Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và tăng trưởng kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 68 trang )

1
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI NÓI ĐẦU 5
CHƯƠNG 1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC ĐÁNH GIÁ MỐI QUAN HỆ
GIỮA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 9
1.1. Các vấn đề về tăng trưởng kinh tế 9
1.1.1 Khái niệm và bản chất của tăng trưởng kinh tế 9
1.1.1.1 Khái niệm tăng trưởng kinh tế: 9
1.1.1.2 Các cấp độ của tăng trưởng kinh tế: 10
1.1.1.3 Ý nghĩa của tăng trưởng kinh tế: 11
1.1.2 Đo lường tăng trưởng kinh tế 12
1.1.2.1 Mức tăng trưởng tuyệt đối 12
1.1.2.2 Tốc độ tăng trưởng kinh tế 12
1.1.2.3 Thu nhập bình quân đầu người 13
1.1.3. Một số học thuyết và mô hình tăng trưởng kinh tế 13
1.1.3.1 Học thuyết John Maynard Keynes về tăng trưởng kinh tế 13
1.1.3.2 Mô hình tăng trưởng Harrod – Domar 15
1.2. Điều kiện của tăng trưởng kinh tế 17
1.2.1 Các điều kiện của tăng trưởng kinh tế 17
1.2.1.1 Tài nguyên thiên nhiên 17
1.2.1.2 Nguồn nhân lực 18
1.2.1.3 Công nghệ 18
2
1.2.1.4 Vốn 19
1.2.2 Nguồn vốn đối với tăng trưởng kinh tế: Tín dụng ngân hàng 22
1.2.2.1 Các kênh huy động vốn cho nền kinh tế 22
1.2.2.2 Tín dụng ngân hàng đối với tăng trưởng kinh tế tại các nước đang phát
triển 23
1.3 Tín dụng ngân hàng và tăng trưởng kinh tế tại một số quốc gia trên thế giới 24
CHƯƠNG 2 – THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG TÍN DỤNG VÀ TĂNG


TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 – 2012 28
2.1 Tổng quan về tăng trưởng kinh tế Việt Nam 28
2.1.1 Đặc điểm tăng trưởng kinh tế Việt Nam 28
2.1.1.1 Tốc độ tăng trưởng cao nhưng không bền vững 28
2.1.1.2 Tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng 32
2.1.2 Tín dụng ngân hàng là điều kiện tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam 34
2.1.2.1 Tổng quan về hệ thống tài chính Việt Nam 34
2.1.2.2 Tín dụng ngân hàng là kênh cung ứng vốn chủ yếu trong hệ thống tài
chính Việt Nam hiện nay 36
2.2 Mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam giai
đoạn 2001 – 2012 41
2.2.1 Thực trạng tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn
2001 – 2012 41
2.2.2 Khảo sát mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế tại
Việt Nam giai đọan 2001 – 2012 47
2.2.2.1 Giới thiệu mô hình và giải thích các biến 47
3
2.2.2.2 Mô tả số liệu 48
2.2.2.3 Kết quả khảo sát mô hình 48
2.2.2.4 Nhận định, giải thích 52
CHƯƠNG 3 – KHUYẾN NGHỊ ĐIỀU CHỈNH TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
HƯỚNG TỚI MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ BỀN VỮNG 56
3.1 Bối cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay 56
3.2. Khuyến nghị đối với NHNN và Chính phủ: 58
3.2.1 Khơi thông nguồn vốn tín dụng: 59
3.2.2 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tín dụng ngân hàng, hướng tới mục tiêu
tăng trưởng kinh tế bền vững 61
KẾT LUẬN 64
4
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Tran
g
Bảng 1. Tỷ trọng đóng góp của các yếu tố tới tăng trưởng kinh tế ở một số quốc
gia
22
Bảng 2. Kết quả hồi quy mô hình theo phương pháp OLS ứng dụng Eviews 4 50
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Tran
g
Hình 1.1. Sơ đồ vai trò của hệ thống tài chính 23
Hình 1.2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và thế giới 1980 – 2012. 26
Hình 1.3. Tốc độ phát triển của tín dụng tại Trung Quốc giai đoạn 2005 – 2012 27
Hình 1.4. Tốc độ tăng trưởng tín dụng ngân hàng ở Ấn Độ giai đoạn 1994 – 2012 27
Hình 2.1. Tăng trưởng GDP hàng năm của một số nước Châu Á từ 1986 – 2000 29
Hình 2.2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2001 – 2012 30
Hình 2.3. GDP và lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2001 – 2012 31
Hình 2.4. Tỷ lệ lam phát của Việt Nam và một số quốc gia khác 32
Hình 2.5. GDP bình quân đầu người/năm của Việt Nam giai đoạn 1980 – 2010 32
Hình 2.6. Đóng góp của vốn, lao động và TFP tới tăng trưởng kinh tế 33
Hình 2.7. Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội/GDP 2006 – 2011 34
Hình 2.8. Hệ số ICOR của Việt Nam qua các thời kì 34
Hình 2.9. Độ sâu tài chính của Việt Nam 36
Hình 2.10.Vốn hóa và mức huy động qua thị trường chứng khoán hàng năm 39
Hình 2.11. Số lượng ngân hàng Việt Nam qua các năm 1991 – 2011 40
Hình 2.12. Tăng trưởng GDP, tín dụng/GDP của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2011 41
Hình 2.13. Tín dụng/GDP của các 1 số nước châu Á giai đoạn 2001 – 2010 43
Hình 2.14. Biểu đồ tốc độ tăng trưởng tín dụng, tốc độ tăng trưởng kinh tế và CPI
của Việt Nam 2001 – 2012
43
5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CSTT Chính sách tiền tệ
NHTW Ngân hàng trung ương
NHTM Ngân hàng thương mại
NHNN Ngân hàng nhà nước
WB World Bank
GDP Gross Domestic Products
GNP Gross National Products
AD Aggressive Demand
TNTN Tài nguyên thiên nhiên
TFP Total Factor Productivity
HTTC Hệ thống tài chính
TTTC Thị trường tài chính
TCTK Tổng cục thống kê
WDI World Development Indicators
IMF International Monetary Fund
GDPG Gross Domestic Products Growth
CGR Credit Growth Rate
TTKT Tăng trưởng kinh tế
WTO World Trade Organization
UBCKNN Ủy ban chứng khoán nhà nước
TPCP Trái phiếu Chính phủ
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam năm 1986 diễn ra, Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc Đổi Mới và mở
cửa, tiến hành hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Quá trình Đổi Mới và hội
nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế Việt Nam tăng trưởng
trong suốt những năm qua, ngay cả khi nền kinh tế thế giới lâm vào suy thoái. Giai
đoạn 2001 – 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam bình quân đạt 7.15%, cao

