Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Tìm hiểu một số kiểu câu liên quan đến tồn tại trong tiếng Việt - từ góc độ ngữ nghĩa và ngữ dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.95 KB, 59 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tìm hiểu một số kiểu câu liên quan đến tồn tại trong tiếng Việt - từ góc độ
ngữ nghĩa và ngữ dụng
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đối tượng nghiên cứu, lý do chọn đề tài
Từ lâu, các nhà Việt ngữ học trong và ngoài nước đã chú ý tới những kiểu
câu kiểu sau đây trong tiếng việt.
(1). Trên bàn có một lọ hoa.
(2). Dưới suối nhởn nhơ bơi những con cá bạc.
(3). Từ đằng xa, tiến lại một người con gái.
(4). Trên xe, chễm chệ ngồi một người to béo.
(5). Ngã bố, con! Cháy rừng U Minh Thượng rôi!
(6). Đông người quá! Nhiều muỗi ghê!…
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi trong bản khoá luận này là một số
kiểu câu nằm trong phạm vi đó. Cụ thể là, chúng tôi sẽ khảo sát bốn kiểu câu sau
đây, tồn tại với tính cách là những câu tách biệt, hoạt động trong các văn bản
trong giao tiếp.
Nhóm thứ nhất là những câu đã được thừa nhận là những câu tồn tại điển
hình, mà mô hình phổ biến nhất là: thành phần chỉ vị trí không gian + vị từ tồn
tại “có”+ phần danh chỉ đối tượng tồn tại.
Ví dụ:
Ngày xưa, ở làng nọ có một quả núi cao.
Trên núi có một cái hang
Trước cửa hang có một tảng đá hình con thỏ.
[Thỏ ngọc, NXB Kim Đồng, 1982]
Nhóm thứ hai là những câu có mô hình: thành phần có ý nghĩa không gian
có giới từ: Từ + cụm vị từ (liên quan tới sự vận động hoặc hàm ẩn sự vận động
trong không gian theo một cách nào đó, sự thay đổi vị trí theo một hướng nhất
định) + phần danh.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Ví dụ:
Từ đằng xa, tiến lại một người con gái.
Từ trong, lù lù đi ra hai cái bóng vệ quốc quân với mũ ca nô và aó trấn
thủ.
Cùng lúc ấy lạch phạch chạy tới một chiếc bình bịch nhỏ.
Từ trong quả thị chui ra một cô gái.
Nhóm thứ ba là những câu có mô hình : thành phần chỉ không gian + vị
từ + phần danh, miêu tả một sự tình ở một phạm vi không gian cố định.
Ví dụ:
Dưới suối lững lờ bơi mấy con cá nhỏ
Trước mặt chúng tôi sừng sừng một vách đá cheo leo
Trên xe ngồi chễm chệ một bà to béo.
Nhóm thứ tư là những câu có mô hình: vị từ + danh từ, gắn với những sự
tình, những biến cố ngoài kiểm tra, thường có khả năng hoạt động như những
cảnh báo, ngăn chặn.
Ví dụ :
Ngã bố, con !
Bay mất con chim hoạ mi của tao giờ !
Cháy rừng U Minh Thượng rồi, anh em ơi !.
Ẩn đằng sau, hay nói đúng hơn là gắn liền với những kiểu câu đó là hàng
loạt những vấn đề có ý nghĩa đáng đựơc quan tâm đối với cú pháp, ngữ pháp,
ngữ nghĩa … Chẳng hạn, vấn đề phạm vi và ranh giới của câu tồn tại, mối liên
hệ của nó với các hiện tượng kế cận. Nên mở rộng phạm vi câu tồn tại đến đâu,
ở góc độ nào, có những khía cạnh nào đáng quan tâm …, sự tác động của các
nhân tố khác nhau đến việc hình thành các kiểu câu, mối quan hệ qua lại giữa
tổng thể câu và các thành tố tham gia vào câu, các khía cạnh nghĩa và ngữ dụng
của nó …
Ý kiến của các nhà nghiên cứu lâu nay xung quanh các hiện tượng đó còn
chưa thống nhất, cũng chưa có những miêu tả, đánh giá tương đối kỹ về các mặt
trong cách nhìn từ những chiều khác nhau, đặc biệt là các nhân tố về nghĩa ,

2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngữ dụng và vai trò chung của cấu trúc. Đây đó, cũng đã có những bài báo đề
cập tới vấn đề theo hướng đó,chẳng hạn,bài viết của Lý Toàn Thắng. Song chủ
yếu vẫn là tổng kết để gợi mở một vấn đề, trên góc độ ngôn ngữ học đại cương.
Do vậy, thực ra các nhân tố nghĩa và ngữ dụng, đặc biệt là ngữ dụng vẫn chưa
thể có điều kiện để chú ý tới một cách tương đối hệ thống. Các hiện tượng vẫn
được xem xét trên cơ sở được quy vào một mô hình câu chung.
Trong khoá luận này, chúng tôi chủ trương tách ra một số nhóm câu để
phân tích. Cách làm đó là có định hướng và có lý do của nó.
Thứ nhất, phạm vi những câu tượng tự và biểu hiện của chúng khá đa
dạng, mặc dù, ở cấp độ cấu trúc hình thức trừu tượng nhất đều có chung một mô
hình.Theo đó, phần vị từ đứng trước, phần danh đi sau, mà Lý Toàn Thắng gọi
là những câu “P - N”.
Nếu tính đến những đặc trưng cấu tạo, ngữ nghĩa vầ ngữ dụng cụ thể hơn
và theo những tinh thần miêu tả các đơn vị thường được gọi là những cấu trúc,
theo cách hiểu gần đây trong ngôn ngữ học, thì cần phải tiếp tục chia nhỏ hơn
thành các kiểu câu để xem xét. Việc tìm hiểu diện mạo đầy đủ của các hiện
tượng như vậy vượt quá khả năng, trình độ và điều kiện thời gian của chúng
tôi.Vì vậy, cách tốt nhất là khoanh lại một vùng cụ thể để làm việc. Những kết
quả thu được là một bước góp phần vào việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề, tổng
hợp toàn bộ vấn đề.
Thứ hai, việc khoanh lại vấn đề như vậy,cho phép chúng tôi đi vào xem
xét sâu hơn, kỹ hơn những khía cạnh cụ thể nhưng đáng được lưu ý mà khi xem
xét trên góc độ chung hơn thường không để ý tới. Bản chất của hiện tượng nhiều
khi lại được bộc lộ ra qua các khía cạnh như thế, sự xem xét tỷ mỷ hơn kiểu như
thế.
Thứ ba, những nhóm câu mà chúng tôi lựa chọn xem xét vừa bao gồm
những câu tồn tại điển hình, vừa bao gồm những kiểu câu trung gian tập trung
tương đối rõ sự đa dạng, chưa thống nhất về ý kiến. Điều đó, đã tạo điều kiện

