Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Nghiên cứu khoa học - Đề tài về Chuyển giá tại Việt Nam - Thực trạng và Giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.3 KB, 60 trang )

5
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN GIÁ 9
1.1 Tổng quan về các công ty đa quốc gia: 9
Các loại hình công ty đa quốc gia (cấu trúc): 9
Quy mô, doanh thu và phạm vi hoạt động lớn 9
Các công ty đa quốc gia là công ty đa ngành 10
Hoạt động trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, nghiên cứu
ứng dụng về khoa học công nghệ…là xu hướng có tính quy luật cùng với sự phát triển của các công ty
đa quốc gia. Ví dụ, FPT hoạt động trong các lĩnh vực viễn thông, phần mềm, quảng cáo, bất động sản,
ngân hàng, chứng khoán,… 10
Sự đa dạng về cơ cấu tổ chức và sở hữu vốn 10
Đặc điểm xu hướng phát triển: 11
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHỐNG CHUYỂN GIÁ TẠI CÁC DOANH
NGHIỆP FDI Ở VIỆT NAM 23
2.1 Tổng quan tình hình chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam thời
kỳ hội nhập: 23
2.2. Một số ví dụ điển hình về tình trạng chuyển giá ở Việt Nam và tác hại đối với nền kinh tế trong
nước 25
2.2.1 Công ty Coca Cola Việt Nam và PepsiCo 26
2.2.2 Công ty Bat – Vinataba 29
2.2.3 Công ty Adidas Việt Nam 30
2.3 Các biện pháp chống chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam 32
2.3.1 Hoàn chỉnh hệ thống pháp lý về chống chuyển giá 32
2.3.2 Lập nhóm thanh tra chống chuyển giá 34
2.3.3 Hoàn thiện cơ sở thông tin 34
2.3.4 Tài sản tăng thêm phải giải trình 35
2.4 Đánh giá những biện pháp chống chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam 35
2.4.1 Những kết quả trong quá trình chống chuyển giá 35
2.4.2 Những tồn tại trong quá trình chống chuyển giá 37


2.4.3 Nguyên nhân của các tồn tại trong quá trình chống chuyển giá 37
3.1. Định hướng của nhà nước về vấn đề chống chuyền giá 39
5
3.2. Một số biện phápchống chuyển giá được đề xuất : 41
3.2.1 : Biện pháp của Chính phủ 41
3.2.2 : Biện pháp của các doanh nghiệp: 46
3.2.3 : Biện pháp xã hội: 47
Kết luận: 49
Chuyển giá là mặt trái của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nó không chỉ làm
nghèo ngân quỹ quốc gia mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường cạnh tranh
lành mạnh trong nước. Việc nghiên cứu về thực trạng chuyển giá là vô cùng cần
thiết trong quá trình chuyển giá bởi những giải pháp đúng đắn chỉ có thể bắt nguồn
từ những nhìn nhận đúng đắn. Không thể phủ nhận thực trạng này diễn ra khá phổ
biến không chỉ ở nước ta mà còn nhiều nước trên thế giới. Nhưng đồng thời cũng
cần khẳng định những nỗ lực không ngừng của Chính phủ Việt Nam trong cuộc
chiến chống chuyển giá. Tuy còn những tồn tại, bất cập nhưng đã bước đầu đạt
được những kết quả nhất định. Thiết nghĩ, cuộc chiến chống chuyển giá không
phải câu chuyện của riêng một cơ quan tổ chức nào, mà là cuộc chiến của toàn bộ
những cá nhân, tập thể tham gia vào nền kinh tế. Hơn bao giờ hết, đoàn kết để
chống lại những tiêu cực trong quá trình toàn cầu hoá và mở rộng kinh tế quốc tế
sẽ tạo nên lẽ sống còn cho những doanh nghiệp Việt Nam để giữ gìn lợi thế cạnh
tranh, tạo môi trường cạnh tranh công bằng và bảo vệ ngân quỹ quốc gia 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO 50
PHỤ LỤC : 51
5
DANH MỤC BẢNG
Bảng thống kê tình hình khai lỗ của các doanh nghiệp trên cả nước từ năm 1995
đến năm 2005 24
5
LỜI MỞ ĐẦU

Chuyển giá ở Việt Nam: Thực trạng và Giải pháp
1. Tính cấp thiết của để tài:
Chuyển giá là thực trạng không còn xa lạ với nhiều nền kinh tế trên thế giới
và nó đang dần trở thành một vấn nạn toàn cầu. Bất kể là quốc gia phát triển, đang
phát triển hay nước nghèo thì chuyển giá vẫn là vấn đề đau đầu của các cấp chính
phủ. Các tập đoàn đa quốc gia thường tìm mọi cách để chuyển giá và trốn thuế. Họ
sẵn sàng chi trả để có được những chuyên gia hàng đầu thế giới về chuyển giá bởi
luồn lách và trốn thuế có thể giúp họ tiết kiệm được những khoản khổng lồ.
Micheal Palmer – chuyên gia hàng đầu về chống chuyển giá ở Australia cũng phải
thừa nhận là cơ quan thuế của Australia đã không ít lần thua kiện một số tập đoàn
lớn trong các vụ kiện về chuyển giá. Không chỉ Australia, Australia cũng đang làm
nhũng nhiễu nền kinh tế Anh quốc. Starbuck – chuỗi cửa hàng cà phê lớn nhất liên
tục báo lỗ trong suốt 13 năm tại Anh bất chấp thực tế là doanh nghiệp này vẫn
không ngừng mở rộng các chi nhánh và phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, ngay cả cơ
quan thuế nước Anh kiện Starbuck ra toà cũng không thể bắt công ty này nộp thuế.
Có thể thấy, những chiêu trò chuyển giá ở các nền kinh tế trên thế giới ngày càng
tinh vi và phổ biến bởi sự chuẩn bị kỹ lưỡng và bài bản của các công ty tiến hành
chuyển giá. Chuyển giá đang là vấn đề không chỉ với một quốc gia hanh một nền
kinh tế cụ thể mà đã là vấn nạn của toàn bộ các nền kinh tế trên thế giới.
Việc tham gia vào các tổ chức hợp tác quốc tế, đặc biệt là việc trở thành
thành viên chính thức của WTO đã mở ra nhiều cơ hội hợp tác và phát triển mới
cho nền kinh tế Việt Nam. Từ khi gia nhập Tổ chức Kinh tế Thế giới năm 2006,
vốn đầu tư FDI vào Việt Nam đã gia tăng không ngừng và liên tiếp đạt được những
kỉ lục mới về tỉ lệ thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Các doanh nghiệp FDI ngày càng chiếm một vai trò quan trọng trong nền
kinh tế của Việt Nam. Theo Diễn đàn Đầu tư, các doanh nghiệp FDI chiếm tới
20% GDP, khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và chiếm trên 40% giá trị sản
xuất công nghiệp, khoảng 50% kim ngạch xuất nhập khẩu và khoảng 30% tổng thu
ngân sách Nhà nước.
5

