bộ.
III. KẾT QUẢ
- Trong những năm qua, tôi đã ứng dụng các biện pháp nói trên giúp học sinh yếu,
trung bình giải toán có nhiều tiến bộ rõ rệt. Các em từ chỗ sợ học toán, ngại giải toán đến
chỗ các em không ngại nữa mà lại thích giải toán để khẳng định khả năng chính mình.
- Đầu năm học 2014 - 2015, lớp tôi có những em chưa hoàn thành môn toán như
em: Quyền, Duy, Lan, Hà Đến nay, các em đã có khả năng phân tích, tổng hợp để tìm
ra cách giải toán và có nhiều tiến bộ đáng kể. Điểm kiểm tra giữa học kỳ và cuối học kỳ
đã đạt kết quả đáng khích lệ. (Bảng kết quả như sau):
Tên học sinh Điểm
Đầu năm Cuối HK1 Cuối KH2
Hoàng Văn Quyền 4 6 7
Uông Văn Duy 4 6 7
Lê Khắc Khánh Duy 3 5 6
Nguyễn Thị Diệu Ly 3 6 6
Lê Trọng Hiếu 3 5 7
Lê Đăng Phiêu 4 5 6
Tên học sinh Điểm
Đầu năm Cuối HK1 Cuối KH2
Lê Thị Hoàn 3 4 5
Lê Thị Hà 3 4 6
Nguyễn Việt Hoàng 4 4 6
Lê Thị Lan 3 3 5
Lớp 3B (sĩ số 38)
Xếp loại Hoàn thành Chưa hoàn thành
Đầu năm 28 em = 73,7% 10 em = 26,3%
Cuối HK1 34 em = 89,5% 4 em = 10,5%
Cuối HK2 38 em = 100%
- Những con số trên để thể hiện phần nào áp dụng kinh nghiệm của tôi trong việc
bồi dưỡng học sinh yếu giải toán có lời văn đã có hiệu quả.
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Qua nghiên cứu, áp dụng sáng kiến, tôi rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
* Đối với Cán bộ quản lý và Tổ trưởng:
- Rà soát, phân loại đối tượng học sinh.
- Họp phụ huynh học sinh yếu và giáo viên chủ nhiệm các lớp có học sinh yếu.
- Giao trách nhiệm cho giáo viên chủ nhiệm, phối hợp với tổ chuyên môn, gia đình
học sinh và các tổ chức xã hội ở địa phương tìm biện pháp kèm cặp, giúp đỡ từng em.
- Ban giám hiệu khảo sát chất lượng học sinh yếu mỗi tháng một lần, nhận xét, giao
nhiệm vụ cho giáo viên trong tháng tới.
- Kiểm tra, kí duyệt chương trình dạy của giáo viên, đặc biệt quan tâm đến phần kiến
thức dành cho học sinh yếu kém.
- Động viên, khen thưởng kịp thời những cá nhân đạt thành tích tốt trong công tác
phụ đạo học sinh.
* Đối với giáo viên:
- Báo cáo tình hình học sinh yếu với tổ chuyên môn.
- Bố trí sắp xếp chỗ ngồi thuận lợi cho học sinh yếu.
- Xây dựng kế hoạch phụ đạo học sinh trong sổ chủ nhiệm, có bài tập dành riêng cho
học sinh, thể hiện cụ thể trong giáo án.
- Sáng tạo, tận tụy trong giảng dạy, nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, tận tuỵ dạy dỗ các
em
- Giáo viên chủ nhiệm kèm cặp phụ đạo các em ngay trong từng tiết học cụ thể là:
+ Có bài tập dành riêng cho học sinh yếu kém
+ Giúp đỡ các em giải quyết về mặt kiến thức, về bài tập trong tiết tự học hoặc tiết
luyện tập buổi chiều.
+ Đối với học sinh yếu mảng kiến thức nào, tăng cường phụ đạo cho các em phần
kiến thức đó trong tất cả các môn học.
+ Học sinh yếu môn Toán, giáo viên kèm cặp các em từ phép cộng trừ trước rồi
nhân chia sau. Nhất là đối với các bài toán có lời văn, giáo viên cần hướng dẫn các em
giải, trả lời nhiều lần. (Đầu giờ buổi chiều tăng cường kiểm tra lý thuyết).
+ Thường xuyên báo cáo tình hình của học sinh với tổ vào các buổi sinh hoạt tổ
chuyên môn để bàn biện pháp giúp đỡ và lựa chọn nội dung giảng dạy phù hợp.
- Thường xuyên trao đổi tình hình học tập của học sinh cũng như nội dung, biện
pháp kèm cặp ở nhà với cha mẹ các em.
* Đối với học sinh
- Tích cực học tập, trong lớp chú ý lắng nghe cô giáo, thầy giáo giảng bài, bằng
mọi cách hoàn thành bài tập ở lớp và vở bài tập toán theo chuẩn.
- Tự giác học bài, làm bài trước khi đến lớp, không hiểu chỗ nào thì hỏi thầy, hỏi
bạn.
- Cố gắng học thuộc những kết luận, những ghi nhớ của dạng toán có lời văn.
- Học thuộc bảng cộng, bảng trừ, bảng nhân, chia trong chương trình.
- Trước khi làm bài vào vở phải làm ra vở nháp cho kĩ lưỡng, chính xác mới làm
vào vở.
PHẦN THỨ BA
KẾT LUẬN
- Trong hoạt động dạy học, người giáo viên đóng vai trò chủ đạo tác động sư phạm
lên hoạt động nhận thức của học sinh. Để thực hiện tốt hoạt động dạy của mình, người
giáo viên cần sử dụng tốt các phương pháp dạy học nhằm truyền thụ kiến thức, hình
thành kỹ năng cho học sinh. Đối với hoạt động của học sinh, chúng ta thấy học sinh
không chỉ là đối tượng tác động sư phạm của người giáo viên mà còn là chủ thể của hoạt
động nhận thức. Người học sinh chủ động tiếp thu kiến thức, rèn kỹ năng mà giáo viên
truyền thụ cho. Chính vì vậy, trong học tập, không ai có thể thay thế người khác. Chỉ khi
chủ thể chủ động nhận thức thì hoạt động dạy của giáo viên mới có hiệu quả và hoạt động
học tập mới có ý nghĩa.
- Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc "Hướng dẫn học sinh yếu
lớp 3 giải toán có lời văn”. Trong thực tế giảng dạy, mỗi người đều có suy nghĩ, kinh
nghiệm, bí quyết nghề nghiệp riêng của mình nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao chất
lượng dạy học. Có lẽ đề tài của tôi còn nhiều thiếu sót và hạn chế, tôi mong được các cấp
trên cùng các bạn đồng nghiệp góp ý kiến bổ sung để kinh nghiệm dạy học của tôi thêm
phong phú, hoàn thiện góp phần nhỏ bé đưa sự nghiệp giáo dục phát triển.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngày tháng năm 2015