để hy vọng rằng, từ đây có thể nhìn vấn đề rộng hơn, sang các hiện tượng khác.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2. Mục đích nhiệm vụ và ý nghĩa của bài khóa luận tốt nghiệp
Trong bài khoá luận tốt nghiệp này, chúng tôi đặt ra cho mình nhiệm vụ
cơ bản sau đây.
1) Tìm hiểu một số nét chung trong tình hình nghiên cứu về các nhóm câu
được quan tâm.
2) Trên cơ sở đó, tìm hiểu những đặc trưng nguyên mẫu của những câu
những câu tồn tại điển hình. So sánh các kiểu câu còn lại với câu tồn tại điển
hình, chỉ ra sự gần gũi và độ cách biệt giữa chúng.
3) Miêu tả các kiểu câu đó về các mặt ngữ nghĩa, ngữ dụng.
Tìm hiểu những vấn đề đó, chúng tôi hy vọng đóng góp một phần vào
việc từng bước tiến tới một quan niệm đầy đủ hơn về câu tồn tại tiếng Việt, góp
phần miêu tả các kiểu câu đó theo quan điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng. Từ đó, đóng
góp những tư liệu và cơ sở nhất định hữu ích ít nhiều cho các nhà nghiên cứu,
giải quyết những hiện tượng liên quan trong lĩnh vực cú pháp. Chẳng hạn, vấn
đề xử lý các thành phần câu, các kiểu câu trong khuôn khổ có liên quan. Mặc dù,
thành phần câu không phải là phạm vi quan tâm của khoá luận này.
3. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu
3.1. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu mà chúng tôi sử dụng trong khoá luận này chủ yếu lấy từ
các truyện ngắn. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sưu tầm thêm tư liệu từ một số
loại tạp chí và báo như : văn nghệ quân đội, văn hoá - văn nghệ công an, tạp chí
văn, baó văn nghệ, văn nghệ trẻ.
Ngoài những nguồn tư liệu thu thập trên các sách báo, chúng tôi cũng tôi
sưu tầm thêm rất nhiều câu khẩu ngữ hàng ngày và một số tư liệu thừa hưởng
được từ ghi chép riêng của người hướng dẫn.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình làm việc, chúng tôi tiến hành sử dụng phương pháp phân

tích ngữ cảnh. Chúng tôi đặt các kiểu câu đó vào mối quan hệ với những câu đi
trước hay sau nó. Tức quan sát, phân tích nó trong ngữ cảnh rộng vượt ra ngoài
khuôn khổ phát ngôn hẹp hoặc tính tới các nhân tố khác nhau tác động tới sự
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hoạt động của phát ngôn như các thủ pháp thực nghiệm trong phân tích ngữ
cảnh: mở rộng ngữ cảnh; thay thế thêm bớt các yếu tố v.v. sẽ được sử dụng kèm
theo trong quá trình phân tích.
Ngoài việc sử dụng các phương pháp phân tích trên, trong khoá luận này
chúng tôi cũng tiến hành sử dụng các phương pháp xây dựng mô hình nguyên
mẫu, phương pháp so sánh đối chiếu (cụ thể ở đây là so sánh các kiểu câu với
câu tồn tại nguyên mẫu, và so sánh mức độ tồn tại giữa các kiểu câu với nhau… ).
Trong bài khoá luận này, chúng tôi cũng sử dụng một vài ký hiệu thường
dùng trong ngôn ngữ học, được qui ước như sau:
Dấu sao đi kèm các ví dụ:
(*) Ví dụ bất thường.
(**) Ví dụ trích dẫn theo nguồn tư liệu của thầy giáo hướng dẫn.
Dấu (?) đặt trước các ví dụ:
(?): ví dụ đáng hoài nghi.
(??): Ví dụ rất đáng hoài nghi
4. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khoá luận gồm hai chương với
những nội dung chính sau:
Chương I: Mối quan hệ của các kiểu câu được xét với đặc tính tồn tại và
câu tồn tại điển hình (nguyên mẫu).
Nhiệm vụ của chương này là tổng kết một số quan niệm xung quanh vấn
đề về câu tồn tại, đưa ra quan niệm về câu tồn tại nguyên mẫu. Từ đó đối chiếu,
so sánh với các đặc điểm của các kiểu câu được xét trong khoá luận về đặc tính
“tồn tại” của chúng. Cuối cùng đưa ra bảng tổng kết về mức độ gần xa các kiểu
câu so với mô hình nguyên mẫu.

Chương II: Miêu tả các đặc trưng ngữ nghĩa –ngữ dụng ba kiểu câu ngoài
phạm vi câu tồn tại điển hình.
Như đầu đề đã nói, nhiệm vụ của chương này là lần lượt miêu tả, phân
tích một cách cụ thể ba kiểu câu đã được giới thiệu trong phần đầu khóa luận về
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các mặt ngữ nghĩa và ngữ dụng. Các mặt đó tồn tại song song trong các kiểu câu
và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
MỐI QUAN HỆ CỦA CÁC KIỂU CÂU ĐƯỢC XÉT VỚI ĐẶC TÍNH
TỒN TẠI VÀ CÂU TỒN TẠI ĐIỂN HÌNH <NGUYÊN MẪU>
1. Vài giới hạn chung
Trong chương này, chúng tôi sẽ lần lượt tìm hiểu các vấn đề chính sau đây
:
- Thứ nhất, mối quan hệ với tồn tại là một trong những bình diện ngữ
nghĩa và chức năng quan trọng của đối tượng mà chúng tôi khảo sát. Do đó,
trước hết trên cơ sở phác ra những nét cơ bản về tình hình nghiên cứu và những
vấn đề còn chưa được thống nhất, chung tôi sẽ lựa chọn cho mình một quan
niệm, một hướng triển khai các vấn đề tiếp theo.
- Thứ hai, từ những tiền đề chung đẵ được xác lập, chúng tôi sẽ tách
riêng ra những câu kiểu: Trên bàn có một lọ hoa, vốn được sự thừa nhận rộng rãi
la câu tồn tại điển hình để xem xét, xác lập những đặc điểm cơ bản của nó, gọi là
đặc trưng nguyên mẫu. (khái niệm nguyên mẫu sẽ được chúng tôi giải thích sau
trong tiểu mục liên quan trực tiếp).
- Thứ ba, xem xét so sánh ba kiểu câu còn lại tức là những câu kiểu: (Từ
đằng xa tiến lại một người con gái; Dưới suối lững lờ mấy con cá nhỏ; Ngã bố,
con!) với kiểu câu tồn tại điển hình, nguyên mẫu
- Thứ tư, chính sự so sánh đó sẽ làm lộ rõ những nét chung, riêng giữa

