Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ HỌC TỐT MÔN LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.74 KB, 40 trang )

Bài tập nghiên cứu khoa học
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH BẮC GIANG
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGÔ GIA TỰ BẮC GIANG
BÀI TẬP
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ HỌC TỐT MÔN LÀM
QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC
Người hướng dẫn: Nguyễn Thị Yến
Người thực hiện : Nguyễn Thị Trường
Lớp: K3A(07) – Hiệp Hòa.
Hiệp Hòa, tháng 4 năm 2014
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
1
Bài tập nghiên cứu khoa học
LỜI NÓI ĐẦU
Như chúng ta đã biết giáo dục mầm non là một bộ phận trong hệ thống
giáo dục toàn quốc, thực hiện nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ từ 3 tháng
đến 6 tháng tuổi, mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển toàn
diện cácr về đức, trí, thể, mỹ, giáo dục mần non là mắt xích đầu tiên trong hệ
thống giáo dục quốc dân, nó có tầm quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và
đào tạo, khởi đầu cho sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Nhiều
nhà nghiên cứu tâm sinh lý đã chứng minh rằng những năm đầu tiên của
cuộc đời con người hình thành tương đối đầy đủ cả về thể chất lẫn tinh thần:
“ Uốn cây từ thủa còn non
Dạy con từ thủa con còn bé thơ”
Vì vậy, các cháu phải được chăm sóc, nuôi dậy, uốn nắn ngay từ thủa
nhỏ, ở lứa tuổi này trẻ luôn học hỏi, bắt chước người lớn về mọi mặt. Do
vậy, đòi hỏi người giáo viên mầm non phải có trình độ, năng lực nắm vững
được đặc điểm tâm, sinh lý của trẻ, cô giáo phải gần gũi, yêu thương trẻ để
thu hút trẻ trong việc học tập.
Giáo dục có tầm quan trọng rất lớn đối với đời sống con người nhất là


tuổi mầm non. Mỗi chúng ta đều được lớn lên từ những tiếng du dịu ngọt
của ông bà, cha mẹ, ngay từ lúc chào đời những tiếng du êm dịu của bà, của
mẹ lại cất lên “Cháu ơi cháu ở với bà” hoặc “con cò lặn lội bờ sông”… đã
tan biến vào hồn ta và cùng ta lớn dậy. Lớn lên chút nữa ta lại được bay
bổng trong thế giới cổ tích như được vui chơi những trò chơi gắn với những
câu ca dao, đồng dao “chi chi chành chành” hay “Nu na nu nống”.
Làm quen với văn học là bước đầu hình thành cho trẻ những hành vi
văn hóa, phẩm chất đạo đực cao đẹp của người Việt Nam, nó giúp trẻ có một
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
2
Bài tập nghiên cứu khoa học
số thói quen về chuẩn mực và mẫu hành vi đơn giản, biết phân biệt cái thiện
và điều ác. Văn học làm phong phú thêm vốn từ cho trẻ, giúp cho ngôn ngữ
của trẻ phát triển một cách thuận lợi. Đặc biệt là sự giao tiếp của trẻ với bản
thân và những người xung quanh, với gia đình và xã hội.
Chính vì lẽ đó, việc tổ chức cho trẻ mầm non làm quen với các tác
phẩm văn học là hết sức quan trọng và cần thiết, bởi vì: Thông qua văn học
giúp cho trẻ nhận biết được thế giới xung quanh, mở rộng vốn hiểu biết của
trẻ đối với thiên nhiên và cuộc sống xung quanh, thông qua đó mà trẻ tích
lũy được những kinh nghiệm sống. Nhận thức được tầm quan trọng của văn
học đối với trẻ thơ tôi manh dạn chọn đề tài: Tìm hiểu một số biện pháp giúp
trẻ học tốt môn làm quen với tác phẩm văn học ở trong trường mầm non. Từ
đó đề xuất phương pháp tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm
văn học ở trường mầm non hiện nay. Với mục đích giúp trẻ cảm nhận ngôn
ngữ, nghệ thuật của thơ, truyện và biết thể hiện nó bằng chính ngôn ngữ,
hành động của mình.
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I.Lý do chọn đề tài:
1.Cơ sở lý luận:
Văn học là một môn học rất quan trọng đối với trẻ Mầm non, nó có khả

năng phát triển ngôn ngữ một cách hữu hiệu nhất, diễn đạt ngắn gọn, biết sử
dụng từ đúng lúc, đúng chỗ không những thế mà việc dậy trẻ làm quen với
những từ ngữ nghệ thuật như từ tượng hình, từ tượng thanh giúp trẻ phát
triển trí tưởng tượng, óc quan sát, khả năng tư duy độc lập trong suy nghĩ.
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
3
Bài tập nghiên cứu khoa học
Thông qua nội dung các tác phẩm có rút ra bài học giáo dục trẻ biết yêu
quý người hiền lành, biết ơn và kính yêu ông bà, bố mẹ, anh chị, bạn bè, biết
nhường nhịn em nhỏ.
Xuất phát từ những vai trò cụ thể đó cho nên hoạt động dậy trẻ làm
quen với văn học là môn học không thể thiếu trong chương trình chăm sóc
giáo dục trẻ. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng dậy trẻ làm quen với tác phẩm
văn học là vấn đề quan trọng trong đổi mới hình thức tổ chức giáo dục mầm
non.
Làm quen với tác phẩm văn học chỉ ra mức độ, giới hạn, yêu cầu của
việc cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học qua nghệ thuật đọc và kể chuyện
của cô giáo hoạt động này nhằm dẫn dắt, hướng dẫn trẻ cảm nhận những giá
trị nội dung, nghệ thuật phong phú trong tác phẩm, khơi gợi cho trẻ sự dung
động, hứng thú đối với văn học, có ấn tượng về những hình tượng nghệ
thuật, cái hay cái đẹp của tác phẩm và thể hiện sự cẩm nhận đó qua các hoạt
động mang tính chất văn học nghệ thuật như: đọc thơ, kể chuyện, chơi trò
chơi đóng kịch. Cao hơn là tiến tới sáng tạo ra những vần thơ, câu truyện
theo tưởng tượng của mình góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân
cách trẻ.
Trong mỗi tác phẩm văn học, thế giới mới của cuộc sống thực tại bao
gồm thiên nhiên, xã hội, con người được diễn tả, biểu đạt, truyền đạt trong
những hình thức đa dạng độc đáo. Văn học nói về thế giới loài vật, cỏ cây,
hoa lá, mội hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ mà trẻ nhìn thấy được, cũng nói về
những gì gần gũi trong môi trường sống của trẻ như làng quê, cánh đồng,