6
hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt
Nam trong những năm gần đây bắt đầu có dấu hiệu suy giảm, với 5.89% năm 2011
và 5.03% năm 2012, nhưng vẫn đạt được mục tiêu mà Đảng và Quốc hội đề ra.
Tuy nhiên, xét về mặt bản chất, tăng trưởng kinh tế Việt Nam là không bền vững,
chưa có chiều sâu và phụ thuộc nhiều vào nhân tố vốn. Thị trường chứng khoán
Việt Nam với 12 năm phát triển chưa thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc
huy động và cung cấp vốn cho nền kinh tế, và tín dụng ngân hàng trở thành kênh
dẫn vốn chủ yếu cho nền kinh tế Việt Nam.
Xuất phát từ thực tiễn đó, đề tài “Mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và
tăng trưởng kinh tế Việt Nam” được nghiên cứu với mục tiêu tìm ra mối quan hệ
giữa tốc độ tăng trưởng tín dụng và tốc độ tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam, từ đó
đưa ra những khuyến nghị đối với Chính phủ và NHNN về việc tạo ra một tốc độ
tăng trưởng tín dụng phù hợp với tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả của tín
dụng ngân hàng hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững mà Đảng và
Quốc hội đề ra.
7
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm hệ thống hóa lý thuyết về tăng trưởng
kinh tế và các điều kiện tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra
và làm rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế tại Việt
Nam, từ đó, đề xuất với NHNN và Chính phủ những khuyến nghị liên quan đến tín
dụng nhằm hỗ trợ tốt nhất cho tăng trưởng kinh tế.
3. Phạm vi nghiên cứu
Tăng trưởng kinh tế là kết quả của nhiều nhân tố khác nhau, bao gồm nhân
tố vốn, nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ… Tuy nhiên, trong
phạm vi bài nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu muốn nhấn mạnh đến vai trò của
vốn đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Về mặt lý luận, nhóm nghiên cứu về mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng
và tăng trưởng kinh tế.

Về mặt thực tế, nhóm sử dụng số liệu trong giai đoạn 2001 – 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài nghiên cứu, nhóm nghiên cứu sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
khác nhau để rút ra kết luận về mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng
trưởng kinh tế bao gồm: thống kê, tổng hợp, diễn dịch và mô hình kinh tế lượng
với số liệu thứ cấp được thu thập từ Tổng cục thống kê, NHNN và các nguồn khác.
8
5. Kết cấu đề tài
Chương 1: Cơ sở lý luận cho việc đánh giá mối quan hệ giữa tín dụng ngân
hàng và tăng trưởng kinh tế.
Hệ thống hóa lý thuyết về tăng trưởng kinh tế và đưa ra cơ sở lý luận về mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tín dụng ngân hàng. Từ đó, khẳng định tín
dụng là điều kiện tăng trưởng tại các quốc gia đang phát triển.
Chương 2: Thực trạng tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế Việt
Nam giai đoạn 2001 – 2012
Nghiên cứu đặc điểm tăng trưởng kinh tế Việt Nam, khẳng định tín dụng
ngân hàng là điều kiện để tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, xây dựng mô hình kinh
tế lượng để khảo sát định lượng mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng
trưởng kinh tế. Kết quả khảo sát cho thấy tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh
tế có mối quan hệ thuận chiều với nhau, song sự ảnh hưởng của tăng trưởng tín
dụng tới tăng trưởng kinh tế đã bị suy giảm trong giai đoạn 2007 – 2012, đặt ra
những yêu cầu cấp bách trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tín dụng ngân
hàng.
Chương 3: Khuyến nghị điều chỉnh tín dụng ngân hàng hướng tới mục tiêu
tăng trưởng kinh tế bền vững
Đưa ra những khuyến nghị với Chính phủ và NHNN trong việc thực hiện
khơi thông nguồn vốn tín dụng và nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng nhằm
hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững. Các khuyến nghị này được đưa
ra trong bối cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay dựa trên mối quan hệ giữa tín dụng
ngân hàng và tốc độ tăng trưởng kinh tế.