các kiểu câu này và câu tồn tại điển hình trên các mặt, đặc biêt là các khía cạnh:
đặc tính của các thành phần tham gia vào cấu trúc (vị từ, thông tin ngữ nghĩa cảu
vị từ; đặc trưng chung nhất của câu, khả năng dẫn nhập đối tượng vào thế giới
diễn ngôn… ). Chính qua đó, cho chúng ta thấy mức độ gần xa của các kiểu câu
này với câu tồn tại điển hình.
2. Ý niệm về tồn tại và sự phản ánh của nó vào ngôn ngữ
Như ta đã biết, ý niệm về sự tồn tại của đối tượng và sự phản ánh của nó
vào ngôn ngữ là một vấn đề đã được quan tâm tới từ lâu cả trong logic-triết học
lẫn trong ngôn ngữ học. Sở dĩ như vậy là do ý nghĩa đặc biệt của nó, do mối
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quan hệ đa dạng của nó với hàng loạt sự kiện ngôn ngữ. Chẳng hạn sơ bộ có thể
nhắc tới các hiện tượng ngôn ngữ sau đây liên quan chặt chẽ với ý niệm về sự
tồn tại của sự vật trong thế giới.
a) Tồn tại, trước hết liên quan đến các biểu thức quy chiếu, bởi vì, để nói
một điều gì đó về đối tượng, để sử dụng những biểu thức chỉ ra đối tượng, người
ta phải coi sự tồn tại của đối tượng đó như là một tiền đề có trước của thông báo.
Thuật ngữ “quy chiếu” (reference) được các nhà ngôn ngữ học dùng để
chỉ ra mối quan hệ giữa các yếu tố ngôn ngữ với các sự vật, biến cố hành động
và tính chất chúng thay thế. Quy chiếu cũng là dấu hiệu đầu tiên thể hiện quan
hệ giữa hoàn cảnh giao tiếp với diễn ngôn. “Sự quy chiếu nhất thiết phải dựa
trên tiền đề về sự “tồn tại” phát sinh từ những kinh nghiệm trực tiếp của ta về
các đối tượng trong thế giới vật chất. Nói rằng một từ cụ thể ( hay một đơn vị
khác có nghĩa ) “quy chiếu một đối tượng ” túc là nói rằng cái quy chiếu của nó
là một đối tương “ tồn tại ” ( có thực ) theo từ một nghĩa như khi ta nói rằng
những con người, động vật và đồ vật cụ thể “ tồn tại ”, và cũng nói rằng trên
nguyên tắc có thể đưa ra một miêu tả về các đặc tính vật chất của các đối tượng
đang xét ”. [ JOHNLYONS, nhập môn ngôn ngữ học lý thuyết, NXB GD,
1996,tr 667].
Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn ( Dụng học Việt ngữ) cũng “coi khái niệm

“ tồn tại vật chất” là cơ sở để định nghĩa mối quan hệ ngữ nghĩa của quy chiếu.
Sự tồn tại là tiền đề của quy chiếu ” [ Nguyễn Thiện Giáp, Dụng học Việt ngữ,
NXB ĐHQG Hà Nội, 2000, tr 27]
b) Tồn tại cũng gắn liền với mặt ngữ nghĩa, chức năng của lượng từ trong
ngôn ngữ, thường được xem như là những đương lượng của lượng từ tồn tại
trong logic, mặc dù không phải là hoàn toàn đồng nhất, gắn liền với các chỉ tố
đánh dấu tính xác định, bất định.
Các lượng từ ( một, một vài, một số …) hiện thực hoá cái hình ảnh về
mức độ tồn tại của đối tượng là bao nhiêu, nhiều hay ít và có thể tính đếm được
hay không.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lượng từ, vì vậy, cũng đóng một vai trò quan trọng, góp phần giới hạn
phạm vi tồn tại của đối tượng trong phát ngôn làm hình thành những câu phân
biệt với nhau về hiệu lực chân thực.
c) Cuối cùng, tồn tại còn gắn liền với những kiểu câu riêng, vị từ riêng.
Mà trong ngôn ngữ học thường được tách ra như một kiểu câu, một kiểu vị từ có
những đặc trưng riêng biệt. Gắn liền với nó là những dạng câu lân cận, tạo ra
một bảng màu đa sắc của tồn tại, mặc dù ý kiến về chúng của các nhà khoa học
chưa thật thống nhất.
Như vậy, ta có thể thấy được một số điểm sau:
a) Đối tương mà chúng tôi khảo sát ở đây chính là một bộ phận nằm trong
một vấn đề rộng lớn, phức tạp hơn liên quan tới các khía cạnh khác nhau của
ngữ nghĩa, cú pháp, các bình diện chức năng khác nhau của nhiều hiện tượng
ngôn ngữ.
b) Việc khảo sát câu có liên quan đến tồn tại, không thể không chú ý tới
các cấp độ mà ở đó, sự tồn tại được phản ánh vào ngôn ngữ. Điều này sẽ rất có ý
nghĩa đối với các phần sau của khoá luận. Nó cũng cho ta thấy rằng, chẳng hạn,
vì sao khi Rutxen phân tích câu “Ông vua hiện nay của nước Pháp hói trán”
thành hai mệnh đề đẳng lập nhau ( Có một ông vua ở nước Pháp hiện nay; Ông

vua nước Pháp hói trán ). Trong đó có một mệnh đề tồn tại lại không được giới
nghiên cứu đồng tình. Cũng như vậy, điều lưu ý ở đây góp phần giải thích vì sao
khó có thể phủ nhận những câu có phần đề không xác định trong tiếng Việt bằng
cách coi những câu như vậy là sự hội nhập của hai câu. Trong đó, có một câu là
câu tồn tại.
3. Vài nét về tình hình nghiên cứu, những vấn đề và hệ luận
Câu tồn tại, trong các tài liệu nghiên cứu khác nhau, thường được định
nghĩa như là kiểu câu xác nhận (phủ nhận) sự tồn tại của người, vật, dối tượng
(kẻ tồn tại) trong một phạm vi nào đó. Vấn đề tưởng như đơn giản và hoàn toàn
sáng rõ. Tuy nhiên, khi đi vào xử lý các sự kiện ngôn ngữ cụ thể thì tình hình lộ
ra lại hết sức phức tạp. Trên cơ sở những hiểu biết và tham khảo còn rất hạn chế
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của chúng tôi, cũng có thể nhận thấy những nét cơ bản, đáng lưu ý sẽ được trình
bày lần lựot dưới đây.
- Thứ nhất, giữa các tác giả khác nhau, kì thực không có một quan niệm
hoàn toàn thống nhất về câu tồn tại. Kết quả là, đi theo hướng quan niệm rộng,
sẽ có nội dung quan niệm ít nhiều khác biệt với quan niệm hẹp, chú ý nhiều đến
chức năng mà một kiểu câu có thể thực hiện được trong bối cảnh cụ thể thì kết
quả sẽ khác so với khi xem xét vấn đề trong một tổng thể và có sự phân biệt
giữa cái có trong ngữ cảnh, với cái như là đặc tính ngữ nghĩa chức năng ổn định
của kiểu câu, quy định vị trí của kiểu câu ấy trong ngôn ngữ. Xem xét tất cả các
câu trong một mô hình cú pháp hình thức trừu tượng sẽ khác với việc nghiên
cưú các câu cần xem xét trong những mô hình riêng.
Theo một quan niệm rộng nhất có thể thấy ở nhiều nhà nghiên cứu thì
khuôn hình chuyên dụng của câu tồn tại là :
Thể từ vị trí + vị từ + thể từ
Vị từ trong câu tồn tại có thể là :
Các từ chuyên dụng biểu thị ý nghĩa tồn tại như : có, còn …
Các từ chỉ lượng : nhiều, ít, đông, đầy …