dòng sông, phiên chợ, lớp học, khu phố…Qua tác phẩm văn học trẻ bắt đầu
nhận ra trong xã hội những mối quan hệ, những tình cảm gia đình, tình bạn,
tình cô cháu…trẻ cũng dần nhận ra có một xã hội ràng buộc con người với
nhau trong lịch sử đấu tranh cách mạng, trong tình làng nghĩa xóm. Văn học
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
4
Bài tập nghiên cứu khoa học
có thể đề cập đến những lực lượng siêu nhiên như thần linh, ông bụt, cô tiên,
phù thủy, quỷ sứ và cả những phép màu còn tồn đọng trong tâm thức dân
tộc. Đây cũng là đối tượng miêu tả của văn học làm nên sự phong phú, hấp
dẫn của đời sống tinh thần.
Nhờ được nghe, tiếp xúc với một số lượng văn học, có những hiểu biết
sơ đẳng về văn học, đó là khả năng mô tả về cuộc sống xung quanh phong
phú hấp dẫn bằng những dạng thức khác nhau. Bước đầu trẻ sẽ nhận biết
được sự khác nhau về nội dung và hình thức giữa các thể loại thơ, truyện.
Không những giúp trẻ cảm nhận được cái đặc sắc của cách diễn đạt hình
tượng, nhà sư phạm cần giúp trẻ phân biệt được hình tượng nghệ thuật với
hiện thực,hình thành một số khái niệm văn học như: Thơ, truyện, nhân vật,
hình ảnh…giúp trẻ trao đổi những điều đã được nghe và bộc lộ những suy
nghĩ của mình về tác phẩm, nhằm phát triển đời sống tinh thần của trẻ.
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, cần giúp trẻ nhận biết
được các mối quan hệ biểu hiện giữa hoàn cảnh, trạng thái, tình huống và
nhân vật, giữa lời kể, lời thuật, lời bạch trữ tình và ngôn ngữ nhân vật. Giữa
không khí, âm sắc, giọng điệu chung của tác phẩm văn học và hành động
văn học.Chưa yêu cầu trẻ phải nhớ hết mối quan hệ phức tạp và chưa đòi hỏi
trẻ phân biệt quan hệ chính, phụ trong truyện mà chỉ nhằm giúp trẻ nhận ra
tính liên tục của cốt truyện trong các mối liên quan đến nhân vật trung tâm
của tác phẩm.
Với truyện kể, ta hãy giúp trẻ nhận ra, nhớ được sắc thái cơ bản trong
giọng kể, lời thuật, phân biệt ngữ điệu lời nói các loại nhân vật, giúp trẻ

nhận ra ngôn ngữ đời thường (khẩu ngữ) và ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính.
Qua tác phẩm văn học, trẻ quen dần tính chất nhiều ý nghĩa và tinh luyện
của ngôn ngữ văn hóa, dần dần tiến tới hiểu được nghĩa thực đến nghĩa
bóng, từ nghĩa văn cảnh đến ý tưởng nhà văn muốn truyền đặt.
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
5
Bài tập nghiên cứu khoa học
Khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học góp phần mở rộng nhận
thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn
ngữ, phát triển ở trẻ hứng thú “ đọc sách” kỹ năng đọc và kể tác phẩm.
Sức mạnh của tác phẩm văn học rất là to lớn. Trong quá trình cho trẻ
tiếp xúc với tác phẩm bằng tài năng sư phạm cùng với nghệ thuật đọc và kể
truyện văn học, cô giáo ở trường mầm non sẽ hướng trẻ vào những vẻ đẹp
nội dung và nghệ thuật tác phẩm, gây ấn tượng đầu tiên cho trẻ về hình
tượng nghệ thuật được xây dựng bằng ngôn ngữ dân tộc.
Cần phải dạy trẻ biết lắng mình với tác phẩm văn học, hòa vào cõi
mộng mơ, trau dồi thói quen đón nhận được các hòa âm tinh tế thoáng qua,
bất chợt đến từ các nguồn sống khác, nghĩa là dạy trẻ tập trung rung động,
cái rung động của mình chứ không phải của người khác.
Tác phẩm văn học thể hiện hiện thực cuộc sống bằng hình tượng nghệ
thuật. Bằng sức mạnh của tính hình tượng, sự biểu cảm của ngôn ngữ, những
hình tượng con người, con vật, bức tranh thiên nhiên được vẽ lên bằng ngôn
ngữ đã tác động mạnh mẽ đến trẻ em. Ấn tượng trẻ thu nhận từ tác phẩm văn
học khi nghe đọc, kể tác phẩm vào trình độ phát triển nhận thức thẩm mĩ của
trẻ vào khả năng cảm nhận văn học trong sự thống nhất giữa hình thức nội
dung và nghệ thuật tác phẩm. Chúng ta đều nhận thấy rằng, trẻ mẫu giáo có
khả năng cảm nhận nghệ thuật trong thể hoàn chỉnh, thống nhất giữa nội
dung và hình thức tác phẩm bằng cách nghe người lớn đọc và kể tác phẩm.
Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học nhà sư phạm cần hướng trẻ đến
vẻ đẹp mang “bản chất người” của hình tượng văn học. Vẻ đẹp của tính