9
CHƯƠNG 1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC ĐÁNH GIÁ MỐI QUAN HỆ
GIỮA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.1. Các vấn đề về tăng trưởng kinh tế
1.1.1 Khái niệm và bản chất của tăng trưởng kinh tế
1.1.1.1 Khái niệm tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng
sản phẩm quốc dân (GNP) trong một thời gian nhất định.
Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản sản
phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng
được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định
(thường là một năm tài chính).
Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng
tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước
trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân bằng
tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập ròng.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng tổng sản phẩm mà nền kinh tế tạo ra theo
thời gian hay là sự tăng lên về số lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ trong nền
kinh tế. Vì vậy, nó tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển nói chung và là cơ sở để
thực hiện hàng loạt các vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội.
GDP - tổng sản phẩm trong nước đồng thời phản ánh tổng thu nhập nhận
được và tổng chi tiêu của nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế làm tăng thu nhập của
người dân, tăng mức thỏa mãn trong xã hội: các điều kiện sống như nhà ở, thức ăn,
quần áo, cũng như các dịch vụ y tế, văn hóa, giáo dục, Qua đó, phúc lợi xã hội
và chất lượng cuộc sống không ngừng được cải thiện.
10
Như vậy, về bản chất, tăng trưởng kinh tế không chỉ là sự tăng lên của tổng
sản phẩm hàng hóa dịch vụ trong một thời kỳ nhất định mà còn là sự gia tăng của
mức sản xuất của xã hội, từ đó làm thỏa mãn nhu cầu vật chất của mỗi cá nhân,
hay chính là sự tăng lên về phúc lợi xã hội, chất lượng cuộc sống mà mỗi cá nhân

được hưởng. Từ đó, tạo ra sự ổn định kinh tế vĩ mô, tạo cơ sở phát triển cho các
hoạt động văn hóa, chính trị, xã hội khác.
Tăng trưởng kinh tế cao đồng nghĩa với sự tăng lên nhanh hơn về quy mô
nền kinh tế. Đây là điều kiện tiên quyết để mỗi quốc gia duy trì được vị trí dẫn đầu
hoặc đuổi kịp các nền kinh tế đã phát triển khác, để các nước đang phát triển khắc
phục sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với những nước đã phát triển trên thế giới.
Tuy nhiên, tăng trưởng nhanh không phải bằng mọi giá. Tăng trưởng kinh tế
quá nóng sẽ gây lạm phát cao, nền kinh tế có biến động lớn và khó kiểm soát, đặc
biệt với các nước đang phát triển với trình độ quản lý còn yếu kém. Vì vậy, những
người điều hành, quản lý Nhà nước cần có chiến lược rõ ràng, kết hợp hài hòa các
chính sách kinh tế vĩ mô, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để đạt được mục tiêu
tăng trưởng kinh tế đề ra.
1.1.1.2 Các cấp độ của tăng trưởng kinh tế:
Tùy theo điều kiện khách quan và chủ quan ở mỗi quốc gia, tăng trưởng
kinh tế có những cấp độ khác nhau:
Tăng trưởng theo chiều rộng và tăng trưởng theo chiều sâu
Theo nguồn gốc, tăng trưởng được chia thành hai loại: tăng trưởng theo
chiều rộng và tăng trưởng theo chiều sâu. Tăng trưởng theo chiều rộng, tức là tăng
trưởng dựa vào vốn, tăng lao động và tăng cường khai thác tài nguyên. Đối với các
nước đang phát triển, chiều rộng vẫn là chủ đạo trong yếu tố tăng trưởng do dư địa
với yếu tố vốn còn lớn, lao động khá dồi dào.
11
Tăng trưởng theo chiều sâu thể hiện ở tăng năng suất lao động, hiệu quả sử
dụng vốn sản xuất nâng cao với thước đo tổng hợp năng suất các nhân tố tổng hợp
(TFP) tăng lên. Quan niệm này thích hợp khi nghiên cứu tăng trưởng của các nước
công nghiệp, nơi mà các yếu tố chiều rộng đã được khai thác ở mức cao, nền kinh
tế cần phải phát triển theo chiều sâu.
Tăng trưởng kinh tế bền vững
Năm 2002 Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững tại Nam
Phi đưa ra khái niệm "Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt

chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển, đó là phát triển bền vững về kinh
tế, phát triển bền vững về xã hội và phát triển bền vững về môi trường".
1.1.1.3 Ý nghĩa của tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên nhân
quan trọng là đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế
nhanh thì thất nghiệp có xu hướng giảm. Mối quan hệ giữa tăng trưởng thực tế và
tỷ lệ thất nghiệp ở nước phát triển đã được lượng hoá dưới tên gọi quy luật Okun
(quy luật 2.5% – 1). Quy luật này xác định: nếu GDP thực tế tăng 2.5% so với mức
tiềm năng thì tỉ lệ thất nghiệp giảm đi 1%.
Mặt khác, với tư cách là một chỉ tiêu cơ bản trong phát triển kinh tế – xã hội
ở các quốc gia, tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự lớn lên về quy mô, số lượng
của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, tăng trưởng kinh tế được sử dụng để
đánh giá thành tựu kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia. Do đó, đây luôn là một trong
những mục tiêu thường xuyên hàng đầu mà mỗi quốc gia hướng tới.
Thông qua các chính sách điều tiết nhằm duy trì một tốc độ tăng trưởng kinh
tế ổn định, mang tính bền vững nhằm tạo điều kiện cho sự ổn định kinh tế vĩ mô,
12
nâng cao chất lượng cuộc sống và phúc lợi xã hội, xóa đói giảm nghèo, vai trò
quản lý của Nhà nước ngày càng được khẳng định, góp phần ổn định chính trị,
nâng cao uy tín, sự tín nhiệm của người dân đối với Nhà nước.
Tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với xã hội, nhiều sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ hơn đồng nghĩa với mức độ thỏa mãn lớn hơn. Tuy nhiên,
tăng trưởng không chỉ hiểu đơn thuần là tăng thu nhập bình quân đầu người, mà
phải gắn với phát triển bền vững, chú trọng tới cả ba nhân tố: kinh tế, xã hội và
môi trường. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn, tăng thu nhập cần phải
gắn với tăng chất lượng cuộc sống hay tăng phúc lợi và xóa đói nghèo. Tăng
trưởng không nhất thiết phải đạt tốc độ quá cao, mà chỉ cần cao ở mức hợp lý
nhưng bền vững.
1.1.2 Đo lường tăng trưởng kinh tế

1.1.2.1 Mức tăng trưởng tuyệt đối
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc
độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai
đoạn.
Mức tăng trưởng tuyệt đối (∆Y) là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai
kỳ cần so sánh.
1.1.2.2 Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (g
t
) được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy
mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ
trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %:
13
Trong đó:
∆Y là mức tăng trưởng tuyệt đối.
g
t
là tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Y
t
, Y
t – 1
lần lượt là quy mô nền kinh tế năm t và năm t – 1.
Nếu quy mô nền kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa/thực tế
thì ta sẽ có được tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) danh nghĩa/thực tế tương ứng.
Vì tốc độ tăng trưởng kinh tế đo lường sự gia tăng mức sản xuất – một biến thực tế
nên người ta thường sử dụng chỉ tiêu thực tế hơn là chỉ tiêu danh nghĩa.
1.1.2.3 Thu nhập bình quân đầu người
Tổng sản phẩm của xã hội có thể tăng nhanh thể hiện thông qua tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên, để phản ánh tốt hơn về phúc lợi xã hội, mức sống cao

hơn mà mỗi người dân được hưởng thì người ta sử dụng chỉ tiêu thu nhập bình
quân đầu người. Chỉ tiêu này được tính bằng tổng thu nhập cá nhân trên dân số.
1.1.3. Một số học thuyết và mô hình tăng trưởng kinh tế
Trên thực tế, có rất nhiều lý thuyết và mô hình về tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên, để phục vụ cho đề tài nghiên cứu, nhóm nghiên cứu tập trung đi sâu vào học
thuyết của John Maynard Keynes và mô hình Harrod – Domar về tăng trưởng kinh
tế.
1.1.3.1 Học thuyết John Maynard Keynes về tăng trưởng kinh tế
Trước những thất bại thị trường không thể được giải quyết trong giai đoạn
1929 – 1933, Keynes đã đưa ra lý thuyết “bàn tay hữu hình” có tác động tích cực
14
đưa nền kinh tế thế giới vượt qua khủng hoảng, theo đó khẳng định vai trò điều tiết
của Nhà nước trong quá trình vận hành của nền kinh tế.
Keynes đã đưa ra mô hình tổng cầu (AD):
(1)
Trong đó: Y là tổng lượng cầu về sản phẩm của nền kinh tế, C là chi tiêu
tiêu dùng, I là đầu tư, G là chi tiêu chính phủ, NX là xuất khẩu ròng
Theo đó, để kinh tế tăng trưởng phải làm tăng các biến số trong hàm AD. Để
đảm bảo sự cân bằng kinh tế, khắc phục khủng hoảng và duy trì tăng trưởng thì
không thể chỉ dựa vào sự tự điều tiết của thị trường mà còn cần có sự can thiệp của
Nhà nước vào nền kinh tế để tăng cầu có hiệu quả, kích thích tiêu dùng, sản xuất,
kích thích đầu tư để tăng thu nhập, giảm thất nghiệp. Theo Keynes, Chính phủ có
thể can thiệp vào nền kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng thông qua các hoạt động:
đầu tư Nhà nước, hệ thống tài chính tín dụng và lưu thông tiền tệ, các hình thức
khuyến khích tiêu dùng.
Ngoài ra, Keynes cho rằng đầu tư đóng vai trò quyết định đến quy mô việc
làm và theo đó là tăng trưởng kinh tế. Mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo sự
gia tăng của cầu bổ sung nhân lực, cầu về tư liệu sản xuất, do vậy làm tăng cầu tiêu
dùng, tăng giá hàng hóa, tăng việc làm. Tất cả điều đó làm thu nhập tăng lên. Tăng
thu nhập lại là tiền đề cho sự gia tăng đầu tư mới. Đây chính là quá trình số nhân