Nhưng có một thực tế đã tồn tại suốt nhiều năm qua, đó là các doanh
nghiệp vẫn báo lỗ dù liên tục mở rộng quy mô sản xuất và hoạt động của mình.
Năm 2011, thanh tra 921 doanh nghiệp FDI lỗ trên tổng số 13.500 doanh nghiệp,
co quan thuế đã giảm lỗ được 6.617 tỷ đồng, truy thu thuế và phạt gần 1.700 tỷ
đồng. Làm một phép tính đơn giản cũng có thể thấy rõ mức độ thiệt hại do các
doanh nghiệp nước ngoài gây ra với ngân quỹ Nhà nước thông qua hành vi chuyển
giá.
Nó đặt ra yêu cầu cần phải lựa chọn đầu tư sao cho mỗi đồng vốn đầu tư
nước ngoài sẽ trở nên hiệu quả nhất. Do đó, hiện tượng chuyển giá, hơn bao giờ
hết, trở thành một vấn đề bức thiết cần được nhìn nhận đúng đắn và có cách giải
quyết triệt để. Chuyển giá không chỉ làm giảm nguồn thu ngân sách từ thuế và gây
bất bình đẳng trong nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp dẫn tới sự cách biệt trong ưu
thế cạnh tranh, chuyển giá còn khiến cho nguồn tài nguyên và nhân công giá rẻ ở
Việt Nam bị lợi dụng. Thêm vào đó còn là những hiểu lầm về sức khỏe của nền
kinh tế cũng là tác động không hề nhỏ lên nền kinh tế vĩ mô.
Đứng trước thực trạng đó, nhóm nghiên cứu chúng tôi thấy sự cần thiết của
việc lập đề tài nghiên cứu “Chuyển giá tại Việt Nam: Thực trạng và Giải pháp” để
nhằm đưa ra những đánh giá khách quan về tình hình thực tế và các giải pháp của
chính phủ nhằm hạn chế tác hại của hiện tượng chuyển giá tại Việt Nam cũng như
đưa ra giải pháp trên cơ sở quan điểm cá nhân cũng như học hỏi kinh nghiệm từ
các nước trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống chuyển giá này.
2. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu: Phân tích, nghiên cứu thực trạng chuyển giá tại các
doanh nghiệp Việt Nam cũng như các biện pháp đã được chính phủ đưa ra để nhằm
hạn chế thực trạng chuyển giá để tìm ra giải pháp giải quyết thích hợp và hiệu quả,
phù hợp với hệ thống pháp lý và tình hình của Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp của chính phủ nhằm hạn chế thực
trạng chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các công ty đa
quốc gia.
Phạm vi nghiên cứu:

5
• Thời gian: từ năm 1997 đến 2010
Văn bản pháp lý đầu tiên đề cập đến chuyển giá là Thông tư 74/1997/TT-
BTC hướng dẫn về thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài, sau đó là Thông tư
89/1999/TT-BTC và Thông tư 13/2001/TT-BTC. Đến Thông tư 05/2005/TT-BTC
hướng dẫn về thuế nhà thầu thì vấn đề này được bỏ ra khỏi nội dung điều chỉnh.
Cho đến 19/12/2005, chuyển giá đã được nhắc lại tại Thông tư 117/2005/TT-BTC
do Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn việc thực hiện xác định giá thị trường trong
các giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Tuy nhiên, các văn bản
nói trên chỉ dừng lại ở đối tượng áp dụng là các doanh nghiệp FDI mà chưa áp
dụng đối với các doanh nghiệp trong nước, tức là mới chú trọng vấn đề chống
chuyển giá quốc tế, chứ chưa có giải pháp chống chuyển giá nội địa. Với sự ra đời
của Thông tư 66/2010/TT-BTC, lần đầu tiên ở Việt Nam một văn bản pháp lý về
chống chuyển giá được áp dụng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp.
• Không gian: Những thông tư, bộ luật đã được ban hành
của chính phủ nhằm hạn chế thực trạng chuyển giá.
• Giác độ nghiên cứu: cơ quan quản lý nhà nước cần làm gì
để nhằm hạn chế thực trạng chuyển giá.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu và phân tích dựa trên những phương pháp cụ thể và
logic:
Kết hợp giữa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để có được những quan
điểm khách quan, toàn diện và lịch sử khi xem xét đánh giá từng vấn đề cụ thể.
Phương pháp tổng hợp thống kê, liệt kê, phân tích các nguồn số liệu từ đó
đưa ra nhận xét, đánh giá để làm rõ vấn đề.
Tham khảo các nguồn thông tin thứ cấp về các thông tư và bộ luật quy định
về vấn đề chuyển giá. Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng phương pháp phương so
sánh trong quá trình phân tích.
4. Tổng quan về các công trình đã nghiên cứu:
Chuyển giá là một vấn đề kinh tế tuy không còn mới nhưng vẫn giữ nguyên

được tính thời sự của nó. Bàn luận về những thực trạng cũng như giải pháp cho
5
vấn đề này đã có nhiều bài nghiên cứu của các chuyên gia cũng như những nhà
kinh tế học.
Đề tài nghiên cứu “Chuyển giá trong các công ty đa quốc gia ở Việt Nam”
của Nguyễn Thị Quỳnh Giang, thuộc trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh đã đưa ra được những cơ sở lý thuyết cũng như môi trường pháp lý của
chống chuyển giá nhưng còn thiếu những ví dụ cụ thể về thực trạng chuyển giá tại
Việt Nam, khiến cho người đọc khó hình dung được sự cấp thiết của vấn đề.
Đề tài nghiên cứu “Những diễn biến của hiện tượng chuyển giá ở Việt Nam
trong thời kỳ hội nhập” của nhóm tác giả Phạm Quốc Trung, Trần Ngọc Trà My,
Tiêu Tấn Thành, Nguyễn Thị Hồng Hoa đã đề cập tới những ví dụ thực tế của
chuyển giá tại Việt Nam, song những biện pháp còn mang nặng tính lý thuyết và
chưa đi vào thực tế.
5. Điểm mới đóng góp của đề tài:
Dựa vào những bài học thực tế về kinh nghiệm chống chuyển giá của các
nước trên thế giới cũng như những đánh giá khách quan, nhóm nghiên cứu mong
muốn đóng góp một số giải pháp chống chuyển giá cho các cơ quan quản lý của
nhà nước quản lý tốt hơn đối với các doanh nghiệp FDI, góp phần làm tăng nguồn
thu ngân sách Nhà nước từ việc thu thuế TNDN đối với các công ty này. Mặt khác,
giúp các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt các doanh nghiệp có tham gia trong liên
doanh có cái nhìn rõ hơn về chuyển giá quốc tế cũng như những biện pháp tự bảo
vệ mình trong khi hợp tác với các đối tác nước ngoài.
Đề tài mong muốn đóng góp những điểm mới khi nghiên cứu về đề tài
chuyển giá. Đề tài nghiên cứu “Chuyển giá ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp”
tập trung nghiên cứu về những nhóm giải pháp chống chuyển giá đã được chính
phủ đưa ra từ năm 1997 tới năm 2010 và đưa ra những đề suất nhằm hạn chế thực
trạng nhức nhối này ở Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của các nền kinh tế lớn trên
thế giới.
6. Tóm tắt đề tài:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chuyển giá.
Chương 2: Thực trạng chống chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI
ở Việt Nam.
5
Chương 3: Đề xuất một số biện pháp ngăn chặn chuyển giá.
5
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN GIÁ
1.1 Tổng quan về các công ty đa quốc gia:
1.1.1Khái niệm:
o Công ty đa quốc gia( MNC) là công ty sản xuất hay cung
cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia, có ngân sách vượt cả ngân sách của
nhiều quốc gia. Công ty đa quốc gia có ảnh hưởng lớn đến các mối
quan hệ quốc tế và các nền kinh tế của các quốc gia. Các công ty đa
quốc gia đóng một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa.
o Các loại hình công ty đa quốc gia (cấu trúc):
• Công ty đa quốc gia “theo chiều ngang” sản xuất các sản phẩm
cùng loại hoặc tương tự ở các quốc gia khác nhau.
• Công ty đa quốc gia “theo chiều dọc” có các cơ sở sản xuất ở một
số nước nào đó, sản xuất ra sản phẩm là đầu vào cho sản xuất của nó ở một số
nước khác.
• Công ty đa quốc gia “nhiều chiều” có các cơ sở sản xuất ở các nước
khác nhau mà chúng hợp tác theo cả chiều ngang và chiều dọc.
1.1.2 Đặc trưng cơ bản của công ty đa quốc gia:
o Quy mô, doanh thu và phạm vi hoạt động lớn
Sở hữu của các công ty đa quốc gia là sở hữu có tính chất đa chủ và đa
quốc tịch thể hiện ở sự tham gia của nhiều chủ sở hữu ở các nước khác nhau đối
với tài sản của công ty được phân bổ trên phạm vi toàn cầu.
Sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong công ty đa quốc gia nhằm mục
tiêu quan trọng nhất là giải quyết những khó khăn về vốn phục vụ kinh doanh.
Vì vậy sau khi thành lập công ty đa quốc gia, các công ty thành viên phát triển