người trong cá nhân đơn nhất ở văn học trẻ em có thể nhận ra từ cách cư xử
tế nhị, nhân hậu giũa đồng loại (Bác gấu đen và hai chú Thỏ) trong sự thành
thực đối với bản thân và người khác, trong cử chỉ biết ơn…cần dạy trẻ nghệ
thuật tự đặt mình vào chỗ đứng và tình thế của người khác như hiểu được sự
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
6
Bài tập nghiên cứu khoa học
cực nhọc của mẹ, nỗi ưu tư của cha, hiểu sự cô đơn nghèo khó của bạn bè,
nỗi bất hạnh của con người, rồi tận tình làm nhẹ vơi đi gánh nặng đó. Từ
những vẻ đẹp nhỏ nhặt từng ngày trong cư xử mang “tính người” ấy sẽ nảy
sinh ra hành động cao thượng, nhân ái vì con người.
Làm quen với tác phẩm văn học còn bao hàm công việc cô giáo tổ chức
để trẻ hứng thú bước vào hoạt động văn học một cách tự nhiên như đọc thơ
diễn cảm, kể lại truyện một cách sáng tạo, hóa thân vào các vai diễn trong
trò chơi đóng kịch…. để trẻ trở thành một cách chủ thể hoạt động văn học
nghệ thuật một cách tích cực sáng tạo.
Việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học tuy mới chỉ là như vậy
nhưng nó là việc làm cao cả, có ý nghĩa lớn trong việc hình thành ở trẻ
những phẩm chất cao quý, đẹp đẽ của con người, đặc biệt là tình yêu đối với
ngôn ngữ nghệ thuật bản chất giàu xúc cảm và tình cảm là nét tâm lý nổi bật
của trẻ thơ khiến trẻ nhanh chóng bộc lộ cảm xúc, tình cảm khi nghe đọc và
nhận thấy sự thể hiện của cô giáo. Khả năng tự chủ, tự vệ của trẻ rất mong
manh cho nên những hình tượng nghệ thuật tác động đến trẻ vô cùng mạnh
mẽ, tính rễ xúc cảm có thể làm nên một cảnh tượng thương tâm nào đó. Hay
mọi hành động của nhân vật, hình ảnh, tiếng nói có tính hài hước đều gây
được tính hứng khởi. Chẳng hạn khi cô cho trẻ làm quen với truyện “Tấm
cám” những chi tiết thể hiện tiếng khóc của tấm trong tác phẩm đều gây cho
trẻ cảm xúc mạnh mẽ. Đó là tiếng khóc “nức nở” khi bị cám lừa chút sạch
giỏ cá, tôm. Là tiếng “òa” lên khóc khi bống , người bạn thân thiết khi bị mẹ
con cám làm thịt, là tiếng òa khóc “tức tưởi” lúc nhặt thóc với gạo, là nỗi tủi

thân, tủi phận “tấm bưng mặt khóc”. Trẻ thể hiện nỗi lo lắng, thương tâm
với nhân vật. Khi cô kể đến đoạn tấm thử hài, được về cung làm hoàng hậu
trẻ vui mừng, thốt lên phấn khởi…
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
7
Bài tập nghiên cứu khoa học
Tiếp nhận của trẻ là tiếp nhận ngây thơ, triệt để. Trong tiếp nhận văn
học trẻ thường vận dụng kinh nghiệm trực tiếp và nguyên hợp, không phân
biệt sự khác nhau giữa chúng. Trẻ em không đòi hỏi lí lẽ mà đòi hỏi sự hợp
lí về tình cảm trong khuôn khổ hạn hẹp của mình. Cho nên giáo viên khi giải
thích cho trẻ cần nhất quán và tạo dựng niềm tin. Với niềm tin ngây thơ trẻ
em có tôn giáo của mình. Chúng luôn đứng về cái thiện, chia sẻ, bênh vực
những nhân vật tốt, dũng cảm và cao cả, những nhân vật nhỏ bé, yếu ớt cần
được bảo vệ. Chẳng hạn, khi cô giáo tổ chức cho trẻ chơi trò chơi đóng kịch
tác phẩm “Chú dê đen” trẻ rất thích nhân vật chú dê đen và hứng thú ghi
nhớ. Đó là bởi trẻ tiếp nhận ngây thơ, không phân biệt thế giới nghệ thuật
trong tcá phẩm và hiện thực đời sống.
Tiếp nhận văn học của trẻ em ít bị ràng buộc bởi lí trí và chứa đựng
tưởng tượng mạnh mẽ. Ở trẻ em , tưởng tượng về cái có thật. Do vậy trẻ em
rất dẽ bị cuốn hút bởi những hình tượng hoang đường, kỳ vĩ, tác động mạnh
vào trí tưởng tượng của các em như: Hình tượng cậu bé làng gióng vươn vai
bỗng lớn thành một tráng sỹ, những chi tiết về sự hoaá thân kỳ diệu của
nhân vật, cco tấm, phép màu kỳ lạ của “Quả bầu tiên”….Như vậy, trí tưởng
tượng phát triển sớm ở trẻ mẫu giáo là một thứ của trời cho có tính chất tự
nhiên, là tiền đề để cô giáo thực hiện tốt hoạt động đọc và kể tác phẩm.
2.Cơ sở thực tiễn:
Trường Mầm non Đồng Tân là một trường miền núi, với trình độ dân
trí còn thấp, điều kiện kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn, việc đầu tư hỗ
trợ xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động còn hạn chế, đồ
dùng, đồ chơi trang thiết bị phục vụ cho môn học con chưa đáp ứng đối với

chương trình giáo dục mầm non mới hiện nay. Vì vậy đứng trước khó khăn
trên, bằng vốn hiếu biết của mình tôi luôn tự học hỏi kinh nghiệm để tìm ra
những sáng kiến hay để khắc phục những khó khăn đó.
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
8
Bài tập nghiên cứu khoa học
II. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để hoàn thành đề tài trên tôi cần phải đi giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu thực trạng của việc tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với
tác phẩm văn học ở trường mầm non.
- Đề xuất các biện pháp giúp trẻ làm quen với môn làm quen với tác
phẩm văn học.
III.Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu:
1.Đối tượng nghiên cứu:
- Nội dung chương trình cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học
- Thực trạng của việc tổ chức các hoạt động cho trẻ làm quen với tác
phẩm văn học.
2. Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu nội dung chương trình cho trẻ làm quen với tác phẩm văn
học ở trường Mầm non.
- Tìm hiểu việc tổ chức các hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm
văn học ở trường Mầm non Đồng Tân và một số các trường Mầm non khác
thuộc huyện Hiệp Hòa – tỉnh Bắc Giang.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Trước hết phải nhận định tình hình chung của đối tượng nghiên cứu sau
đó đọc – phân tích – tổng hợp tài liệu tham khảo, xây dựng kế hoạch giảng
dậy cụ thể và đưa ra các phương pháp giáo dục phù hợp.
- Một số biện pháp: Để giải quyết nhiệm vụ trên tôi đã sử dụng các
phương pháp sau:
+ Phương pháp nghiên cứu lý thuyết (nghiên cứu tài liệu):