đầu tư: tăng đầu tư làm tăng thu nhập, tăng thu nhập làm tăng đầu tư mới; tăng đầu
tư mới làm tăng thu nhập mới – nền kinh tế tăng trưởng. Vì thế số nhân làm cho
thu nhập phóng đại lên nhiều lần. Quá trình này được tính toán như sau:
15
Trong đó, dR là gia tăng thu nhập, dI là gia tăng đầu tư, K là số nhân.
1.1.3.2 Mô hình tăng trưởng Harrod – Domar
Mô hình Harrod – Domar giải thích mối quan hệ giữa sự tăng trưởng và thất
nghiệp ở các nước phát triển và được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển
để xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và các nhu cầu về vốn.
Mô hình đã đưa ra các giả định: Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn
chế với cung lao động và sản xuất tỷ lệ với khối lượng máy móc.
Nếu gọi đầu ra là Y, tỷ lệ tăng trưởng của đầu ra là g:
Nếu gọi S là mức tích lũy của nền kinh tế thì tỷ lệ tích lũy (s) trong đầu tư sẽ
là:
Vì tiết kiệm là nguồn đầu tư của đầu tư, nên về mặt lý thuyết đầu tư luôn
bằng tiết kiệm (St = It), do đó cũng có thể viết:
Mục đích của đầu tư là để tạo ra vốn sản xuất, nên I
t
= K
t
. Nếu gọi k là tỷ số
gia tăng giữa vốn và sản lượng (còn gọi là hệ số ICOR), ta có:
16
Do đó chúng ta có:
Ở đây k được gọi là hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn đầu ra). Hệ số này nói
lên rằng: vốn được tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản của tăng trưởng; tiết kiệm
của nhân dân và các công ty là nguồn gốc của đầu tư.
Theo mô hình này, với một mục tiêu tăng trưởng định trước và tỷ lệ vốn –
sản lượng đã biết, sẽ tính được tỷ lệ tiết kiệm cần thiết trong nền kinh tế.
Theo Keynes, số nhân làm phóng đại thu nhập: k = dR/dI – cho thấy đầu tư

cho doanh nghiệp (I) tạo ra tăng tổng thu nhập xã hội. Theo đó, vốn đóng vai trò
quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế.
Trong khi đó, mô hình Harrod – Domar lại cho thấy mối quan hệ thuận
chiều giữa mức tích lũy của nền kinh tế (S) và tăng trưởng kinh tế: g=S/k. Ở đây
có một giả định quan trọng là S=I. Tiết kiệm, mức tích lũy của nền kinh tế là
nguồn chính cấp vốn cho đầu tư sản xuất kinh doanh, tuy nhiên trên thực tế, nguồn
vốn không phải luôn chuyển hoàn toàn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn do nó
cần thông qua hệ thống tài chính và do đó phụ thuộc vào hoạt động của hệ thống
này trong hoàn cảnh cụ thể. Như vậy, một nền kinh tế kinh tế sẽ tăng trưởng nhanh
khi có một cơ chế hiệu quả chuyển tiết kiệm, tích lũy thành đầu tư, qua đó cấp vốn
cho hoạt động sản xuất, tạo ra giá trị.
17
Như vậy, xét về mặt bản chất, học thuyết của J.M Keynes và mô hình tăng
trưởng của Harrod – Dormar là giống nhau, và đều dẫn đến kết luận, vốn là điều
kiện quan trọng để tăng trưởng kinh tế.
1.2. Điều kiện của tăng trưởng kinh tế
Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các
nước đang phát triển, những nhà kinh tế học đều thống nhất rằng động lực của phát
triển kinh tế phải được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng
kinh tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này
khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến
kết quả tương ứng.
1.2.1 Các điều kiện của tăng trưởng kinh tế
1.2.1.1 Tài nguyên thiên nhiên
Là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển, những tài nguyên quan trọng
nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và nguồn nước. Đối với hầu
hết các nước, việc tích lũy vốn đòi hỏi một quá trình lâu dài, gian khổ liên quan
chặt chẽ với tiêu dùng trong nước và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Tuy nhiên,
có nhiều quốc gia, nhờ những ưu đãi của tự nhiên có nguồn tài nguyên lớn, đa dạng
nên có thể rút nhắn quá trình tích lũy vốn bằng cách khai thác các sản phẩm thô để