nhanh hơn, tài sản có quyền sở hữu cũng tăng lên khá nhanh, từ đó tổng tài sản
cũng tăng lên đáng kể.
5
Các công ty đa quốc gia thường sở hữu các yếu tố có tính cốt lõi và
quyết định đối với quy trình sản xuất: vốn đầu tư, bí quyết công nghệ, các kỹ
năng quản trị và mạng lưới hoạt động toàn cầu. Vì vậy, tạo khả năng sinh lợi rất
lớn và mang tính tiên phong nhằm tạo lợi thế cạnh tranh vượt trội so với các đối
thủ.
Về lao động, các công ty đa quốc gia thường thu hút một lượng lớn lao
động ở chính quốc và các quốc gia khác. Ví dụ, tập đoàn FPT có 11 công ty
thành viên và 3 công ty liên kết với 14.912 cán bộ nhân viên , tập đoàn Danone (
Pháp) có 81000 nhân viên…
o Các công ty đa quốc gia là công ty đa ngành
Hoạt động trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực như tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm, nghiên cứu ứng dụng về khoa học công nghệ…là xu
hướng có tính quy luật cùng với sự phát triển của các công ty đa quốc gia. Ví dụ,
FPT hoạt động trong các lĩnh vực viễn thông, phần mềm, quảng cáo, bất động
sản, ngân hàng, chứng khoán,…
Với sự kết hợp ngày càng chặt chẽ giữa các lĩnh vực có liên quan trong
hoạt động sản xuất kinh doanh và sự liên kết giữa nghiên cứu khoa học và sản
xuất đã tăng thêm lợi thế so sánh cho các công ty đa quốc gia trong việc mở
rộng địa bàn hoạt động và gia tăng lợi nhuận.
o Sự đa dạng về cơ cấu tổ chức và sở hữu vốn
Về cơ cấu tổ chức, được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện và hiệp
thương. Cần nhấn mạnh, công ty đa quốc gia không phải là một doanh nghiệp,
không có tư cách pháp nhân độc lập. Do đó các mệnh lệnh hành chính không
được sử dụng trong điều hành các công ty đa quốc gia. Các doanh nghiệp là
thành viên của công ty đa quốc gia đều có pháp nhân độc lập, có cơ quan quyền
lực cao nhất như hội đồng thành viên, đại hội cổ đông.
Sở hữu vốn của công ty đa quốc gia cũng rất đa dạng. Trước hết vốn

trong công ty đa quốc gia là do các công ty thành viên làm chủ sở hữu, bao gồm
cả vốn tư nhân và vốn nhà nước. Quyền sở hữu vốn trong công ty đa quốc gia
5
cũng tùy thuộc vào mức độ phụ thuộc của các công ty thành viên vào công ty
mẹ.
o Đặc điểm xu hướng phát triển:
Trong hoạt động đầu tư có sự chuyển dịch từ công nghiệp khai thác tài
nguyên sang công nghiệp chế biến sản phẩm, đem lại giá trị cao hơn; từ công
nghiệp sử dụng lao động nhiều chuyển sang đầu tư vào các ngành sử dụng nhiều
kĩ thuật và công nghệ mới và sang các ngành dịch vụ điện tử, dịch vụ thương
mại, tài chính ngân hàng, y tế, giáo dục…
Các công ty đa quốc gia ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong sự phát
triển của kinh tế thế giới. Hiện nay, các công ty đa quốc gia chiếm đến 2/3 trị giá
thương mại quốc tế, chiếm 4/5 tổng giá trị đầu tư FDI; 9/10 thành quả nghiên
cứu khoa học và chuyển giao kĩ thuật của thế giới; chiếm 95% hoạt động xuất
nhập khẩu lao động quốc tế… và các công ty đa quốc gia đóng vai trò trọng yếu
trong đẩy nhanh quốc tế hóa đời sống kinh tế toàn cầu, biến mỗi nước trở thành
một bộ phận của kinh tế thế giới.
Mở rộng các hình thức liên kết kinh tế để tăng cường khả năng cạnh
tranh. Để mở rộng phạm vi thế lực, tăng sức cạnh tranh phù hợp với bước phát
triển mới của kinh tế và kĩ thuật, cùng với chiến lược sáp nhập, các công ty đa
quốc gia lớn còn đẩy mạnh hoạt động liên hợp. Đó là sự thiết lập quan hệ hợp
tác giữa hai hoặc nhiều công ty đa quốc gia ngang sức cùng hoặc khác quốc tịch
nhằm thực hiện mục tiêu nào đó.
Đa dạng hóa và chuyên môn hóa cao độ là một xu hướng chiến lược mới
của mỗi công ty đa quốc gia: Các công ty thông qua sản xuất nhiều chủng loại
sản phầm hoặc thỏa mãn nhiều lĩnh vực dịch vụ khác nhau để giảm bớt rủi ro,
tìm kiếm cơ hội kinh doanh mới, đối phó với tình trạng kinh tế thế giới tăng
trưởng chậm, nhu cầu thị trường giảm sút. Một số khác lại dốc toàn lực phát huy
thế mạnh, chuyên môn của mình.

1.2 . Chuyển giá:
1.2.1 Khái niệm:
5
Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa,
dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên
giới không theo giá thị trường nhằm chuyển thu nhập và lời nhuận từ nước có
thuế cao sang nước có thuế thấp, tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc
gia (multinational corporation) trên toàn cầu.
Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện
nhằm thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên
kết. Hành vi ấy có đối tượng tác động chính là giá cả. Sở dĩ giá cả có thể xác
định lại trong những giao dịch như thế vì các chủ thể có quyền định đoạt trong
kinh doanh, có quyền quyết định giá cả của một giao dịch. Vì vậy, họ có quyền
mua hay bán hang hóa, dịch vụ với giá mà họ mong muốn. Hơn nữa, các chủ
thể có mối quan hệ gắn bó chung về lời ích nên sự khác biệt về giá giao dịch
được thực hiện giữa các chủ thể kinh doanh có cùng lợi ích không làm thay đổi
lợi ích toàn cục nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ. Thông
qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang nơi bị
điều tiết thấp hơn và ngược lại. Tồn tại sự khác nhau về chính sách thuế của các
quốc gia là điều không tránh khỏi do chính sách kinh tế - xã hội của họ không
thể đồng nhất, cũng như sự hiện hữu của các quy định ưu đãi thuế là điều tất
yếu. Chênh lệch mức độ điều tiết thuế vì thế hoàn toàn có thể xảy ra.
Do đó, chuyển giá chỉ có ý nghĩa đối với các giao dịch được thực hiện
giữa các chủ thể có mối quan hệ liên kết. Để làm điều này họ phải thiết lập một
chính sách về giá mà ở đó giá chuyển giao có thể được định ở mức cao hay thấp
tùy vào lợi ích đạt được từ những giao dịch như thế. Chúng ta cần phân biệt
điều này với trường hợp khai giá giao dịch thấp đối với cơ quan quản lý để trốn
thuế nhưng đằng sau đó họ vẫn thực hiện thanh toán đầy đủ theo giá thỏa thuận.
Trong khi đó nếu giao dịch bị chuyển giá, họ sẽ không phải thực hiện vế sau
của việc thanh toán trên và thậm chí họ có thể định giá giao dịch cao. Các đối