Các từ tượng thanh hay tượng hình : lấp lánh, chồm chỗm, lù lù, lủng
lẳng, lừng lững …
Một số động từ chỉ hoạt động có tính chất hoạt động thoả mãn các điều
kiện sau đây :
d1 : Những động từ này phải là những động từ chứa sẵn mối liên hệ tham
chiếu với các biến không gian trong nội dung ý nghĩa của nó.
d2 : Những động từ này phải là những động từ lưu kết quả.
Vì đó là cơ sở cần thiết để tạo ra ý nghĩa về trạng thái tĩnh tại.
[DT:Nguyễn Minh Thuyết – Nguyễn Văn Hiệp, Thành Phần câu tiếng
Việt, NXB ĐHQG Hà Nội, 1998, tr: 308].
Theo quan niệm đó, ta thấy phạm vi câu tồn tại được nói đến không chỉ là
những câu kiểu :
(1)Trên bàn có một lọ hoa.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mà còn bao hàm hàng loạt các kiểu câu khác, ít nhất và phổ biến nhất là:
(2) Từ đằng xa, tiến lại một người con gái.
Đông người quá! Nhiều muỗi ghê!
Sừng sững một dải núi.
Cháy nhà!
Trên tường treo một bức tranh.
Trên gác bếp lủng lẳng những bắp ngô đã ám màu khói.
Trong khi đó, một số tác giả khác lại quan niệm hẹp hơn nhiều.
- Từ đó dẫn đến điểm thứ hai đáng lưu ý là cùng một kiểu câu, mà tác
giả này coi là câu tồn tại song tác giả khác llại không xếp vào phạm vi câu tồn
tại. Chẳng hạn những câu kiểu như :
1.Từ đằng xa tiến lại một người con gái.
2.Trên tường treo một bức tranh.
3.Dưới làn nước trong veo, lơ lửng bơi những chú cá nhỏ.
đã được nhiều nhà nghiên cứu xếp vào câu tồn tại. Song Trần Ngọc Thêm

lại loại nó ra khỏi phạm vi đó.
Còn những kiểu câu khác như :
Đừng nghịch ! Cháy nhà giờ
Rách áo tao!
Chạy hết cá của tao giờ !
Ngã bố, con !
Được Panfilov xếp vào phạm vi câu tồn tại và nếu xét trong mối quan hệ
của nó với các câu kiểu như:
Nhà cháy
Aó tao rách
Bố ngã
Thì chúng ta sẽ có một phép cải biến tồn tại. Điều đó có nghĩa là : những
câu như: nhà cháy, áo tao rách được xem như là những câu gốc từ đó sản sinh ra
những câu có trật tự đảo tương ứng, còn những câu có trật tự đảo tương ứng là
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kết quả của một phép cải biến, gọi là phép đảo –tồn tại. Có thể hình dung qua sơ
đồ sau:
Nhà cháy đảo trí tồn tại Cháy nhà.
[ DT: Lê Đông, ghi chép về những vấn đề ngữ nghĩa –cú pháp, tr:15]
Trong khi đó, Nguyễn Tài Cẩn và các đồng tác giả lại xem những câu như
vậy là loại câu cảm thán có mô hình trật tự đảo. Các tác giả này viết :
“trật tự đảo có thể có ở một kiểu câu cảm thán. Kiểu câu này thường có ý
nghĩa ngăn chặn hay đánh giá : rách áo, ngã bố, bẩn vở… ”
[DT: Lê Đông, ghi chép về những vấn đề ngữ nghĩa – cú pháp,tr:17]
- Cuối cùng, có một tình hình cũng không thể không lưu ý đến là các tiêu
chuẩn sắp xếp, xây dựng mô hình và đi đến liền theo đó là nội dung quan niệm,
cấp độ xem xét ở các tác giả cũng khác nhau.
Lý Toàn Thắng xem xét các kiểu câu đang quan tâm ở đây xuất phát từ
mô hình chung, khái quát hai thành phần mà ông gọi là kiểu câu “P-N” trong

tiếng Việt và tìm hiểu đặc tính ngữ nghĩa tồn tại chung cho cả mô hình câu khái
quát đó. Ông đưa ra nhận xét :
Kiểu câu “P-N” trong tiếng Việt cũng như trong nhiều ngôn ngữ đơn lập
khác, có một đặc điểm được nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận là : thành phần N
sau P chứa nhiều nét đặc trưng cho cả chủ ngữ lẫn bổ ngữ. Trong tiếng Việt
cũng như nhiều ngôn ngữ khác chuyên dùng để biểu thị một ngữ nghĩa chung
là :“chủ thể –sự tồn tại (xuất hiện, hiện hữu hay tiêu biến ) của bản thân chủ thể
hay của trạng thái chủ thể ”. Cái ngữ nghĩa chung này được hình thành trước hết
là nhờ vào ngữ nghĩa của P”.
Ông cũng tiếp tục đi vào tìm hiểu các sắc thái ý nghĩa của vị từ P. “Ở vị
trí P chỉ có thể là những vị từ biểu thị ý nghĩa tồn tại hoặc có khả năng có được
ý nghĩa này ”.
[x: Lý Toàn Thắng, Bàn thêm về kiểu câu “P- N” trong tiếng Việt, tr:128]
Diệp Quang Ban không xuất phát từ mô hình chung hai thành phần như
vậy, mà đưa ra một khuôn hình gồm nhiều thành phần :”thể từ vị trí + vị từ +
thể từ ”, từ đó cho ta các kiểu câu đã dẫn trên và những giới hạn cụ thể của thành
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phần vị từ [DT :Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp, thành phần câu
tiếng việt,NXB ĐHQGHN,1998,tr:308]
Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp về cơ bản cũng xuất phát từ
một quan niệm gần gũi như vậy khi cho rằng, nòng cốt tồn tại TR→ Vt- B là
một trong bốn cấu trúc nòng cốt của tiếng Việt. Các tác giả sử dụng quan niệm
về câu tồn tại được nhiều người nhắc tới “câu tồn tại cho ta biết rằng, ở một
không gian nào đó tồn tại (hoặc không tồn tại) các đối tượng của một lớp nào
đó. Thành thử, khác với Lý Toàn Thắng, Diệp Quang Ban cũng như Nguyễn
Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp, chỉ nói tới sự tồn tại hoặc không tồn tại của
đối tượng ”, mà còn nói đến cả cách thức tồn tại của sự vật.
Khác với các tác giả trên đây, Trần Ngọc Thêm tách những câu như :
Trong nhà có một người lạ mặt; Trên bàn có một lọ hoa …ra thành những câu

riêng, những kiểu câu khác liên đới cũng được táh thành những kiểu khác nhau
và trong nội dung quan niệm của tác giả, không bao hàm yếu tố ngữ nghĩa cách
thức tồn tại. Theo ông, “câu tồn tại khẳng định sự tồn tại của vật thể và sử dụng
khi vật thể lần đầu xuất hiện trong văn bản.[…]’’ việc “ cải biến để chứng minh
rằng đây (tức những kiểu câu gần gũi đã được nhắc tới trong khoá luận này của
chúng tôi –chúng tôi chú thêm ) là những biến thể của một kiểu câu như một số
người làm là sai lầm về phương pháp ”. Tuy nhiên, trong khi tách riêng ra nhiều
kiểu câu riêng biệt và xem xét nó trong mối quan hệ với câu tồn tại, chính tác
giả cũng dựa vào các hiện tượng tỉnh lược cấu trúc hay khả năng đảo (tức là
những hiện tượng liên quan đến cải biên ) nhiều hơn là xem xét các khía cạnh
khác.
[x: Trần Ngọc Thêm, Hệ thống liên kết văn bản tiếng
Việt,nxbgd,2000,tr:55-63]
- Tình hình đã phân tích trên đây, dẫn chúng tôi đi tới các kết luận
sau:
a) Trong ngôn ngữ, câu tồn tại là một hiện tượng phức tạp do sự tác động
của nhiều nhân tố, đặc biệt là vai trò của ngữ cảnh và sự chuyển hoá chức năng
giữa các kiểu câu trong hoạt động. Từ đó dẫn đến chỗ, tùy theo góc độ quan
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tâm, tùy theo tình huống sử dụng mà chức năng biểu thị sự tồn tại có thể được
biểu hiện bằng những phương tiện khác nhau.
Cho nên nếu ta đi từ nội dung đế hình thức,đến khả năng biểu hiện trong
sử dụng ngôn ngữ thì bức tranh sẽ khác so với khi xem xét vấn đề trên nhiều
bình diện đồng thời.
b) Chính vì vậy, nhiều tác giả đã nhận thấy có những trường hợp thực thụ
là câu tồn tại mang những đặc trưng điển hình của câu tồn tại. Nói khác đi,
chúng đã được ngữ pháp hoá cao. Đặc tính tồn tại của chúng độc lập với ngữ
cảnh chứ không phải là khả năng có trong những điều kiện ngữ cảnh nhất định.
Mặt khác, có những câu là đương lượng của tồn tại, mang tính tồn tại ở một