bán hoặc để đa dạng hóa nền kinh tế tạo nguồn tích lũy vốn ban đầu cho sự nghiệp
công nghiệp hóa đất nước.
Nguồn TNTN thường là cơ sở để phát triển một số ngành công nghiệp khai
thác, công nghiệp chế biến và cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành kinh tế khác,
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Sự giàu có về tài nguyên, đặc biệt
về năng lượng giúp cho một quốc gia ít bị lệ thuộc hơn vào các quốc gia khác và
18
có thể tăng trưởng một cách ổn định, độc lập khi thị trường tài nguyên thế giới bị
rời vào trạng thái bất ổn.Tuy nhiên, các nước sản xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ
không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú không
quyết định một quốc gia có thu nhập cao. Nhật Bản là một nước gần như không có
tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng
lao động, tư bản, công nghệ cao nên vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới
về quy mô.
1.2.1.2 Nguồn nhân lực
Hầu hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể
mua hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự.
Các yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có
thể phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức
khỏe và kỷ luật lao động tốt. Những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần đây
đã nhấn mạnh đế khía cạnh phi vật chất của lao động đó là các lao động có kĩ năng
sản xuất, năng lực chuyên môn, khả năng sáng tạo. Lao động ngày càng trở nên có
vai trò quan trọng với tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia khi mà
nền kinh tế thế giới đang dần bước vào nền kinh tế tri thức.
1.2.1.3 Công nghệ
Tăng trưởng kinh tế rõ ràng không phải là sự sao chép giản đơn, là việc đơn
thuần chỉ tăng thêm lao động và tư bản, ngược lại, nó là quá trình không ngừng
thay đổi công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao
động và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình sản xuất có hiệu
quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay công nghệ

thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, có những bước tiến như
vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất. Tuy nhiên, thay đổi công nghệ
19
không chỉ thuần túy là việc tìm tòi, nghiên cứu; công nghệ có phát triển và ứng
dụng một cách nhanh chóng được là nhờ "phần thưởng cho sự Đổi Mới" – sự duy
trì cơ chế cho phép những sáng chế, phát minh được bảo vệ và được trả tiền một
cách xứng đáng.
1.2.1.4 Vốn
Vốn là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng
trưởng kinh tế. Tùy theo mức độ tư bản mà người lao động được sử dụng những
máy móc, thiết bị nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng
cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng
cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc
gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng cao và bền
vững. Thực tế cho thấy, vốn là động lực chính của tăng trưởng tại các quốc gia
đang phát triển, tại các quốc gia này so với các yếu tố khác, vốn chiếm tỷ trọng cao
nhất. Lý giải cho điều này đó là bởi những nước này đang từ quá trình sản xuất
công nghiệp nhỏ tiến lên công nghiệp hóa và tăng quy mô vốn gần như là cách
nhanh nhất để tăng tốc quá trình này. Việc yếu tố vốn đóng vai trò lớn đối với tăng
trưởng kinh tế cũng thể hiện sự tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng của các nước
đang phát triển.
Như vậy, tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, công nghệ và vốn là bốn
yếu tố chính của tăng trưởng kinh tế và có ý nghĩa quyết định tới tăng trưởng kinh
tế của một quốc gia. Trên thực tế, hiện nay bên cạnh những yếu tố này, có một yếu
tố khá được quan tâm khi bàn về tăng trưởng. Đó là năng suất yếu tố tổng hợp –
Total Factor Productivity (TFP) phản ánh sự đóng góp của các yếu tố vô hình như
kiến thức – kinh nghiệm – kỹ năng lao động, cơ cấu lại nền kinh tế hay hàng hoá –
dịch vụ, chất lượng vốn đầu tư mà chủ yếu là chất lượng thiết bị công nghệ, kỹ
20
năng quản lý Tác động của nó không trực tiếp như năng suất bộ phận mà phải