tượng này nắm bắt và vận dụng được những quy định khác biệt về thuế giữa các
quốc gia, các ưu đãi trong quy định thuế để hưởng lợi có vẻ như hoàn toàn hợp
pháp. Như thế, vô hình trung, chuyển giá đã gây ra sự bất bình đẳng trong việc
thực hiện nghĩa vụ thuế do xác định không chính xác nghĩa vụ thuế, dẫn đến bất
bình đẳng về lợi ích, tạo ra sự cách biệt trong ưu thế cạnh tranh.
5
Tuy vậy, để xác định một chủ thể đã thực hiện chuyển giá thật không
đơn giản. Bởi vì, nếu định giá cao hoặc thấp mà làm tăng số thu thuế một cách
cục bộ cho một nhà nước thì cơ quan có thẩm quyền nên định lại giá chuyển
giao. Chẳng hạn, giá mua đầu vào nếu được xác định thấp, điều đó có thể dẫn
đến chi phí thấp và kết quả là thu nhập trước thuế sẽ cao, do đó thuế thu nhập
doanh nghiệp tăng; hoặc giả như giá xuất khẩu định cao cũng làm doanh thu
tăng và kết quả là cũng làm tăng số thuế mà nhà nước thu được. Nhưng cần
hiểu rằng điều đó cũng có nghĩa rằng nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp liên kết ở
đầu kia có khả năng đã giảm xuống do chuyển một phần nghĩa vụ của mình qua
giá sang doanh nghiệp liên kết này.
Hành vi này chỉ có thể được thực hiện thông qua giao dịch của các chủ
thể có quan hệ liên kết. Biểu hiện cụ thể của hành vi là giao kết về giá. Nhưng
giao kết về giá chưa đủ để kết luận rằng chủ thể đã thực hiện hành vi chuyển
giá. Bởi lẽ nếu giao kết đó chưa thực hiện trên thực tế hoặc chưa có sự chuyển
dịch quyền đối với đối tượng giao dịch thì không có cơ sở để xác định sự
chuyển dịch về mặt lợi ích. Như vậy, ta có thể xem chuyển giá hoàn thành khi
có sự chuyển giao đối tượng giao dịch cho dù đã hoàn thành nghĩa vụ thanh
toán hay chưa. Giá giao kết là cơ sở để xem xét hành vi chuyển giá. Chúng ta
có thể đánh giá một giao dịch có chuyển giá hay không khi so sánh giá giao kết
với giá thị trường. Nếu giá giao kết không tương ứng với giá thị trường thì có
nhiều khả năng để kết luận rằng giao dịch này có biểu hiện chuyển giá. Ngoài
ra, còn có một số dấu hiệu để nhận biết chuyển giá như:
o DN lỗ liên tục nhiều năm nhưng doanh thu tăng, hoạt động sản
xuất mở rộng. Câu chuyện lỗ nhiều năm hiện được DN đối phó bằng cách

biến hóa như: chủ động để ba năm lỗ liên tục, sau đó 1-2 năm lãi nhưng mức
lãi rất ít, để rồi lũy kế ra vẫn lỗ Các giao dịch nội bộ hay còn gọi là giao
dịch liên kết thể hiện bất thường.
o Có các nghiệp vụ chuyển giao từ các doanh nghiệp lien kết ở
những quốc gia có thuế suất thấp.
o Các doanh nghiệp có tình hình lãi và lỗ luân phiên hoặc phát
sinh không bình thường.
5
o Các doanh nghiệp mà tỷ suất lợi nhuận của chúng nhỏ hơn
nhiều so với các doanh nghiệp khác cùng trong ngành.
o Các doanh nghiệp có chi phí sản xuất thực tế khá thấp.
1.2.2 Động cơ thúc đẩy
1.2.2.1 Động cơ bên ngoài:
Một là, sự khác biệt về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Khi phát
hiện ra sự khác biệt lớn giữa thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của hai
quốc gia, với mục tiêu luôn muốn tối đa hóa lợi nhuận của mình các MNC sẽ
tiến hành thực hiện hành vi chuyển giá nhằm mục đích giảm thiểu tối đa khoản
thuế mà MNC này phải nộp cũng như là tối đa hóa lợi nhuận sau thuế của
MNC. Khi có chênh lệch về thuế suất thì phương thức chuyển giá mà các MNC
thường sử dụng đó là nâng giá mua đầu vào các nguyên, vật liệu, hàng hóa và
định giá bán ra hay giá xuất khẩu thấp tại các công ty con đóng trên các quốc
gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cao. Như vậy, bằng cách thực
hiện này thì MNC đã chuyển một phần lợi nhuận từ quốc gia có thuế suất thuế
thu nhập doanh nghiệp cao sang quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh
nghiệp thấp và như vậy mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận đã được thực hiện thành
công.
Hai là, Với mục đích là bảo toàn và phát triển nguồn vốn đầu tư ban
đầu, các MNC sẽ tiến hành đầu tư vào một quốc gia nếu họ dự đoán rằng trong
tương lai đồng tiền của quốc gia này sẽ mạnh lên nghĩa là số vốn đầu tư ban
đầu của họ được bảo toàn và phát triển, ngược lại họ sẽ rút đầu tư ra khỏi một

quốc gia nếu họ dự đoán rằng trong tương lai đồng tiền của quốc gia này sẽ bị
yếu đi nghĩa là vốn đầu tư ban đầu của họ bị giảm đi.
Dựa trên các dự báo về tình hình tỷ giá mà các MNC có thể thực hiện
các khoản thanh toán nội bộ sớm hơn hay muộn hơn nhằm giảm rủi ro về tỷ
giá. Các khoản công nợ có thể được thanh toán sớm hơn nếu các dự báo cho
rằng đồng tiền của quốc gia mà MNC có công ty con sẽ bị mất giá. Và ngược
lại các khoản thanh toán sẽ bị lùi lại nếu dự báo cho rằng đồng tiền của quốc
gia đó có xu hướng mạnh lên.
5
Ba là, chi phí cơ hội cũng là một động lực để các MNC thực hiện hành vi
chuyển giá. Các MNC nhận ra rằng các khoản lợi nhuận của họ chỉ có thể
chuyển về nước sau khi kết thúc năm tài chính và sau khi được kiểm tra của cơ
quan thuế và chịu sự kiểm soát ngoại tệ của cơ quan quản lý ngoại hối. Vì vậy, các
cơ hội đầu tư có thể sẽ bị bỏ lỡ. Do các MNC sẽ tiến hành thủ thuật chuyển giá
nhằm thu hồi vốn đầu tư và bắt lấy cơ hội đầu tư khác. Trong các hoạt động liên
doanh liên kết với các đối tác trong nước thì các MNC sẽ định giá thật cao các
yếu tố đầu vào mua từ công ty mẹ nhằm tăng cường tỷ lệ góp vốn và nắm quyền
quản lý. Ngoài ra, các MNC có thể cấu kết với các công ty nước ngoài khác làm
lũng đoạn thị trường trong nước.
Bốn là, tình hình lạm phát của các quốc gia khác nhau, nếu quốc gia
nào có tỷ lệ lạm phát cao tức đồng tiền nước đó bị mất giá. Do đó MNC sẽ
tiến hành hoạt động chuyển giá nhằm bảo toàn lượng vốn đầu tư và lợi nhuận.
Năm là, yếu tố tình hình kinh tế-chính trị của quốc gia mà MNC
có chi nhánh hay công ty con. Các chính sách kinh tế thay đổi ảnh hưởng
đến quyền lợi của các công ty con của MNC thì MNC sẽ thực hiện các hành vi
chuyển giá nhằm chống lại các tác động. Hoặc nếu tình hình chính trị bất ổn,
để giảm rủi ro và bảo tồn vốn kinh doanh bằng cách chuyển giá thì MNC
muốn thu hồi vốn đầu tư sớm. Ngoài ra hoạt động chuyển giá cũng nhằm làm
giảm các khoản lãi từ đó giảm áp lực đòi tăng lương của lực lượng lao động,
cũng như giảm sự chú ý của các cơ quan thuế của nước sở tại.