phương diện nào đó.
c) Nói theo ngôn ngữ học tri nhận thì ở đây chúng ta có những nguyên
mẫu và những trường hợp mang tính ngoại vi đi xa dần nguyên mẫu ở những
mức độ khác nhau. Từ đó, có thể áp dụng mô hình phân tích nguyên mẫu để tiếp
tục tìm hiểu xem các trường hợp không thuộc nguyên mẫu đi chệch khỏi mô
hình nguyên mẫu ở mức độ nào. Cũng qua đó, chúng ta hiểu thêm được đặc
trưng của những kiểu câu đương lượng với tồn tại.
Dưới đây, chúng tôi sẽ thử tìm hiểu và tổng kết lại một số đặc điểm chung
của nguyên mẫu “câu tồn tại”, sau đó tiến hành so sánh các kiểu câu được quan
tâm với những nguyên mẫu đó – chỉ ra mối liên hệ giữa chúng.
Trước khi đi vào các phân tích cụ thể thực hiện nhiệm vụ đã đặt ra, chúng
tôi xin dừng lại nói qua về các tiền đề lý luận và phương pháp mà chúng tôi chấp
nhận để làm việc. Các tiền đề này xoay quanh hai vấn đề chính, cụ thể là :
c1) Quan niệm về phân tích các cấu trúc cú pháp theo quan điểm ngữ
nghĩa.
c2) Quan niệm về nguyên mẫu và phân tích nguyên mẫu, các sự kiện
ngôn ngữ học.
Những tổng kết cơ bản sau đây, chúng tôi dựa vào các ghi chép theo
chuyên đề của người hướng dẫn.
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4. Quan niệm phân tích cấu trúc ngữ pháp và phân tích mô hình nguyên mẫ
trong ngôn ngữ học những năm gần đây ở lĩnh vực ngữ nghĩa cú pháp
4.1. Cấu trúc ngữ pháp trong quan niệm phân tích ngữ nghĩa cú pháp
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của ngôn ngữ học tri
nhận và ngữ dụng học, các nhà nghiên cứu ngữ pháp, cú pháp ngữ nghĩa đã nhìn
nhận, xem xét các hiện tượng ngữ pháp đặc biệt là các kiểu câu theo một cách
tiếp cận đa chiều. Từ đó, hình thành khái niệm cấu trúc ngữ pháp với các đặc
điểm sau đây:
(1) Trong cấu trúc cú pháp xét như một chỉnh thể thì tổng thể cấu trúc

thuộc một kiểu nào đó, có thể quy định những đặc điểm nghĩa của vị từ. Nó đòi
hỏi và chế định một giới hạn. Theo đó, chỉ những vị từ nhất định, đảm bảo thích
ứng với việc hình thành ngữ nghĩa - ngữ dụng của cấu trúc mới có thể xuất hiện
trong cấu trúc. Nghĩa là, không phải lúc nào cũng có thể coi vị từ là trung tâm
hiểu theo nghĩa hẹp. Mà trong nhiều trường hợp, chính cấu trúc với nhiệm vụ
giao tiếp nhận thức của nó, quy định trở lại các vị từ. Mặt khác mặt ngữ nghĩa –
ngữ dụng của cấu trúc không thể là phép cộng giản đơn các thành tố trong đó.
(2) Tham gia vào việc hình thành cấu trúc cú pháp như như một chỉnh thể,
không phải chỉ có những mô hình hình thức khái quát, còn phải tính tới các dấu
hiệu ngữ nghĩa khác, các thành phần phụ, các hư từ, trật tự từ … Từ đó có thể
thấy, nhiều yếu trong cấu trúc câu trước đây có thể ít được chú ý tới thì nay, phải
được tính tới như một thành tố quan yếu, một bộ phận gắn liền hữu cơ với kiểu
câu.
(3) Từ đó, một bình diện không thể thiếu trong cấu trúc ngữ pháp là kiểu
mô hình ngữ nghĩa mà nó phản ánh. Sự phân bố các thông tin về nghĩa gắn với
những kiểu chức năng ngữ dụng đặc thù thường gặp.
Chính sự thống nhất của các nhân tố đó đảm bảo cho kiểu cấu trúc là sự
mã hoá, quan niệm hoá những mô hình tri nhận hoàn cảnh – và giao tiếp - ngữ
dụng với con người làm trung tâm.
Archiunova trong khi nghiên cứu những câu gắn với phạm trù so sánh
trong tiếng Nga, đã tách ra được bảy kiểu câu. Trong đó, tham gia vào cấu trúc,
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phải làm thành tố hữu cơ của nó, không chỉ là vị từ, và các tham tố, mà còn có
cả các tiểu từ tình thái : euse, gahce, bcehce, các liên từ a, ho…
[theo Lê Đông, ghi chép về những vấn đề ngữ nghĩa – cú pháp, tr 22]
4.2. Vài nét về quan niệm nguyên mẫu và phân tích nguyên mẫu
4.2.1. Khái niệm nguyên mẫu
- Trước hết, nguyên mẫu là một khái niệm trung tâm của phạm trù hoá.
Các phạm trù được xác định bởi những thuộc tính có ở các đối tượng mang tính

nguyên mẫu của phạm trù. Ví dụ, phạm trù “chim ”, được xác định bởi những
đặc trưng của của những đối tượng chim điển hình nhất trong thực tế. Các đặc
trưng này cũng được gọi là đặc trưng nguyên mẫu. Cũng như vậy,theo G. lakoff
có thể phân tích các phạm trù ngôn ngữ như “chủ thể hành động ”, quan hệ “chủ
thể hành động – thụ thể ” trong ngôn ngữ học. Theo quan niệm nguyên mẫu,
bằng cách dựa trên những trường hợp là chủ thể hành động điển hình nhất, hay
quan hệ “chủ thể hành động - thụ thể ” điển hình nhất. Khi đó, các phạm trù này
sẽ được đặc trưng bằng một tập hợp những đặc trưng ở cấp độ cơ sở có ở các
trường điển hình. Chẳng hạn mối quan hệ “chủ thể - thụ thể”, theo cách phân
tích của La koff, có một loạt đặc trưng điển hình kiểu như”
1. Tồn tại một chủ thể làm cái gì đó.
2. Tồn tại thụ thể, chịu tác động chuyển sang một trạng thái mới nào đó.
3. Sự biến đổi của thụ thể là kết quả tác động của chủ thể.
4. Hành động của chủ thể là có ý đồ, chủ đích.
5. Chủ thể chi phối thụ thể bằng hành động của mình.
6. Chủ thể chịu trách nhiệm về cái diễn ra (về hành động của mình, về sự
biến đổi xảy ra )
7. Chủ thể là nguồn “năng lượng” của hành động, đối tượng là đích của
chi phí năng lượng đó.(tức chủ thể hướng năng lượng của mình vào thụ thể).v.v
Những đối tượng nằm ở vùng ngoại biên của nguyên mẫu có thẻ đi chệch ở
những mức độ khác nhau của mô hình, hoặc cũng có thể là sự giao thoa, trùng
hợp nhau, bộ phận của những phạm trù khác nhau.
4.2.2. Đặc trưng của câu tồn tại nguyên mẫu.
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Có thể thấy trong các tài liệu khác nhau, những kiểu câu như:
Trong nhà có khách.
Trên bàn có một lọ hoa.
Y li a une vase sur la table.
Y li a un livre sur la table.