thông qua sự biến đổi của các yếu tố hữu hình, đặc biệt là lao động và vốn. Nếu
như hai nhân tố vốn và lao động được xem như các yếu tố vật chất tác động tới
tăng trưởng kinh tế và được coi là nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng thì TFP
được coi là yếu tố phi vật chất tác động tới tăng trưởng và được coi là nhân tố
tăng trưởng theo chiều sâu và thể hiện chất lượng tăng trưởng. Thực tế cho thấy,
tại các nước phát triển đóng góp của TFP vào tăng trưởng thường cao nhất (trên
50%) trong khi tại các nước đang phát triển, vốn và lao động lại đóng góp nhiều
nhất vào tăng trưởng, đặc biết là yếu tố vốn. Hiện nay, trong quá trình Đổi Mới và
mở cửa, chất lượng tăng trưởng của những nước này đang dần được cải thiện với
sự gia tăng sự đóng góp của TFP song vốn vẫn đóng vai trò chủ yếu trong việc tạo
ra tăng trưởng.
Trong các nhân tố tác động trực tiếp tới tăng trưởng kinh tế, nhóm nghiên
cứu muốn nhấn mạnh đến vai trò của nhân tố vốn, đây là nhân tố có tầm quan
trọng trong việc gia tăng sản lượng của mỗi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang
phát triển. Bởi vốn không chỉ tác động trực tiếp tới tăng trưởng kinh tế mà còn có
thể thúc đẩy các nhân tố khác, ví dụ vốn đầu tư cho khoa học công nghệ hay đào
tạo nguồn nhân lực sẽ nâng cao chất lượng lao động và hiệu quả sử dụng lao động
từ đó gia tăng năng suất yếu tố tổng hợp TFP.
Vai trò của vốn đối với tăng trưởng kinh tế đã được phân tích khi xem xét
mô hình tăng trưởng Harrod – Domar, vai trò này được thể hiện thông qua vai trò
của tiết kiệm và đầu tư. Nguồn vốn để đầu tư được hình thành từ tiết kiệm trong
nước (tiết kiệm tư nhân và tiết kiệm chính phủ) và tiết kiệm nước ngoài (FDI, FPI,
ODA, vay thương mại). Tiết kiệm trong nước là nguồn vốn tích lũy từ nội bộ nền
kinh tế là nguồn vốn để chủ động đầu tư và phát triển ổn định và không phụ thuộc
vào nước ngoài.
21
Ở các nước công nghiệp, việc tăng đầu vào vốn thường chiếm khoảng một
nửa mức tăng tổng thu nhập, sự nổi lên nhanh chóng của “những con rồng châu Á”
với “sự tăng trưởng diệu kì” gắn liền với mức tiết kiệm và đầu tư cao cả về vốn vật
chất và con người.

Quốc gia
Giai đoạn 1990 – 2000 Giai đoạn 2000 – 2008
Các yếu tố tạo ra tăng trưởng Các yếu tố tạo ra tăng trưởng
Vốn
Lao
động
TFP Vốn
Lao
động
TFP
Tỷ trọng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế
Trung Quốc 36% 7% 54% 42% 6% 52%
Ấn Độ 40% 23% 38% 42% 22% 36%
Việt Nam 34% 22% 44% 53% 19% 28%
Campuchia 38% 34% 27% 47% 39% 14%
Bảng 1. Tỷ trọng đóng góp của các yếu tố tới tăng trưởng kinh tế ở một số quốc
gia
Nguồn: số liệu của WDI, tính toán của ACI
Nhìn bảng số liệu có thể thấy vốn cũng đóng góp một tỷ lệ cao đối với tăng
trưởng và có xu hướng gia tăng trong giai đoạn 2000 – 2008 tại Trung Quốc và Ấn
Độ, hai nền kinh tế mới nổi và ngày càng có ảnh hưởng đối với kinh tế thế giới.
Trong các trụ cột của tăng trưởng kinh tế, vốn là yếu tố quan trọng nhất đối
với các quốc gia đang phát triển. Vì vậy, việc huy động và tận dụng vốn một cách
hiệu quả nhất, hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững luôn là vấn đề
được các quốc gia quan tâm.
22
1.2.2 Nguồn vốn đối với tăng trưởng kinh tế: Tín dụng ngân hàng
1.2.2.1 Các kênh huy động vốn cho nền kinh tế
Tiết kiệm là nguồn hình thành nên vốn đầu tư, tiết kiệm được chuyển thành
đầu tư càng nhanh và hiệu quả thì càng đẩy nhanh sự gia tăng thu nhập quốc dân.

Thực tế cho thấy một phần tiết kiệm được chuyển thành đầu tư do các cá nhân và
doanh nghiệp sử dụng phần tiết kiệm của mình để tự tài trợ mở rộng sản xuất, phần
còn lại được thực hiện thông qua hệ thống tài chính.
Hệ thống tài chính, với đặc trưng là là sự hiện diện của các định chế tài
chính và thị trường tài chính (bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường tín dụng – ngân
hàng, thị trường chứng khoán (thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu), có vai trò
quan trọng trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh
tế. Sự phát triển lành mạnh của hệ thống tài chính là một nhân tố thiết yếu đảm bảo
ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, và góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Hình 1.1. Sơ đồ vai trò của hệ thống tài chính
23
Việc kết nối người tiết kiệm và người đi vay bằng cả hai con đường trực tiếp
và gián tiếp thông qua các trung gian tài chính, hệ thống tài chính đã tạo ra cách
thức hữu hiệu để chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
Tài chính trực tiếp được thực hiện bằng cách những người cần vốn bán ra
các công cụ nợ, cổ phiếu, các món vay thế chấp, những người có vốn sẽ dùng tiền
của mình để mua các giấy tờ có giá đó và như vậy vốn được dẫn trực tiếp từ người
có vốn sang người cần vốn.
Tài chính gián tiếp với sự tham gia của các trung gian tài chính, họ huy động
vốn từ người có vốn bằng nhiều hình thức để tạo vốn kinh doanh cho mình sau đó
sử dụng vốn đó để cho vay lại hoặc đầu tư hình thức khác. Bằng cách này các trung
gian tài chính đã tập trung được các nguồn vốn nhỏ từ các hộ gia đình, các tổ chức
kinh tế thành một lượng vốn lớn đáp ứng nhu cầu của những người cần vốn từ
những khối lượng vay nhỏ đến khối lượng vay lớn. Vì vậy, các trung gian tài chính
phục vụ nhu cầu hoạt động tài chính trực tiếp không đáp ứng được hoặc giải quyết
không hiệu quả.
1.2.2.2 Tín dụng ngân hàng đối với tăng trưởng kinh tế tại các nước đang
phát triển
Tại các quốc gia đang phát triển, một đặc điểm chung là nhu cầu vốn rất lớn