1.2.2.2 Động cơ bên trong:
Khi các hoạt động sản xuất kinh doanh của MNC tại chính quốc hay tại
các công ty thành viên trên các quốc gia khác bị thua lỗ. Lý do dẫn đến sự thua lỗ
có thể là do sai lầm trong kế hoạch kinh doanh, sai lầm trong việc nghiên cứu và
đưa sản phẩm mới vào thị trường, các chi phí quản lý hay chi phí quảng cáo,
quảng bá sản phẩm quá cao dẫn đến kết quả kinh doanh bị thua lỗ. Để tạo ra một
bức tranh tài chính tươi sáng hơn cho công ty khi đứng trước các cổ đông và các
bên hữu quan khác thì chuyển giá như là một cứu cánh để thực hiện ý đồ trên.
Chuyển giá giúp cho các MNC san sẻ thua lỗ giữa các thành viên với nhau từ đó
làm giảm các khoản thuế phải nộp và tạo nên kết quả kinh doanh giả tạo vi phạm
pháp luật của các quốc gia. Các MNC khi thâm nhập vào một thị trường mới thì
5
điều quan trọng trong giai đoạn này là phải chiếm lĩnh thị trường, chiếm lĩnh thị
phần nhằm xây dựng nền móng ban đầu cho hoạt động kinh doanh sau này. Vì
vậy mà các MNC trong giai đoạn này sẽ tăng cường các hoạt động quảng cáo,
quảng bá sản phẩm làm cho giai đoạn này MNC sẽ bị lỗ nặng và kéo dài. Trong
các mối liên kết kinh doanh hay hợp tác kinh doanh thì các MNC sẽ dựa vào tiềm
lực tài chính hùng hậu của mình mà thực hiện các hành vi chuyển giá bất hợp
pháp để làm cho hoạt động kinh doanh thua lỗ kéo dài và chiếm lấy quyền quản
lý và kiểm soát công ty. Tồi tệ hơn là đẩy các đối tác ra khỏi hoạt động kinh
doanh và chiếm toàn bộ quyền kiểm soát và chuyển quyền sở hữu công ty. Tình
trạng này thường xảy ra phổ biến tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam
khi mà trình độ quản lý còn yếu kém. Sau khi đánh bật các các đối thủ và
những bên liên kết kinh doanh ra khỏi thị trường thì MNC sẽ chiếm lĩnh thị
trường và nâng giá sản phẩm để bù lại phần chi phí trước đây đã bỏ ra.
Do được hưởng các đặc quyền, đặc lợi trong quá trình kêu gọi đầu tư
của nước chủ nhà và nắm trong tay các quyền về kinh tế chính trị và xã hội mà
MNC xem công ty con đặt trên quốc gia này như là trung tâm lợi nhuận của cả
MNC và thực hiện hành vi chuyển giá để lại hậu quả đáng kể cho nước tiếp
nhận đầu tư.

Ngoài ra chuyển giá còn được thực hiện do việc chuyển giao các sản
phẩm và dịch vụ có tính đặc thù cao, độc quyền và tính bảo mật cao như trong
các ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, y dược… nhằm
giảm các rủi ro khi giao dịch các sản phẩm này thì chuyển giá là phương pháp
được các MNC lựa chọn.
1.2.3. Hình thức chuyển giá
1.2.3.2. Chuyển giá thông qua vốn đầu tư
Các nhà đầu tư nước ngoài thông qua góp vốn bằng các dây chuyền máy
móc, thiết bị cũ, mang đặc thù và thường định giá cao hơn giá trị thực tế. Đây là
hành vi phản ánh giá không trung thực dẫn đến hoạch toán lỗ giả nhưng lãi thật.
Luật đầu tư nước ngoài quy định ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt được quy
định, các doanh nghiệp nước ngoài phải góp ít nhất 30% tổng số vốn.
1.2.3.3. Chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ:
Đây là hành vi chuyển giá thông qua việc các công ty nước ngoài chuyển
giao công nghệ sản xuất, kinh doanh cho các bên liên kết tại Việt Nam và thu tiền
5
bản quyền với giá cao trong điều kiện lợi dụng việc định giá của ta còn gặp nhiều
khó khăn. Do đó, chi phí đầu vào bị đẩy lên cao, dẫn đến hạch toán thua lỗ, còn
khoản phí bản quyền được chuyển giao cho bên nước ngoài hưởng.
1.2.3.4. Chuyển giá thông qua chuyển giao nguyên vật liệu, hàng
hoá:
Thông qua công ty mẹ ở nước ngoài đã chi phối đẩy giá đầu vào lên cao
của nguyên vật liệu chuyển giao giữa công ty con ở Việt Nam và các bên liên kết
và chuyển lợi nhuận từ Việt Nam về công ty liên kết tại quốc gia có thuyế thu nhập
doanh nghiệp thấp hơn.
1.2.3.5. Chuyển giá thông qua các hình thức cung cấp dịch dụ:
Do việc cung cấp dịch vụ giữa công ty mẹ với các công ty con và giữa
các công ty trong tập đoàn rất khó xác định giá, một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư
vốn vào Việt Nam cung cấp dịch vụ quản lý và hỗ trợ quản lý cho cả tập đoàn như
dịch vụ kế toán, tài chính, tư vấn, quản lý tài sản,…họ tính giá dịch vụ này rất cao