Sử dụng phương pháp này nhằm thu thập tài liệu lý luận giaỉ quyết
nhiệm vụ thứ nhất của đề tài. Ví dụ như: Phương pháp làm quen văn học,
giáo dục học mầm non…
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
9
Bài tập nghiên cứu khoa học
+ Phương pháp quan sát:
Sử dụng phương pháp này nhằm thu thập tài liệu tthực tiễn giải quyết
nhiệm vụ thứ 2 của đề tài, quan sát trẻ mẫu giáo khi tham gia hoạt động vui
chơi, trò chơi dân gian. Quan sát trẻ mẫu giáo và cô giáo khi tổ chức hoạt
động làm quen văn học ở trường mầm non Đồng Tân.
+ Phương pháp điều tra:
Sử dụng phương pháp này nhằm thu thập tài liệu thực tiễn để giải quyết
nhiệm vụ thứ 2 của đề tài. Tôi sử dụng hệ thống các câu hỏi điều tra giáo
viên mầm non trường mầm non Đồng Tân.
+Phương pháp đàm thoại: Đàm thoại với trẻ để thu thập thông tin về
tổ chức các hoạt động cho trẻ làm quen văn học tại trường
+ Phương pháp thực nghiệm:
Sử dụng phương pháp này nhằm để kiểm tra biết được kết quả thử
nghiệm trên trẻ có tốt hơn không và tốt hơn là bao nhiêu.
PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC TỔ CHỨC CÁC HOẠT
ĐỘNG CHO TRẺ LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC Ở
TRƯỜNG MẦM NON HIÊN NAY
I.Thực trạng:
Hiện nay, Tôi đang là giáo sinh thực tập tại trường Mầm non Đồng Tân.
Đội ngũ giáo viên:
Tổng số cán bộ giáo viên: 16 đồng chí
Trong đó: Ban giám hiệu 03 đồng chí
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường

10
Bài tập nghiên cứu khoa học
Ban giám hiệu là những đồng chí có trình độ chuyên môn vững vàng,
có năng lực quản lý tốt dầy dặn kinh nghiệm, luôn quan tâm sát sao đến
phong trào của nhà trường và đời sống của giáo viên
Giáo viên: Tổng số 12 đồng chí
Trình độ chuyên môn: Đại học 05 đồng chí
Cao đẳng 05 đồng chí.
Trung cấp: 02 đồng chí
Ngoài ra còn có: 01 nhân viên kế toán
Nhà trường có đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên trẻ - khỏe – nhiệt
tình. Có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, luôn có lòng yêu nghề
mến trẻ, có trình độ sư phạm chuyên môn vững vàng, năng động, linh hoạt
trong giảng dạy, có nhiều giáo viên giỏi cấp huyện, tỉnh, chiến sỹ thi đua,
nhiều năm liền trường đạt danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc cấp huyện luôn
có lòng yêu nghề mến trẻ.
Trường có tổng 230 học sinh, trong đó có 179 trẻ ở độ tuổi Mẫu giáo và
51 trẻ ở độ tuổi Nhà trẻ.
Nhà trường luôn xây dựng kế hoạch cho trẻ làm quen với tác phẩm văn
học theo đúng chủ đề của chương trình giáo dục Mầm non mới. Số tiết học/
tuần/ trẻ là: 1 tiết/ 1 tuần.
Chương trình làm quen với văn học là một trong những nội dung nằm
trong chương trình chăm sóc – giáo dục trẻ mẫu giáo từ 3 đến 6 tuổi.
Chương trình “làm quen với văn học” được phân chia theo 3 độ tuổi:
-Độ tuổi từ 3 đến 4.
-Độ tuổi từ 4 đến 5.
-Độ tuổi từ 5 đến 6.
Chương trình “ Làm quen với văn học” ở mẫu giáo đã được đưa vào
nhiều thể loại: ca dao, đồng dao, truyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích,
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường

11
Bài tập nghiên cứu khoa học
ngụ ngôn, truyện cười, truyện ngắn hiện đại, thơ. Số lượng các tác phẩm văn
học dân gian được tuyển chọn vào chương trình với một tỷ lệ thích hợp,
nhằm dẫn dắt các em trở về với đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tonh
thần của cha ông và trở về với cuội nguồn của dân tộc. Một số tác phẩm văn
học nước ngoài được dịch, được biên soạn lại cũng có trong chương trình.
Với những tác phẩm ấy, trẻ em ngay từ nhỏ đã có điều kiện tiếp xúc với
nhiều nền văn hóa của các nước trên thế giới.
Nội dung chương trình “Làm quen với văn học” ở độ tuổi mẫu giáo đa
dạng, phong phú hơn nhiều so với chương trình của nhà trẻ. Ở độ tuổi này
các em được tiếp xúc với những tác Sơn Tinh, Thủy Tinh, Thánh Gióng), về
những sinh hoạt của chính các em ở trường và ở nhà (Ai ngoan hơn, Giúp
mẹ), có những tác phẩm truyền đến các em những tri thức khoa học như Cô
Mây, Chú Đỗ Con.
Văn học là một loại hình nghệ thuật mà trẻ thơ được tiếp xúc rất sớm.
Ngay từ tuổi ấu thơ các em được làm quen với giai điệu nhẹ nhàng, tha thiết
của lời hát ru. Lớn hơn một chút, các câu truyện dân gian, các tác phẩm thơ
chuyện hiện đại đã gieo và lòng các em sự mến yêu với thế giới xung quanh,
giúp các em hiểu về truyền thống lao động, chiến đấu bền bỉ nhưng vô cùng
anh dũng của dân tộc.
*Văn học luôn đem đến cho các em những hình ảnh đẹp đẽ, tươi sáng,
gợi mở cho các em những xúc cảm thẩm mỹ và hình thành thị hiếu thẩm mỹ.
Tiếp xúc với tác phẩm văn học là các em được tiếp xúc với cả một thế giới
bao la đầy âm thanh và màu sắc với những hình ảnh đẹp đẽ, sinh động,
muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên và cuộc sống.
Ví dụ: Bài thơ “Hoa kết trái” của Mẫu giáo nhỡ, bằng cách miêu tả cụ
thể những bông hoa rực rỡ màu sắc, Thu Hà đã giúp các em cảm nhận được
vẻ đẹp lộng lẫy, tươi tốt của mảnh vườn với nhiều loài hoa đẹp:
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường

12
Bài tập nghiên cứu khoa học
Hoa cà tim tím
Hoa mướp vàng vàng
Hoa lựu chói chang
Đỏ như đốm lửa
Hoa vừng nho nhỏ
Hoa đỗ xinh xinh
Hoa mận trắng tinh.
Hay bài thơ: Đàn gà con – mẫu giáo bé, Phạm Hổ đã giới thiệu cho các
em thấy vẻ đẹp đáng yêu của những chú gà con:
Cái mỏ tí hon
Cái chân bé xíu
Lông vàng mát dịu
Mắt đen sáng ngời.
Văn học còn giúp các em trí tưởng tượng phong phú bay bổng để tạo ra
cái đẹp hoặc tìm đến và thưởng thức cái đẹp.
*Văn học đối với việc giáo dục lòng nhân ái cho trẻ: Lòng nhân ái là
một truyền thống quý báu của người Việt Nam. Đó là tình yêu thương những
người thân yêu ruột thịt:
Anh em như thể tay chân
Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy…
Hay bài thơ ‘Giữa vòng gió thơm” – mẫu giáo 5- 6 tuổi, thể hiện tình
cảm yêu thương và sự chăm sóc tận tình của người cháu đối với bà. Giữa
trời trưa nắng, không có gió, cả khu vườn lặng im nhưng hương bưởi hương
cau vẫn ngào ngạt lẩn vào tay quạt của bé để:
Cho bà nằm mát
Giữa vòng gió thơm…
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
13

Bài tập nghiên cứu khoa học
Tình cảm với thầy cô, bạn bè và những người lao động, những người có
công với đất nước cũng là một nội dung được nhắc nhiều trong văn học viết
cho trẻ em lứa tuổi Mầm non.
Ví dụ bài “Hạt gạo làng ta” – mẫu giáo lớn của Trần Đăng Khoa giúp
trẻ hiểu được sự vất vả, lam lũ của người nông dân trong quá trình làm ra hạt
gạo. Hạt gạo không chỉ là kết tinh của những giá trị vật chất và những giá trị
tinh thần mà còn là kết quả của những vật lộn của người nông dân để chống
chọi với sự khắc nghiệt của thời tiết và sự khốc liệt của chiến tranh vì thế
mỗi hạt thóc, hạt gạo làm ra không chỉ mang nặng công ơn cô bác nông dân
mà còn mang trong đó niềm vui, niềm tự hào của cả dân tộc vượt lên khó
khăn để chiến thắng kẻ thù.
Đó là tình làng nghĩa xóm “tối lửa tắt có nhau”, là tình cảm với muôn
người trong cùng đất nước:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”.
*Văn học đối với việc mở rộng và nâng cao nhận thức cho trẻ em lứa
tuổi Mầm non:
Văn học là một phương tiện hữu hiệu giúp trẻ mở rộng và nâng cao
nhận thức về thế giới xung quanh. Giúp các em nhận biết về các hiện tượng
tự nhiên như mây, mưa, sấm, chớp….
Ví dụ: Bài thơ “Mưa” được Trần Đăng Khoa thể hiện hết sức sống
động: Lộp độp
Lộp độp
Rơi
Trời đất
Mù trắng
Khác hẳn với mưa xuân:
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
14

Bài tập nghiên cứu khoa học
Mưa rơi nhè nhẹ
Trên mái tóc em
Mát như sương đêm
Tươi cành xanh lá
Nghiêng nghiêng đôi má
Cười đón mưa rơi….
Văn học cũng cho các em những hiểu biết rất thú vị về thế giới cỏ cây,
hoa lá.
Ví dụ: Bài thơ “Hoa kết trái”, Thanh Hà giúp các em nhận biết rõ đặc
điểm của các loài hoa, quả:
Hoa cà tim tím
Hoa mướp vàng vàng
Hoa Lựu chói chang
Đỏ như đốm lửa
Hoa vừng nho nhỏ
Hoa đỗ xinh xinh…
Văn học còn giúp các em mở rộng sự nhận thức về thế giới loài vật.
Ví dụ: Bài thơ “Đàn gà con” – mẫu giáo bé, Phạm Hổ đã giải thích cho
các em về quá trình sinh trưởng và phát triển của các con vật
Mười quả trứng tròn
Mẹ gà ấp ủ,
Hôm nay ra đủ
Mười chú gà con
Lòng trắng, lòng đỏ
Thành mỏ, thành chân
Cái mỏ tí hon
Cái chân bé xíu
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
15

Bài tập nghiên cứu khoa học
Lông vàng mát dịu
Mắt đen sáng ngời….
*Văn học đối với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ lứa tuổi Mầm non:
Phát triển ngôn ngữ là nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục Mầm non, đặc
biệt là giáo dục mẫu giáo. Bởi lẽ, ngôn ngữ gắn liền với tư duy. Nếu trẻ
không được trang bị vốn ngôn ngữ nhất định trẻ sẽ không thể đến trường
phổ thông để lĩnh hội tri thức và nền văn hóa của nhân loại. Văn học giúp trẻ
mở rộng vốn từ đặc biệt là từ ngữ nghệ thuật., giúp trẻ phát triển lời nói
mạch lạc, nâng cao khả năng biểu đạt. Quá trình trẻ nghe kể chuyện, nghe
đọc thơ đặc biệt là khi trẻ được trực tiếp kể lại truyện hoặc học thuộc lòng
thơ, chính là quá trình trẻ tích lũy thêm được nhiều từ mới, đặc biệt là từ
nghệ thuật và học thêm được những cách diễn đạt giàu hình ảnh, giàu sức
biểu cảm, ví dụ: Khi đọc câu thơ: Hoa lựu chói chang- Đỏ như đốm lửa, có
cháu đã nhận xét: Cái áo của bạn Hà đỏ như màu hoa phượng…
Vai trò của văn học đối với việc giáo dục trẻ em lứa tuổi Mầm non là
rất to lớn. Văn học góp phần giúp cho trẻ phát triển nhân cách toàn diện. Sẽ
là rất thiệt thòi cho những đứa trẻ không thường xuyên được tiếp xúc với tác
phẩm văn học. Chính vì vậy cần đưa văn học – nghệ thuật của ngôn từ đến
với trẻ từ rất sớm, thậm chí ngay từ khi trẻ mới chào đời, bằng những lời ru,
những câu chuyện. Giáo viên Mầm non phải trau dồi những kiến thức cơ bản
để cảm thụ thật tốt các tác phẩm văn học thì mới có thể truyền dạy cho trẻ
được những cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Với sự hướng dẫn của cô giáo,
trẻ được nghe, được học các tác phẩm văn học, đó là những bài học làm
người đầu tiên và những bài học đó sẽ cùng trẻ lớn dần lên theo năm tháng,
trong suốt cả cuộc đời.
2.Thuận lợi:
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
16
Bài tập nghiên cứu khoa học