There is a book on the table.
There is a vase of flovers on the table.
Là những câu tồn tại điển hình, được tất cả các nhà nghiên cứu nói tới và
nhắc tới đầu tiên, đôi khi là chỉ nhắc tới các kiểu câu như vậy mà thôi khi họ bàn
về câu tồn tại. Trong tiếng Việt, đặc tính tồn tại của những câu vừa nhắc tới
không bị phụ thuộc vào ngữ cảnh cụ thể. Dù tách chúng khỏi ngữ cảnh, đặc tính
nghĩa đó vẫn giữ nguyên. Thêm nữa, đó cũng là cách diễn đạt về tồn tại phổ biến
và tự nhiên nhất trong các phạm vi giao tiếp khác nhau. Vậy đặc trưng quan yếu,
điển hình của chúng là gì ? Theo chúng tôi những đặc trưng quan yếu của chúng
có thể là những đặc trưng chung nhất điển hình nhất như sau:
a. Câu tồn tại điển hình chứa vị từ tồn tại điển hình. Thông tin ngữ nghĩa
của vị từ tồn tại điển hình không có gí khác ngoài việc biểu hịên trạng thái tồn
tại, ý niệm về sự tồn tại một cách chung nhất, thuần tuý nhất. Những đặc trưng
về cách thức, hình thức diễn tiến, về đánh giá có ở một số vị từ không phải là
đặc điểm của vị từ tồn tại thuần khiết. Ta thấy trong tiếng Việt, “ có “ chính là
một vị từ tồn tại điển hình như thế. Trong thông tin ngữ nghĩa mà nó truyền tải ở
kiểu câu trên, không có gì khác hơn là trạng thái tồn tại. Có thể so sánh một vài
định nghĩa lấy từ “ Từ điển từng giải “ do Hoàng Phê chủ biên như sau :
1.Có : Động từ, từ biểu thị trạng thái tồn tại nói chung.
2.Còn : Tiếp tục tồn tại, tiếp tục có không phải đã biết hoặc đã mất đi.
3.Tồn tại : ở trạng thái có thật, con người có thể nhận biết bằng giác quan.
4.Xuất hiện : Hiện ra, nảy sinh ra, hình thành ra.
Cũng cần nói rằng, vị từ tồn tại là hạt nhân của các câu tồn tại. Đó không
phải là một tác tử lượng hoá sự tồn tại, không phải là một lượng từ ( kiểu : một,
một vài, một số…). Vấn đề là ở chỗ, như đã nói ở trên, đặc tính tồn tại gắn với
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng loạt các sự kiện ngôn ngữ khác nhau đặc biệt là ở các lượng từ tồn tại,
không xác định kiểu như :
(1)Một người phụ nữ bước vào.

(2)Từ ngoài bước vào một người phụ nữ.
(3)Tôi đánh vào vai một người phụ nữ.
Do đó, cũng từng có người cho câu thứ (1) và (2) cũng là tồn tại hoặc là
sự hỗn nhập của một câu tồn tại với một câu không phải là tồn tại.
Song khác với lượng từ, chỉ có vị từ tồn tại mới là vị từ hạt nhân của câu
tồn tại đích thực. Từ đó dẫn đến đặc trưng thứ hai.
b. Ở câu tồn tại điển hình, nguyên mẫu xác nhận hay phủ nhận sự tồn tại
của đối tượng trong phạm vi không gian hay thời gian cụ thể.
Ở câu tồn tại điển hình luôn xác nhận, phủ nhận sự tồn tại của đối tượng
trong một phạm vi không gian cụ thể. Nếu ta nói : Trên bàn có một lọ hoa, là ta
đã xác nhận sự tồn tại của đối tượng. Bản thân sự tồn tại của đối tượng đã được
nhắc tới, được xem như là cái chưa biết, chưa có trong thế giơí nhận thức của
người tham gia giao tiếp. Nói khác đi, đó chính là bộ phận xác nhận của nghĩa
trả lời cho những câu hỏi, những chờ đợi kiểu như: Trên bàn có gì không? Có
hay không có lọ hoa…
Từ đó dẫn đến đặc trưng thứ 3.
c. Xác nhận nằm trong mục đích, tiêu điểm thông báo chính thức của phát
ngôn.
Trong câu tồn tại điển hình, mục đích chính của nó là xác nhận đối tượng
tồn tại trong những không gian cụ thể. Do vậy xác nhận đối tượng phải nằm
trong tiêu điểm chính thức của phát ngôn.
Việc xác nhận sự tồn tại của đối tượng với mục tiêu thông báo chính thức
của phát ngôn cũng nhằm dẫn nhập đối tượng vào văn bản. Do đó dẫn đến đặc
trưng thứ tư như sau:
d. Chức năng của câu tồn tại điển hình là dẫn nhập đối tượng vào thế giới
luận bàn hay vùng quan tâm chung của người nói, người nghe.
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như chúng ta đã biết câu tồn tại khẳng định sự tồn tại của vật thể và sử
dụng khi vật thể lần đầu tiên xuất hiện trong văn bản.Trong việc tổ chức văn

bản, các câu tồn tại có một tầm quan trọng đặc biệt. Chúng dùng để đưa đối
tượng mới vào văn bản. Đối tượng đó như đã nói ở các đặc trưng trên, được xem
như là cái chưa biết trong thế giới nhận thức của người tham gia giao tiếp. Và tự
bản thân câu tồn tại đã nói lên tính dẫn nhập đối tượng vào phạm vi chú ý, để
luận bàn về nó.
Trần Ngọc Thêm đã nhận xét rất đúng rằng: Câu tồn tại có vị trí ở đầ văn
bản thì nó làm nhiệm vụ đưa đối tượng, dẫn dắt đối tượng chính, nhân vật chính
vào văn bản.
Ví dụ: Ngày xưa có một người trẻ tuổi tên là Mai An Tiêm. Chàng là người
ở một nước đâu tận vùng biển phía nam…
(Nguyễn Đổng Chi, Sự tích dưa hấu, KTCTVN,tập I)
Còn khi câu tồn tại xuất hiện ở đầu đoạn văn thì nó làm nhiệm vụ dẫn
nhập những đối tượng phụ vào văn bản.
Ví dụ: Ở đầu xóm nhà Keng có cô Ngọ. Ngọ đang tuổi dậy thì béo khoẻ lại
khéo giữ nước da.
(Nguyễn Kiên , Anh Keng)
[x:Trần Ngọc Thêm,Hệ thống liên kết văn bản bằng tiếng Việt,tr:56]
e. Đặc trưng thứ năm, Câu tồn tại điển hình xác nhận sự tồn tại của đối
tượng trong một phạm vi không gian nhất định. Do đó nó gắn liền với vị trí
không gian, vị trí không gian là bộ phận hữu cơ của câu.
Về đặc điểm này John Lyon đã nhận xét, trong tiếng Anh: động từ tồn
tại…hiếm thấy khi không có bổ ngữ không gian hay thời gian. Sự xác nhận một
vật đang hay đã tồn tại cần được bổ túc bằng một biểu đạt định vị. Sự liên hệ
giữa kết cấu tồn tại và kết cấu định vị được bảo vệ bằng việc sử dụng cái mà
thoạt đầu là trạng ngữ định vị.
[DT:Lê Đông, ghi chép về những vấn đề ngữ nghĩa –cú pháp,tr30]
Bàn thêm về vấn đề này Diệp Quang Ban cũng đã nhận xét như sau:”từ
trước đến nay, ít người để ý đến việc phân biệt yếu tố ngôn ngữ chỉ vị rí không
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368