để chuyển lợi nhuận từ công ty con sang công ty mẹ với mục đích tránh thuế tại
Việt Nam.
1.2.3.6. Chuyển giá thông qua chi trả lãi vay vốn sản xuất kinh
doanh:
Thông qua hình thức vay vốn từ bên liên kết và trả lãi suất vay cao. Mục
đích là chuyển lợi nhuận từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sang bên
liên kết tại nước có thuế suất thuế thấp hơn để tránh nghĩa vụ thuế tại Việt Nam.
Trên đây là 5 hình thức chuyển giá chính, nhưng chắc chắn rằng doanh
nghiệp FDI còn tiềm ẩn nhiều hành vi chuyển giá khác nữa khi mà mô hình hoạt
động của họ còn qua nhiều khâu trung gian.
1.2.4. Kinh nghiệm chống chuyển giá ở một số nước:
1.2.4.1 Kinh nghiệm chống chuyển giá ở Mỹ
Theo báo cáo của Cơ quan thuế nội địa Mỹ (IRS), từ năm 1998 tới 2005,
khoảng 2/3 các công ty Mỹ và khoảng 68% các công ty nước ngoài hoạt động kinh
doanh tại Mỹ trốn thuế TNDN thông qua việc chuyển một lượng lớn thu nhập ra
nước ngoài để tránh một khoản tiền thuế lên đến 8 tỷ USD mỗi năm. Thực tế cho
thấy, thuế suất ở Mỹ khoảng 40% cao hơn nhiều quốc gia khác, vì vậy hiện tượng
chuyển giá của các tập đoàn đa quốc gia hoạt động tại Mỹ là khá phổ biến. Nhằm
chống lại hiện tượng trên, Mỹ đã có một số biện pháp chống chuyển giá tương đối
nghiêm ngặt. Đạo luật cơ bản và đầy đủ nhất về việc chống chuyển giá Mỹ là đạo
5
luật IRS Sec 482. Đạo luật này quy định nguyên tắc căn bản giá thị trường là cơ sở
cho thực hiện định giá chuyển giao giữa các MNC với nhau nhưng đồng thời cổ vũ
cho việc vận dụng phương pháp định giá chuyển giao trên cơ sở chiết tách lợi
nhuận. Mỹ quy định cụ thể các nguyên tắc chế tài dành cho hành vi chuyển giá bao
gồm: phạt chuyển giá trong giao dịch và phạt chuyển giá bổ sung.
Trước hết, phạt chuyển giá trong giao dịch (Transaction penalty) là loại
hình chế tài khi có chênh lệch đáng kể trong giá chuyển giao nếu so sánh với căn
bản giá thị trường theo quy định IRS Sec 482, mà hậu quả là số thu nhập chịu thuế
không phản ánh đúng thực tế của nghiệp vụ phát sinh. Với mức sai phạm trọng yếu

đáng kể, mức phạt chuyển giá 20% dành cho trường hợp có sai sót đáng kể do
chuyển giá vượt quá 200% (hay dưới 50%) so với mức mà IRS Sec 482 xác định
được. Với tổng mức sai phạm trọng yếu: mức phạt chuyển giá 40% dành cho
trường hợp có sai sót đáng kể do chuyển giá vượt quá 400% (hay dưới 25%) so với
mức mà IRS xác định được.
Ngoài phạt chuyển giá trong giao dich, đạo luật IRS Sec 482 còn áp dụng
chế tài phạt chuyển giá bổ sung. Phạt bổ sung (Net Adjustment Penalty) được áp
dụng nếu phần thu nhập chịu thuế sau khi tính lại theo IRS Sec 482 tăng vượt mức
quy định có thể cho trước. Trong trường hợp phần thu nhập tăng thêm vượt quá
mức thấp nhất trong hai mức 5 triệu USD hoặc 10% trên tổng số thuế phải nộp,
khoản phạt bổ sung 20% trên số thuế truy thu sẽ được áp dụng. Trong trường hợp
phần thu nhập tăng thêm vượt quá mức thấp nhất trong hai mức 20 triệu USD hoặc
20% trên tổng số thuế phải nộp, khoản phạt bổ sung 40% trên số thuế truy thu sẽ
được áp dụng.
Để đánh giá và phát hiện hành vi chuyển giá, Mỹ sử dụng 6 phương pháp
định giá bao gồm: Phương pháp giá tự do có thể so sánh được (Comparable
Uncontroller Price – CUP). Phương pháp giá bán lại (Resales Price Method).
Phương pháp chi phí cộng thêm vốn (Cost Plus Method). Phương pháp chiết tách
lợi nhuạn (Profit Split Method). Phương pháp chiết tách lợi nhuận có thể so sánh
được (Comparabable Profit Split Method). Phương pháp lợi nhuận có thể so sánh
(The Comparable Profit Method). Trong đó, phương pháp được sử dụng rộng rãi
nhất là phương pháp giá bán lại (Resales price method) và phương pháp giá phí
cộng thêm (cost plus method) vì những tài liệu cần thiết không quá phức tạp khi
thu thập. Thực tế cho thấy, phương pháp chiết tách lợi nhuận (Profit split method)
5
là phương pháp dễ áp dụng và ít tốn kém nhất ở Mỹ. Tuy nhiên do tính chính xác
không cao nên đã bị chỉ trích khá nhiều bởi các MNC.
Ngoài ra, ở Mỹ, việc lưu trữ và nộp trình các tài liệu hồ sơ liên quan đến
giá bán, các trí trị mua, bán, chuyển nhượng và các chứng từ khác không được quy
định bởi luật. Nhưng trên thực tế, các công ty cần lưu giữ các tài liệu đó liên tục

trong nhiều năm liền để phục vụ cho việc điều tra, xem xét khi có yêu cầu. Kể từ
khi có yêu cầu, công ty phải gửi đầy đủ tài liệu đến IRC trong vòng tối đa 30 ngày.
Việc xuất trình đầy đủ các chứng từ có ý nghĩa lớn trong việc xác định đâu là
phương pháp tốt nhất sẽ được sử dụng để xem xét hành vi chuyển giá. Một số giấy
tờ được yêu cầu cụ thể gồm có: tổng quan về người trả thuế, phân tích tính các yếu
tố về pháp luật và kinh tế ảnh hưởng đến việc định giá, bản mô tả cấu trúc tổ chức,
một bản mô tả phương pháp định giá và lí do tại sao phương pháp đó lại được sử
dụng, một bản mô tả phương pháp thay thế và giải thích tại sao nó lại không được
sử dụng, một bản mô tả các giao dịch có kiểm soát và tất cả các số liệu nội bộ được
dùng để phân tích các giao dịch đó, một bản mô tả về các số liệu có thể so sánh, và
tính có thể so sánh đó được đánh giá như thế nào. (A description of comparables
used, how comparabilitiy was evaluated), một bản giải thích tất cả các phân tích
kinh tế và cơ sỡ để hình thành phương pháp tính giá, bất kỳ tài liệu nào được phát
hiện sau khi năm tài chính kết thúc nhưng trước khi việc hoàn thuế diễn ra và mô
tả về hệ thống lưu giữ các số liệu.
Ở Mỹ, các thỏa thuận đơn phương, song phương hoặc đa phương APA
được thực hiện dưới sự điều chỉnh của Revenue Procedure 2006-9 (Pev.Proc.2006-
9) được sửa đổi 12/2005. Để thực hiện được APA, đòi hỏi khoản phí cao hơn theo
yêu cầu từ IRS. Cụ thể, IRS đưa ra các thay đổi cho chương trình APA gồm có:
quản lí chặt chẽ hơn nữa các quá trình quản trị, sự minh bạch của doanh nghiệp
được yêu cầu cao hơn, APA sẽ không được tiến hành cho đến khi quá trình đăng kí
hoàn toàn hoàn tất, thêm vào những điều kiện mà APA có thể bị tạm dừng, ví dụ
như sự thiếu trung thực trong việc thực hiện, đơn giản hóa hệ thống phí.
Mỹ không có một chương trình chính thức trong việc ưu tiên xem xét người
nộp thuế ở góc độ một ngành công nghiệp cụ thể mà tổ chức dưới góc độ 5 nhóm
ngành chính. Gần đây, hầu hết việc kiểm toán chuyển giá xuất hiện ở 2 trong 5
nhóm ngành sau: thông tin liên lạc, công nghệ và truyền thông, nhóm ngành bán lẻ,
thực phẩm, dược và nhóm ngành công nghiệp chăm sóc sức khỏe.
5
Mỹ liên tục nâng cao số lượng và trình độ của đội ngũ nhân viên thuế vụ