Trường mầm non Đồng Tân được sụ quan tâm của các cấp ủy Đảng,
chính quyền địa phương nên cơ sở vật chất từng bước khang trang đảm bảo
thực hiện nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ. Đội ngũ giáo viên nhiệt tình yêu
nghề, mến trẻ, tâm huyết với nghề nghiệp với 100% giáo viên có trình độ đạt
chuẩn trở lên.
100% giáo viên đều tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên đề do Phòng
Giáo dục và Đào tạo tổ chức, tích cực tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ.
*Cơ sở vật chất:
Nhà trường có 5 lớp khu trung tâm và có 3 lớp ở 2 khu lẻ, có các phòng
chức năng phục vụ cho công tác chăm sóc, giáo dục trẻ. 100% trẻ đến trường
được ăn bán trú, thực hiện nghiêm túc quy trình chế biến món ăn cho trẻ
theo quy tắc bếp ăn một chiều đảm bảo chăm sóc nuôi dưỡng trẻ đạt kết quả
tốt.
Trang thiết bị dạy học như máy vi tính được kết nối mạng Internet, có ti
vi, loa đài…đồ dùng, đồ chơi thường được mua sắm tương đối đầy đủ, thuận
lợi cho việc dạy học và vui chơi của trẻ, giúp trẻ học tập tốt các môn học
khác nói chung và môn làm quen với văn học nói riêng.
*Về phía trẻ:
Văn học luôn là đề tài yêu thích của trẻ mầm non, ngôn ngữ văn học
thường ngọt ngào, hấp dẫn tạo cho trẻ hứng thú học tập.
*Về chuyên môn:
Giáo viên trong trường đều có trình độ chuyên môn đạt chuẩn trở lên,
một số giáo viên có trình độ đại học. Hàng năm, Phòng Giáo dục và Đào tạo,
nhà trường đều mở những lớp học tập chuyên đề, bồi dưỡng chuyên môn để
cập nhật nắm bắt những điểm mới trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
17
Bài tập nghiên cứu khoa học
Ban giám hiệu trường luôn quan tâm sát sao đến chất lượng chuyên

môn của giáo viên trong trường.
*Về sự phối kết hợp:
Hàng năm, nhà trường và chính quyền địa phương thường xuyên quan
tâm đầu tư muc sắm trang thiết bị, phương tiện dạy học. Một số bậc phụ
huynh, học sinh không những luôn quan tâm đến việc học của con cái mà
còn mua sắm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho công tác chăm sóc, giáo dục
được tốt hơn.
3.Khó khăn:
Cơ sở vật chất tuy đã đầy đủ nhưng còn hạn chế về chất lượng, diện
tích lớp học còn chật trội, số học sinh so với số lớp luôn là quá tải gây khó
khăn cho việc tổ chức các hoạt động giáo dục và công tác chăm sóc giáo dục
trẻ.
Thời gian làm việc của giáo viên quá nhiều thường từ 10 đến 12
tiếng/ngày nên ảnh hưởng rất lớn đến việc làm đồ dùng đồ chơi, học tập,
trao đổi, nghiên cứu nâng cao trình độ nghiệp vụ của giáo viên. Trình độ
chuyên môn chưa đồng đều, hạn chế năng khiếu như hát, múa, kế
truyện….nên chưa thực sự thu hút được trẻ. Do trẻ trong trường đều là nhà
nông nên khả năng nhận thức còn hạn chế.
Một số giáo viên vận dụng đổi mới hình thức, phương pháp dạy học
chưa linh hoạt, chưa phù hợp với yêu cầu. Đặc biệt qua quá trình tìm hiểu
môn Làm quen văn học ở trường Mầm non Đồng Tân em thấy nguyên nhân
giáo viên ngại dạy môn văn học là do một số giáo viên chưa hiểu rõ tầm
quan trọng, mục đích, ý nghĩa của môn văn học đối với trẻ Mầm non, một số
giáo viên còn nói ngọng, giọng kể chưa diễn cảm, chưa lôi cuốn trẻ, một số
giáo viên chưa nắm vững được phương pháp dạy văn học nên chất lượng
cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học trong trường mầm non còn hạn chế.
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
18
Bài tập nghiên cứu khoa học
Nhân dân địa phương phần lớn là làm nông nghiệp, rất bận rộn với

công việc của mình nên chưa quan tâm chăm sóc đúng mức tới con em của
mình hay cũng có một số bậc phụ huynh chưa thực sự hiểu về trách nhiệm
của gia đình trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ cũng như chương trình chăm
sóc trẻ ở lứa tuổi mầm non. Do vậy, chưa có biện pháp phối hợp, kết hợp
giữa cha mẹ và cô giáo để đạt hiệu quả giáo dục tốt nhất.
Do vậy, vấn đề đặt ra với tôi là làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo
dục dạy môn văn học cho trẻ mầm non.
Từ những thực trạng trên thúc đẩy em nghiên cứu đề tài này để tìm ra
những biện pháp tốt nhất nhằm giúp trẻ làm quen với văn học để nâng cao
hiệu quả giảng dạy bộ môn văn học.
CHƯƠNG II : ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ HỌC
TỐT MÔN LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC
Để thực hiện tốt các hoạt động “Cho trẻ làm quen với văn học trong
trường mầm non hiện nay” em sử dụng một số phương pháp sau:
Phương pháp cho trẻ làm quen với văn học từ lâu được nói đến trong
giáo dục mầm non. Tuy nhiên phải thấy rằng nội dung cụ thể của nó không
đơn giản chỉ là việc kể chuyện hay đọc thơ theo kiểu dânh gian như ông bà,
bố mẹ vẫn làm với con trẻ. Ngày nay, giáo dục mầm non đang càng được coi
trọng, việc chăm sóc, giáo dục thực sự đã trở thành một khoa học đòi hỏi
người giáo viên phải có nghiệp vụ sư phạm cần thiết.
Các nhà nghiên cứu đã nhận thức rõ sự tác động to lớn của các ngôn từ
văn học khi được đọc, kể một cách nghệ thuật. Khi dạy có sử dụng các đồ
dùng trực quan minh họa hoặc bằng việc đàm thoại, giảng giải nội dung,
bằng việc tập cho trẻ kể lại hoặc chuyển đổi tác phẩm thành kịch bản cho trẻ
đóng vai.
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
19
Bài tập nghiên cứu khoa học
I. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học bằng phương pháp đọc
kể diễn cảm:

Đây là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự thành công của tác phẩm:
Có nhiều định nghĩa về vấn đề này, song hiểu một cách đơn giản có thể
quan niệm việc đọc, kể tác phẩm văn học một cách diễn cảm hay còn gọi là
đọc kể nghệ thuật là người đọc, người kể, sử dụng mọi sắc thái của giọng để
trình bày tác phẩm, giúp người nghe có thể nhìn thấy những cái đã được
nghe và khơi gọi lên những dung động, những cảm xúc ở họ. Muốn thực
hiện tốt việc đọc kể diễn cảm tác phẩm văn học trước hết cô giáo phải rèn
luyuên để đọc đũng tác phẩm.
Để thực hiện tốt được hoạt động nghệ thuật này thì giáo viên Mầm non
đọc, kể phải tập luyện nhiều để có kỹ năng, kỹ xảo và phải nắm được các thủ
thuật cơ bản của việc đọc, kể diễn cảm như: giọng điệu, ngữ điệu, nhịp điệu,
cách ngắt giọng, cường độ âm thanh phù hợp với tác phẩm.
1. Xác định giọng điệu:
Việc xác định giọng điệu cơ bản giúp cho người nghe cảm nhận được
giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm và nó phụ thuộc vào thể loại, nội
dung và phong tác ngôn ngữ. Ví dụ như truyện cười thường kể bằng giọng
điệu dí dỏm, hài hước, truyện ngụ ngôn thường có các nhân vật rõ ràng nên
giọng điệu phải thể hiện được tính cách từng nhân vật, câu kết của truyện là
đúc rút kinh nghiệm thường kể giọng triết lý, hóm hỉnh, truyện cổ tích kể với
giọng thủ thỉ, tâm tình…
Ví dụ: Truyện “Mèo lại hoàn mèo” (lớp mẫu giáo nhỡ)
-Đoạn đầu, dẫn dắt truyện: Kể với giọng điệu chậm rãi, nhấn mạnh vào
chi tiết chủ nhà đặt tên cho con mèo là trời.
-Phần nội dung chính của truyện: chú ý thay đổi giọng điệu và ngắt
giọng sau mối câu để trẻ phân biệt lời đối thoại của hai nhân vật và tính chất
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
20
Bài tập nghiên cứu khoa học
hài hước của câu chuyện. Giọng của người bạn thể hiện sự ngạc nhiên, hóm
hỉnh (có ý nghĩa châm biếng), cường độ giọng hơn cao hơn bình thường.

Giọng của chủ nhà nhỏ nhẹ, chậm rãi, biểu hiện sự lúng túng vì bị khách căn
vặn.
-Đoạn kết: từ chỗ “người bạn vỗ tay cười ”: Kể bằng giọng vui, dí
dỏm, nhấn vào chi tiết “mèo lại hoàn mèo”.
Ví dụ: Truyện Cáo, Thỏ, gà trống (lớp mẫu giáo 4 – 5 tuổi).
-Giọng Thỏ buồn rầu.
-Giọng Cáo phần đầu thì quát nạt, phần cuối truyện thì hoảng sợ.
-Giọng Chó thì nhanh nhảu.
-Giọng Gấu thì hiền từ, chậm rãi.
-Giọng Gà Trống, dõng dạc, hùng dũng.
Ví dụ: Khi đọc bài thơ “Đàn gà con” – Phạm Hổ (Mẫu giáo bé), cần sử
dụng giọng vui tươi, trìu mến:
Cái mỏ tí hon
Cái chân bé xíu
Lông vàng mát dịu,
Mắt đen sáng ngời,
Ơi chú gà ơi,.
Ta yêu chú lắm!
1.1Cần nắm vững thanh điệu cơ bản của tác phẩm văn học:
Chúng ta có nhiều tác phẩm văn học khác nhau: truyện cổ tích, truyện
ngụ ngôn, thơ tự sự, thơ trữ tình… phù thuộc vào những thể loại ấy mà
thanh điệu cơ bản khi trình bày lúc trầm tĩnh, khi hào hùng hoặc tươi vui,
buồn ràu.
Thanh điệu cơ bản do nội dung và hình thức quy định. Chẳng hạn thơ
trữ tình khác thơ tự sự, truyện cười khác truyện cổ tích…Trong từng tác
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
21
Bài tập nghiên cứu khoa học
phẩm, từng bài thơ tùy theo phong cách ngôn nhữ của tác phẩm để định ra
thanh âm cơ bản khi trình bày.

Ví dụ: Khi cô kể chuyện “Chú vịt xám” (Lớp mẫu giáo nhỡ), chủ đề là
tác giả phê phán chú vịt xám không vâng lời mẹ, cô kể với thanh điệu cơ bản
êm nhẹ, vui tươi (đoạn đầu chậm rãi, rõ ràng).
Ví dụ: thanh điệu vui tươi náo nhiệt được thể hiện trong bài “Kể cho bé
nghe” của Trần Đăng Khoa:
Hay nói ầm ĩ
Là con vịt bầu
Hay hỏi đâu đâu
Là con chó vện
Hay chăng dây điện
Là chị nhện con….
Trong các loại thanh điệu cơ bản được sử dụng trong việc đọc, kể diễn
cảm tác phẩm thì thanh điệu vui tươi, thanh điệu êm nhẹ thường được sử
dụng nhiều đối với em nhỏ. Do đó, nhiệm vụ của cô giáo Mầm non khi đọc,
kể diễn cảm tác phẩm văn học cho trẻ nghe là phải nghiên cứu kĩ tác phẩm
để định ra đúng thanh âm cơ bản , từ đó định ra cách trình bày phù hợp.
1.2. Nắm vũng ngữ điệu:
Ngữ điệu giọng là toàn bộ sắc thái đa dạng trong giọng của người đọc,
người kể để bộc lộ những tình cảm và ý nghĩa của người kể, người đọc giúp
cho họ vẽ ra được những hình tượng nghệ thuật. Ngữ điệu giọng đóng vai
trò quan trọng trong việc trình bày tác phẩm và nhờ có ngữ điệu mà người
đọc có thể tác động mạnh đến các xúc cảm của người nghe, khiến người
nghe có được những rung cảm đúng đắn, lành mạnh. Nhờ có ngữ điệu nên
người đọc tạo cho người nghe thấu hiểu nội dung, tư tưởng của tác phẩm.
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
22
Bài tập nghiên cứu khoa học
Muốn cho sắc thái ngữ điệu được phong phú, người ta thường sử dụng
các yếu tố: cường độ giọng, ngắt hơi, lên giọng, xuống giọng và âm sắc về
chất của giọng…Để có thể sử dụng tốt các yếu tố trên của ngữ điệu giáo viên