gian của câu tồn tại với cái gọi là trạng ngữ của câu. Về cả hai phương diện nội
dung và hình thức, yếu tố chỉ vị trí không gian trong câu tồn tại là bộ phận cấu
thành hữu cơ của câu kiểu này. Không có nó không thể tạo ra được cả ý nghĩa
tồn tại lẫn khuôn hình đặc thù có tính chất chuyên dùng cho kiểu câu tồn tại ”.
[Diệp Quang Ban,1980,TR144}. Còn tác giả Trần Ngọc Thêm thì cho
rằng trạng ngữ là “thành phần nòng cốt riêng” trong kiểu câu có nòng cốt tồn tại
(Tr- Vt- B) và thể hiện phần Đề [x: Trần Ngọc Thêm 1985,tr 60]
Trên đây là năm đặc trưng chung nhát,quan yếu nhất cho câu tồn tại điển
hình. Ngoài ra, theo chúng tôi thông thường và bình thường trong câu tồn tại
điển hình nhất trong tiếng Việt, danh ngữ chỉ kẻ tồn tại được đánh dấu không
xác định phân bố ở phía sau vị từ.
Ví dụ:
Trên bàn có một lọ hoa
Có một lọ hoa trên bàn.
Trên bàn một lọ hoa có.
Một lọ hoa trên bàn có.
Theo chúng tôi trong bốn câu trên thì câu (1) là câu bình thường, tự nhiên
hơn cả. Câu (2) rõ ràng kém tự nhiên hơn, và thường chỉ được sử dụng trong
ngữ cảnh hạn chế mang tính tranh biện, nó thường trả lời cho cho những câu
mang tính tranh biện kiểu như:
Không có lọ hoa nào trên bàn cả.
Tôi chẳng thấy hoa hoét gì trên bàn cả.
Từ những điều đã trình ở trên, chúng tôi đưa ra một bảng tổng kết ngắn
gọn các
c điểm của câu tồn tại như sau.
Bảng tổng kết các đặc điểm của câu tồn tại
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trung tâm cấu
trúc

ý nghĩa chung
của câu tồn tại
Chức năng tổ
chức diễn ngôn
Đặc trưng của đối
tượng tồn tại và vị
trí tồn tại
+ Trung tâm cấu
trúc là vị từ tồn
tại điển hình
+ Thông tin
nghĩa vị từ chỉ
thuần tuý là sự
tồn tại,…
+ Xác nhận / phủ
nhận tồn tại là
trọng tâm thông
báo, thông báo
chính thức
+ Đối tượng là
cái chưa biết
chưa có trong
nhận thức, cái
cần được xác
nhận
+ Dẫn nhập đối
tượng vào thế
giới diễn ngôn,
lần đầu tiên đưa
đối tượng vào

văn bản.
+ Đối tượng không
xác định
+ Về mặt ngữ nghĩa,
đóng vai trò là đối
tượng tồn tại, là kẻ
ở trong trạng thái
tồn tại.
+ Câu tồn tại gắn
hữu cơ với định vị
không gian.
Mô hình câu tồn tại điển hình có dạng như sau :
Vị trí tồn tại Vị từ tồn tại điển hình Đối tượng tồn tại
5. So sánh các kiểm câu còn lại với câu tồn tại nguyên mẫu
Qua việc tìm hiểu những đặc trưng điển hình, đối sánh với các kiểu câu
được xét trong khoá luận, ta thấy nổi lên một số vấn đè sau:
- Thứ nhất, nếu vị từ của các câu tồn tại nguyên mẫu là vị từ tồn tại thì vị
từ trong các kiểu câu được xét đến trong khoá luận không phải là vị từ tồn tại.
Điều này đã quá hiển nhiên. Ta xét các ví dụ sau:
Từ đằng xa tiến lại một người con gái
Ngã bố, con!
Trên tường treo một bức tranh.
Chễm chệ ngồi một bà to béo…
Cái thông tin ngữ nghĩa vị từ trong những câu trên không bao hàm “tồn
tại” như một thành tố nghĩa bên trong. Người ta không thể xác định nghĩa của vị
từ tồn tại: Có nếu không chỉ ra rằng vị từ đó chỉ là sự tồn tại của cái gì đó. Nghĩa
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của các vị từ đang xét ở đây là một nội dung hoàn toàn khác. Chẳng hạn, “treo”
là một trạng thái, một vị thế tĩnh của của sự vật do được đính cố định vào một