nhằm phục vụ cho việc điều tra chống chuyển giá được thực hiện chính xác và chặt
chẽ hơn. Năm 2009, cơ quan thuế tuyển chọn thêm 1.200 nhân viên và dự định
thêm 800 nhân viên trong năm 2010 để thực hiện rà soát, giám sát giá chuyển
nhượng (Tạp chí CFO, 1/9/2009).
1.2.4.2 Kinh nghiệm chống chuyển giá của Trung Quốc.
Năm 2009, khi cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính lan rộng làm vốn FDI
toàn thế giới giảm gần 40%, nền kinh tế Trung Quốc vẫn giữ được vị trí thứ 2 về
thu hút vốn FDI với tổng vốn là 90 tỷ USD. Đây thực sự là một thị trường đầy tiềm
năng về nguồn lực cũng như thị trường tiêu thụ rộng lớn.
Một cuộc khảo sát năm 2007 của Cục Thống kê quốc gia đã cho thấy rằng:
gần hai phần ba doanh nghiệp nước ngoài thua lỗ rõ ràng là đã cố tình thực hiện
báo cáo sai sự thật và đã sử dụng chuyển giá để tránh nộp 30 tỷ Nhân Dân Tệ
(khoảng 4,39 tỷ USD) trong lĩnh vực thuế (Global Times, 31/7/2009 ). Do đó chính
phủ Trung Quốc cũng đã tăng cường các quy định định giá chuyển giao và tích cực
hơn trong điều tra chuyển giá. Cơ quan thuế thông báo rằng trước năm 2005 họ
điều tra khoảng 1.500 trường hợp thì có 1.200 trường hợp bị xử phạt và mang lại
doanh thu thuế bổ sung khoảng 460 triệu Nhân Dân Tệ. Các hành động tích cực
trong năm 2007 dẫn đến kết quả là 192 trường hợp, và mang lại doanh thu 987
triệu Nhân Dân Tệ (Daily 18 Thượng Hải, 4/2/2008).
Trước năm 2008, Trung Quốc duy trì song song hai hệ thống thuế, một cho
doanh nghiệp trong nước và một cho các doanh nghiệp nước ngoài. Một cuộc khảo
sát năm 2005 cho thấy hai hệ thống thuế tạo ra một sự chênh lệch về thuế suất có
hiệu lực gần 10% giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước, điều này được các
doanh nghiệp nước ngoài ưa chuộng.
Tuy nhiên, ngày 16 tháng 3 năm 2007, Quốc hội đã ban hành Luật TNDN
mới đã thống nhất một mức thế suất chung cho hai hệ thống này. Thuế TNDN có
hiệu lực từ ngày 01/01/2008, áp đặt một mức thuế suất thống nhất 25% cho tất cả
các doanh nghiệp, trong nước và nước ngoài. Ngoài ra, nó cũng chú trọng đáng kể
về định giá chuyển giao, khuyến khích các giám sát chặt chẽ hơn các giao dịch của
các bên liên kết. Trung Quốc cũng gia tăng củng cố hệ thống thuế. Pháp luật điều

5
chỉnh chuyển giá hiện nay Trung Quốc đang áp dụng các quy định chủ yếu theo
các luật sau: Luật Thuế TNDN (2007); Thực hiện Quy phạm pháp luật thuế TNDN
(2007); Thông tư Guoshuifa số 2 (2009).
Trung Quốc đồng thời cũng đưa ra các biện pháp xử phạt cụ thể đối với
hành vi chuyển giá. Điều 60-73 của Luật quản lý thuế quy định rằng hành vi vi
phạm luật có thể bị phạt tiền, và những vi phạm nghiêm trọng như trốn thuế, gian
lận thuế có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Luật thuế TNDN Trung Quốc
cũng nêu rõ, từ sau ngày 01 tháng 1 năm 2008 các khoản thuế bị trả thiếu liên
quan đến giao dịch giữa các bên liên kết sẽ phải chịu một khoản lãi phí. Khoản
lãi suất này được tính bằng lãi suất cho vay cơ bản Nhân dân tệ của Ngân hàng
Nhân Dân Trung Quốc cùng kì cộng 5% phí. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp cung
cấp được các tài liệu và thông tin liên quan khác theo quy định này thì 5% phí
tăng thêm này có thể được giảm bớt hoặc loại bỏ hoàn toàn.
Trung Quốc cũng khuyến cáo những hậu quả bất lợi mà những người
không tuân thủ quy định giá chuyển nhượng có thể gặp. Đó là người nộp thuế có
thể sẽ bị đưa vào một trong những mục tiêu đầu tiên cho một cuộc thanh tra về
vấn đề định giá chuyển giao. Thông thường, người nộp thuế không được chấp
nhận tham gia vào các thỏa thuận giá trước.
Trung Quốc cũng đã nới lỏng các quy định để tham gia vào các thỏa
thuận giá trước. Do đó các doanh nghiệp sẽ được tham gia nhiều hơn. Để hội đủ
điều kiện để trở thành ứng viên cho APA các công ty phải có tổng giá trị các giao
dịch hằng năm với các bên liên quan lớn hơn 40 triệu Nhân Dân Tệ, đã chuẩn bị
hoặc đã nộp hồ sơ hàng năm và nộp hồ sơ tài liệu đương thời theo quy định của
pháp luật. Đồng thời công ty sẽ không tốn lệ phí khi nộp đơn cho APA.
Trong năm 2009, cơ quan Thuế Trung Quốc đã đặc biệt tập trung vào
các chủ thể, công ty có giao dịch với các khu vực có luật thuế thấp hoặc có giao
dịch với các thiên đường thuế. Ngoài ra, các phòng thuế tại các thành phố
thuộc Bắc Kinh và Thượng Hải và tại các tỉnh ven biển cũng đã rất tích cực
trong việc thực hiện hoạt động kiểm toán giá chuyển nhượng, các giao dịch liên

quan đến tiền bản quyền và phí dịch vụ lao động cũng được kiếm soát chặt chẽ
(kết quả khảo sát chuyển giá toàn cầu, Ernst & Young, 2009). Cũng theo nguồn
này công bố, trong những năm qua, cơ quan thuế đã tập trung vào các ngành may
5
mặc, điện tử và viễn thông, thực phẩm và nước giải khát, bán lẻ, công nghiệp, ô
tô, dược phẩm, và các ngành công nghiệp dịch vụ, cũng như về các vấn đề tài
chính liên quan đến xây dựng cơ sở hạ tầng và các công ty có vốn đầu tư ra bên
ngoài.
Hiện nay, các phòng thuế cũng tăng cường các công cụ như công nghệ
thông tin và cơ sở dữ liệu để hỗ trợ cho công tác chống tránh thuế. Phòng thuế
cũng đang gia tăng huấn luyện cho các chuyên gia chống trốn thuế bao gồm cả
đào tạo ngắn hạn và dài hạn, cả đào tạo trong nước và đào tạo nước ngoài. Ngoài
ra, các sở thuế cũng đã tuyển dụng thêm sinh viên tốt nghiệp đại học các ngành
liên quan để bổ sung thêm vào lực lượng chống trốn thuế.
1.2.4.3 Kinh nghiệm chống chuyển giá của Nhật Bản.
Cục thuế của Nhật (NAT) đã xem xét tình hình chuyển giá theo một hướng
khác bằng cách thực hiện rất nhiều các đánh giá kiểm tra về thuế, chủ yếu đều tập
trung vào các công ty mẹ ở Nhật. Cụ thể trong năm 2005, một số các hoạt động của
NAT nhằm vào và phát hiện tình trạng chuyển giá của các tập đoàn lớn ở Nhật như
Sony, Takeda, Mazda, Mitsui, Mitsubishi… Cách tiếp cận này được NAT triển
khai thực hiện trong bối cảnh lịch sử lâu dài trong công cuộc chống chuyển giá. Cơ
quan thuế Nhật Bản đã thực hiện công việc kiểm soát lớn gấp đôi từ năm 2001. Có
những cải tổ trong các chỉ thị của Cục quản lý thuế dựa trên các hoạt động chuyển
giá và dựa trên các tình huống nghiên cứu về việc áp dụng thuế suất về định giá
chuyển giao đưa ra vào ngày 22/10/2008 bao gồm các điều khoản nhắm vào các
đối tượng là chi phí quản lý, tài sản vô hình và dịch vụ.
5
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHỐNG CHUYỂN GIÁ TẠI CÁC DOANH
NGHIỆP FDI Ở VIỆT NAM
2.1 Tổng quan tình hình chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam thời