để đáp ứng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, song các kênh cung cấp
vốn lại chưa thực sự phát triển để đáp ứng được nhu cầu này. Thực vậy, kênh tài
chính trực tiếp là thị trường chứng khoán tại các quốc gia này mới hình thành và
còn tồn tại nhiều bất cập, mặc dù có những đóng góp nhất định trong việc huy
động vốn cho nền kinh tế nhưng rất nhỏ. Thị trường chứng khoán vẫn chưa thể trở
thành động lực tăng trưởng chính của các quốc gia này, tại đây thị trường này
giống như một thị trường đầu cơ hơn là tạo ra một kênh dẫn vốn hiệu quả.
24
Một đặc điểm nữa của các nước đang phát triển là doanh nghiệp vừa và nhỏ
chiếm tỷ trọng lớn nhất và đóng góp nhiều nhất vào tổng sản phẩm quốc dân. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại rất khó huy động vốn từ việc phát hành trái
phiếu hay cổ phiếu do để được huy động vốn từ các kênh này cần đạt tới quy mô
vốn nhất định cũng như có uy tín và niềm tin với công chúng. Đi vay các ngân
hàng sẽ là lựa chọn phù hợp nhất với các doanh nghiệp này khi mà họ tìm kiếm
nguồn tài trợ ngoài vốn tự có. Ngay cả đối với các công ty quy mô lớn, việc vay
vốn ngân hàng vẫn sẽ là một trong những lựa chọn hàng đầu do việc huy động từ
thị trường chứng khoán không hiệu quả và việc sử dụng nợ đứng trên giác độ chi
phí sẽ giúp cho doanh nghiệp hưởng lợi từ lá chắn thuế. Thông qua việc cung ứng
vốn cho các doanh nghiệp để đầu tư, sản xuất, kinh doanh, tín dụng ngân hàng thúc
đẩy việc gia tăng sản lượng của nền kinh tế. Ngoài ra, trong quá trình cung cấp tín
dụng cho doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung các ngân hàng sẽ tham
gia giám sát quá trình sử dụng vốn từ đó làm tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn tín
dụng từ đó làm tăng hiệu quả sử dụng vốn tính cho cả nền kinh tế.
1.3 Tín dụng ngân hàng và tăng trưởng kinh tế tại một số quốc gia trên
thế giới.
Thực tế các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ, đằng sau thành
tích tăng trưởng ấn tượng là sự đóng góp không nhỏ của tín dụng ngân hàng. Trong
suốt thời gian qua, các quốc gia này có tốc độ tăng trưởng tín dụng khá cao và
được duy trì trong một thời gian tương đối dài cho thấy sự mở rộng liên tục của tín
dụng ngân hàng tại các quốc gia này. Tín dụng ngân hàng đã cung cấp một nguồn

vốn lớn cho các hoạt động kinh tế và từ đó góp phần tạo ra tốc độ tăng trưởng cao
cho hai nền kinh tế này.
1.3.1 Trung Quốc
25
Trung Quốc là quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới, trung
bình cho cả giai đoạn 1990 – 2010 là 10%/năm, tính riêng giai đoạn 2000 – 2010 là
10.3%/năm trong đó nhiều năm liền duy trì tăng trưởng hai con số. Tính đến nay là
quốc gia duy trì được số năm tăng trưởng dài nhất (35 năm) với tốc độ cao và liên
tục. Với xuất phát từ một nền kinh tế lạc hậu, giờ đây, Trung Quốc đã trở thành
nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và ngày càng có những ảnh hưởng sâu rộng tới kinh
tế khu vực và thế giới.
Hình 1.2. Tôc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và thế giới 1980 – 2012.
Nguồn: IMF
Nhìn biểu đồ trên có thể thấy, Trung Quốc luôn duy trì tăng trưởng cao và
liên tục suốt từ những năm 1980, đặc biệt từ thập kỉ 90 trở lại đây, tốc độ tăng
trưởng thường xuyên ở mức hai con số và vượt xa so với tốc độ tăng trưởng trung
bình của thế giới. Ngay cả trong giai đoạn 2008 – 2009, khi khủng hoảng tài chính
toàn cầu nổ ra, kinh tế thế giới rơi vào suy thoái với tốc độ tăng trưởng bình quân
gần về 0% thì kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng cao (đạt 8.9% năm 2009). Để có
được những kết quả trên, vốn là yếu tố không thể thiếu, đặc biệt là tín dụng ngân
hàng. Tại đây, mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế luôn

×