cần nghiên cứu kỹ tác phẩm, xác định đúng ngữ điệu của tác phẩm, trên các
nền thanh điệu cơ bản ấy và xác định ngữ điệu cho thích hợp.
Ví dụ: Khi kể chuyện “Dê đen nhanh trí” cho các cháu Mẫu giáo nhỡ
nghe, cô cần chú ý đến tính cách, đặc điểm của từng nhân vật để xác định
ngữ điệu cho đúng. Trong chuyện kể cả Dê mẹ và Chó Sói đều nói câu:
“Con Chó Sói hung ác, đuổi cổ nó đi” với dê con. Đó là tín hiệu mẹ về gọi
cửa, nhưng tình huống không bình thường là ở chỗ con chó sói nấp gần đấy
nó nghe được câu ấy, và nó quyết định đánh lừa Dê Con để ăn thịt. Vậy khi
cô mẫu giáo kể cho các cháu nghe, cô không thể dùng cùng một ngữ điệu để
kể với trẻ rằng đây là Dê Mẹ nói, Chó Sói nói, bản thân cô phải giúp trẻ biết
được con chó Sói đã nói câu đó với giọng như thế nào? Dê Mẹ nói ra sao?
Dê Mẹ hiền lành, dịu dàng, giọng nói thanh và trong vậy ngữ điệu, âm sắc
giọng của cô phải thể hiện được điều đó. Sói hung ác, gian ngoan, sảo quyệt
và lừa đảo, giọng nói ồm ồm. Cô cũng phải thể hiện được sự gian sảo trong
giọng nói của con Sói: Con Sói vừa cố bắt chước cho giống giọng Dê Mẹ
vừa không giấu được vẻ gian ngoan, sảo quyệt, giọng nói cần bộc lộ tính
cách ấy.
1.3. Cách ngắt giọng:
Ngắt giọng là cách ngừng nghỉ, dừng lại giây lát khi đọc, kể để bộc lộ ý
tứ của bài đọc (kể) tác phẩm văn học.
Ngắt giọng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong việc đọc kể. Việc
ngắt giọng đúng sẽ tăng sức truyền cảm của tác phẩm khi trình bày. Nếu
ngắt giọng sai sẽ dẫn đến việc hiểu lầm ý tứ của bài.
Có ba loại ngắt giọng mà chúng ta cần chú ý:
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
23
Bài tập nghiên cứu khoa học
+Ngắt giọng Lôgic
+Ngắt giọng tâm lý còn được sử dụng sau khi kể (đọc) xong một tác
phẩm văn học, để bài thơ, câu chuyện còn lắng đọng lại trong tâm hồn người

nghe.
+Ngắt giọng thơ ca thường đặt ở cuối câu đọc.
Ví dụ: Bài thơ “Em yêu nhà em” ở lớp mẫu giáo nhỡ:
Chẳng đâu bằng chính nhà em
Có đàn chim sẻ / bên thềm líu lo
Có đàn gà mái hoa mơ
Cục ta / cục tác / khi vừa đẻ xong
Có bà chuối mật / lưng ong
Có ông ngô bắp / râu hồng như tơ
Có ao muống / với lá cờ
Em làm chị Tấm / đợi chờ bống lên…
Toàn bài đọc với nhịp điệu vừa phải và có thay đổi thanh các câu từ là
ta phải ngắt giọng trong các câu thơ: câu số 4 (2/2/4), câu số 6 (4/4), câu 7
(3/3), câu 10 (4/4) lâu hơn bình thường.
1.4 Nhịp điệu là một trong những yếu tố của ngữ điệu, là phương
tiện của tính truyền cảm nghệ thuật.
Nhịp điệu là sự thể hiện của giọng đọc nhanh hay chậm, khẩn trương
hay vừa phải. Nhịp điệu do nội dung tác phẩm quy định. Khi trình bày tác
phẩm, cần phải lựa chọn nhịp điệu cho phù hợp và thay đổi từng đoạn trong
tác phẩm khi cần thiết. Giáo viên Mầm non biết sử dụng các sắc thái khác
nhau của nhịp điệu, sẽ đem lại cho giọng nói một sức mạnh đặc biệt bởi lẽ
trong khi truyền thu tác phẩm mà chỉ sử dụng một nhịp điệu đều đều thì tác
phẩm sẽ trở nên khô héo, không có sức sống, đặc biệt đối với trẻ từ 1 đến 6
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
24
Bài tập nghiên cứu khoa học
tuổi, do nhận thức và ngôn ngữ có đặc điểm riêng nên sức cảm thụ văn học
còn chậm.
Ví dụ: Khi đọc bài thơ “Em yêu nhà em” ở lớp mẫu giáo nhỡ, Bài thơ
miêu tả cảnh vật tươi đẹp, phong phú và đàm ấm trong ngôi nhà của bé – từ

đó toát lên tình cảm trìu mến, thiết tha của bé đói với cảnh vật và ngôi nhà
bé ở. Khi đọc bài thơ phải đọc với nhịp điệu vừa phải toàn bài và có thay đỏi
nhanh, chậm trong các câu thơ :
“Cục ta, cục tác khi vừa đẻ xong”
“Có ao muống với lá cờ… ”
“Ếch con học nhạc, dế mèn ngâm thơ”
Đặc biệt khi đến hai câu thơ cuối ccungf của bài cần đọc chậm rãi, diễn
cảm:
“Dù đi xa thật là xa
Chẳng đâu vui được như nhà của em”.
1.5.Cường độ của giọng:
Cường độ của giọng là độ vang, độ hoàn chỉnh của giọng, là khả năng
diều chỉnh giọng làm cho nó có thể tạo ra được các bậc thang truyền độ vang
từ to đến nhỏ, và ngược lại từ nhỏ ra to. Cường độ của giọng là một trong
những yếu tố của ngữ điệu, phụ thuộc và nội dung tác phẩm. Dựa vào đặc
điểm, tính cách của nhân vật, ta có thể định được cường độ giọng khi trình
bày.
Ví dụ: Truyện Cáo, Thỏ và Gà Trống, phần đầu kể với nhịp điệu, cường
độ bình thường. Nhưng khi Thỏ khóc và trả lời Chó, Gấu, Gà Trống thì nhịp
điệu, cường độ cần phải chậm và hơi thở, thể hiện sự buồn bã, yếu đuối:
“Làm sao mà tôi không khóc được? Tôi có một ngôi nhà bằng gỗ, còn
cáo có một ngôi nhà bằng băng. Mùa xuân đến, nhà Cáo tan ra thành nước,
Cáo xin sang nhà tôi sưởi nhờ rồi đuổi luôn tôi ra khỏi nhà”.
Giáo sinh: Nguyễn Thị Trường
25

×