chỗ dựa nào đó trên cao so với vùng không gian thấp hơn. “Tiến” là vận động
theo hướng tiếp cận, áp gần một vị trí hay đích không gian nào đó…
Do đó, cái thuộc tính tồn tại, nếu có, ở những kiểu câu này không phải là
do cái ý nghĩa ngôn ngữ hiển nhiên vốn có ở vị từ hạt nhân mà là một hệ quả
ngữ nghĩa chung của toàn cấu trúc gắn với những điều kiện , những hoàn cảnh
dùng nhất định…Điều này cũng sẽ ảnh hưởng quan trọng tới cách thức, phạm
vi, định hướng..tri nhận thế giới của người nói, và các nhân tố khác nữa ta sẽ nói
tới ssau.
- Thứ hai, điểm khác biệt lớn thứ hai cần được đưa ra xem xét ở đây là:
Trong các kiểu câu đang xét, chỉ có những câu kiểu như:
Từ đằng xa tiến lại một người con gái.
Dưới suối lững lờ mấy con cá nhỏ.
…..
Là thường gắn với một phạm vi người, vật không xác định và có thể được
dùng như là câu có tác dụng đưa đối tượng vào văn bản. Song vai trò hiển ngôn
của người –vật được được nói tới, không phải là kẻ tồn tại, kẻ ở trạng thái tồn tại
mà là những vai nghĩa khác. Chẳng hạn, chủ thể của hành động (tiến lại…cô
gái), đối tượng ở vào tư thế hay vị thế (treo: bức tranh, một người :ngồi chễm
chệ)v.v.Những câu kiểu như: Ngã bố,con! Cháy nhà! Bay mất con chim hoạ mi
của tao rồi! Thì không những không dẫn nhập đối tượng mới nào mà cũng
không đòi hỏi gắn với đối tượng không xác định, các đối tượng được nói đến ở
đây cũng không phải là kẻ mang trạng trạng thái tồn tại, mà là người, vật ở vào
trạng thái, quá trình, biến cố hoàn toàn khác.
- Thứ ba, điểm khác biệt thứ ba cần nói tới ở đây đó là cái phạm vi không
gian trong các kiểu câu được xét trong khóa luận.
Trong một số kiểu câu được xét cũng có mối liên hệ rất rõ với cảnh huống
không gian.Nhưng mối liên hệ đó đã có phần khác biệt so với câu tồn tại nguyên
mẫu.
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Ở những câu kiểu như:
Trên tường treo một bức tranh.
Dưới suối lững lờ mấy chú cá nhỏ.
Trên xe ngồi chễm chệ một bà to béo.
Thì không gian có thể đóng vai trò trực tiếp chỉ ra nơi chốn của sự tình
được nói tới. (Chẳng hạn, nơi những con cá đang bơi, nơi chỗ mà người nói tới
ngồi, vị trí mà bức tranh được treo…) chứ không phải trực tiếp là giới hạn
không gian của trạng thái tồn tại thuần tuý. Cho nên, trạng ngữ chỉ không gian ở
đâybị giới hạn và chế định chặt chẽ bởi ngữ nghĩa của vị từ hơn rất nhiều ; Đã là
bơi, thì chỉ có môi trường nào đó mới có thể bơi được; Đã là treo thì cũng chỉ ở
chỗ nào đó trong không gian, trên cao, và có thể cố định lại được. Dù thế nào,
thì vị trí không gian ở đây cũng chỉ có mối quan hệ xa hơn, gián tiếp hơn với
trạng thái tồn tại và với vật tồn tại hiểu theo nghĩa đích thực của nó mà thôi. Bởi
vì, ngay chính sự tồn tại cũng không phải là nội dung nghĩa được diễn đạt trực
tiếp ở những câu này.
Còn với những câu kiểu như :
Cháy nhà !
Ngã bố !
Rơi rau kìa !
Thì sự có mặt của yếu tố không gian trở nên không cần thiết, thậm chí còn
có thể không xuất hiện. Đó là, khi sự tình - biến cố được nói tới gắn liền với
không gian, thời gian của hành động phát ngôn, mà tình hình này lại phổ biến là
như vậy. Chẳng hạn:
Cẩn thận, cháy nhà giờ !
Ngã bố, con !
Đen hết mặt con tao rồi !
thì những yếu tố : cẩn thận, giờ, rồi…trong các sự tình đó gắn với hành
động phát ngôn. Mặt khác, những sự tình, biến cố ở đây cũng gắn với không
gian, thời gian của hành động phát ngôn cho nên yếu tố không gian không cần
xuất hiện trong các phát ngôn nêu trên.

23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Thứ tư, một nét khác biệt nữa cần đề cập tới ở đây dó là mục đích thông
báo chính thức của các kiểu câu được xét.
Mục đích thông báo chính thức của các kiểu câu được xét đến trong mục
này không phải là xác nhận sự tồn tại của đối tượng như các câu tồn tại điển
hình.Vấn đề là ở chỗ, ở những kiểu câu khác nhau thì thông tin nằm trong mục
đích thông báo chính thức cũng có những mối quan hệ ít nhiều khác nhau đối
với những thông tin đã nằm trong tiền giả định hoặc có thể coi là đã lui vào hậu
trường ở những mức độ khác nhau.
Con người khi thực hiện một hành động phát ngôn, phát ra một phát ngôn
trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, thường xuất phát từ một số thông tin có trước
làm tiền đề của thông báo hoặc giản đơn được anh ta trình diễn như, coi như là
tiền đề có trước, không phải là cái trực tiếp quan tâm, trực tiếp khẳng định trong
phát ngôn. Hiển nhiên nhất, dễ thấy nhất là những kiểu câu như:
Ngã bố, con !
Rơi rau, kìa!
Chạy mất cá của tao giờ !
Ở đây, các đối tượng-chủ thể của hành động như: người bố, bó rau, cá của
tao…được thừa nhận là đã tồn tại từ trước đó. Người nói-người nghe dường như
đã ngầm hiểu, thừa nhận sự tồn tại của đối tượng đó rồi.
Cho nên nếu xét về phương diện vị từ tồn tại thì nó là kiểu câu khác xa so
với những câu tồn tại nguyên mẫu.
Còn những kiểu câu như:
Từ đằng xa tiến lại một người con gái.
Trên tường treo một bức tranh.
Vẳng lên tiéng la hét của đám lính nguỵ trang trúng đạn bị thương.
Thì tình hình có phần phức tạp hơn. Bởi lẽ những vị từ trong những câu
trên đều không phải là vị từ tồn tại nhưng ít nhiều chúng đều mang nét nghĩa tồn
tại. Chúngcũng có thể được dùng để dẫn dắt đối tượng vào thês giới luận bàn.

Song nếu quan sát kỹ lưỡng hơn thì vấn đề không chỉ dừng lại ở đây. ta có thể
nhận thấy rằng, trung tâm của thông báo chính thức mà vị từ truyền đạt đến là
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cái miêu tả những đặc trưng của sự tồn tại, diễn tiến của tình hình hay biến cố
đó. Còn bản thân sự tồn tại của đối tượng ta có thể coi như là cái có trước.
Để nhận định rõ hơn vấn đề đó ta hãy quan sát một số ví dụ sau:
Núi chúa càng làm phong cảnh nơi đây thêm hùng vĩ. Sừng sững vươn lên
giữa trời xanh, nghiêng bóng xuống mặt nướcmột ngọn núi lam, cứ y như thể tạo
hoá đã dày công suy nghĩ trước khi bày đặt.
Trích (**)
Đã đến đèo Pha đin, con đèo cheo leo hiểm hóc có tiếng. Ngước mắt nhìn
lên càng thấy phục những người dân công ngày trước. Giữa hoang vu rừng già,
chon von, uốn lượn khi đính vào vách núi, khi chìm vào mây mù một con đường
nhỏ như sợi chỉ. Thế mà bao nhiêu tấn hàng, bao nhiêu khối thép vẫn đến được
mặt trận.
Trích (**)
Tường nhà anh cũng có ít bức tranh hẳn hoi, nhưng cái cách “chơi” tranh
của chủ nhân thì thật là phản cảm, vô hồn. Lủng lẳng treo trên những chiếc đinh
đóng hờ mấy bức tranh như ai tiện tay ngoắc tạm.
Trích (**)
Đúng lúc ấy thì có giọng con gái í éo gọi. Tôivà Hùng xếp vội mấy thứ lại,
giấu xuống chiếu giường, nhìn ra. Từ ngoài đầu ngõ đang lững thững đi vào một
cô gái. Lạ lắm, ai vậy nhỉ, ai mà lại biết tên bọn mình nhỉ ?
Trích (**)
Suối có cá. Dưới làn nước trongveo, lững lờ bơi mấy con cá bạc.
Trích (**)
Ngoài các ví dụ đã dẫn ở trên, ta cũng có thể so sánh thêm, với những câu
có các từ đánh giá về lượng cũng được nhiều tác giả xếp vào phạm vi câu tồn
tại.

Ví dụ:
Ở đây có muỗi ! nhiều muỗi lắm !
Chợ thì lúc nào chả có người, nhưng hôm nay đông người lắm !
25

×