kỳ hội nhập:
Từ 2006 đến thàng 8 năm 2008, nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam
không ngừng tăng lên và liên tiếp lập những mốc kỷ lục mới về tổng mức vốn đầu
tư. Năm 2009, trong giai đoạn kinh tế thế giới lâm vào tình trạng khủng hoảng
nặng nề, nguồn vốn FDI vẫn duy trì ở mức cao, tuy thấp hơn so với đỉnh vào năm
2008. Việt Nam là nước hấp dẫn đầu tư thứ 9 trong các nước Châu Á – Thái Bình
Dương. Nguồn vốn FDI đổ vào nước ta không chỉ là tăng về số lượng các dự án
mà tăng về cả qui mô và chất lượng của các dự án. Cũng như ngày càng có nhiều
quốc gia, các tập đoàn lớn trên thế giới tìm hiểu cơ hội đầu tư vào thị trường Việt
Nam. Việc tiếp nhận vốn FDI sẽ tạo ra cơ hội tiếp cận với trình độ khoa học kỹ
thuật hiện đại, trình độ quản lý kinh tế tầm cao của thế giới và giải quyết công ăn
việc làm cho lao động trong nước. FDI trở thành một trong những nguồn cung cấp
vốn quan trọng cho nên kinh tế, là động lực thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển,
tạo nên tính năng động và cạnh tranh cho thị trường.
Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực của vốn FDI, thì nguồn vốn
này cũng tiềm ẩn những rủi ro nếu chúng ta không có các biện pháp quản lý hợp lý
và đồng bộ. Đặt biệt trong những năm gần đây tình hình các doanh nghiệp FDI kê
khai lỗ kéo dài nhiều năm làm cho chính phủ Việt Nam bị thất thu thuế ảnh hưởng
trực tiếp đến ngân sách, bên cạnh đó tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh với các
doanh nghiệp trong nước, tác động không tốt đến cơ chế quản lý tài chính của
chính phủ trong lĩnh vực FDI, và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nguồn vốn này
cũng như tác động xấu đến mục tiêu thu hút và quản lý vĩ mô vốn FDI của chính
phủ.
Vấn đề được đặt ra là đã có hành vi chuyển giá tại các doanh nghiệp FDI
hiện nay. Tình hình chuyển giá đã và đang là một thực trạng đáng báo động ở Việt
Nam. Ông Nguyễn Quang Tiến, Vụ trưởng - Phó Trưởng ban cải cách, Tổng cục
Thuế Việt Nam, thừa nhận phạm vi và mức độ chuyển giá ở Việt Nam hiện nay
khá phổ biến. Cụ thể, tình hình khai lỗ của các doanh nghiệp FDI ngày càng
5
nghiêm trọng hơn khi mà luật pháp chưa được chuẩn bị tốt để có thể bắt kịp với sự

gia tăng nhanh chóng của FDI cũng như trình độ quản lý của các cơ quan quản lý
về thuế so với trình độ quản lý của các doanh nghiệp FDI các nước. Trong khi các
quốc gia phát triển đã có nhiều kinh nghiệm trong việc chống chuyển giá đối với
các công ty đa quốc gia, thì Việt Nam vẫn còn thiếu kinh nghiệm trong vấn đề
Chúng ta cùng xem xét số liệu thông kê tình hình khai lỗ của các doanh
nghiệp do Cục Thống kê và Bộ Kế hoạch và Đầu tư khảo sát.
Bảng thống kê tình hình khai lỗ của các doanh nghiệp trên cả nước từ năm
1995 dến năm 2005.
N
ăm
Số doanh nghiệp
được khảo sát
Số doanh
nghiệp khai lỗ
Tỷ lệ %
1
995
525 390 74.3%
1
996
654 481 73.6%
1
997
860 576 67%
1
998
981 702 71.5%


2

003
525 390 74.3%
2
004
654 481 73.6%
2
005
1450 1260 87%
5
(Nguồn Tổng kế hoạch thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài 1998-2000,
Bộ Kế Hoạch và Đầu tư năm 2001, Bộ Kế Hoạch và đầu tư năm 2005).
Từ những con số thống kê, nghi ngờ tính trung thực trong các báo cáo kê
khai nộp thuế do các doanh nghiệp nộp về cơ quan thuế. Có thể nói, thua lỗ là xu
hướng chung của doanh nghiệp FDI trên cả nước. Nó được phản ánh qua tỷ lệ
đóng góp cho ngân sáchquốc gia của khối này (không kể dầu thô) khá thấp. Trong
các năm 2005-2008 chỉ dao động quanh 9-10% tổng thu ngân sách của quốc gia.
Riêng năm 2009, phần đóng góp của doanh nghiệp FDI giảm 11,2% so với kế
hoạch, trong khi khu vực tư nhân trong nước chỉ giảm 4,4%, còn doanh nghiệp nhà
nước tăng 6,2%. Có thể thấy, mức đóng góp cho ngân sách của doanh nghiệp FDI
đã không tăng tỷ lệ thuận với tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu và quy mô về giá trị
sản xuất công nghiệp.
Đáng nói nữa là, dù biết khá rõ thủ thuật lách thuế của các doanh nghiệp
FDI, nhưng để chứng minh được điều này không phải việc dễ dàng đối với ngành
thuế. Cho đến nay, việc kiểm soát giá nội bộ để chống gian lận qua chuyển giá là
một thách thức lớn đối với các cơ quan quản lý ở Việt Nam. Lý do thứ nhất có thể
kể đến là, ở ta chưa có luật chống chuyển giá, tiếp nữa là Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp chưa đủ chặt chẽ để quản lý và chế tài đặt ra cho hành vi này.
Ngành thuế vẫn phải áp dụng các biện pháp cũ là phân loại doanh nghiệp,
yêu cầu doanh nghiệp giải trình và giám sát chặt chi phí mức tiêu hao vật tư và hợp
đồng mua bán của các doanh nghiệp. Và tất nhiên, hiệu quả của các biện pháp vừa

nêu không hiệu quả, thậm chí là bó tay đối với các thủ thuật trốn thuế của các
doanh nghiệp FDI.
2.2. Một số ví dụ điển hình về tình trạng chuyển giá ở Việt Nam và tác hại đối với
nền kinh tế trong nước.
Những hành vi chuyển giá thường thấy ở các doanh nghiệp có nguồn vốn
FDI ở Việt Nam thường có 4 biểu hiện dưới đây:
Thứ nhất, biểu hiện cụ thể của hành vi chuyển giá là giao kết về giá. Nhưng
giao kết về giá chưa đủ để kết luận rằng chủ thể đã thực hiện hành vi chuyển giá.
Bởi lẽ nếu giao kết đó chưa thực hiện trên thực tế hoặc chưa có sự chuyển dịch
quyền đối với đối tượng giao dịch thì không có cơ sở để xác định sự chuyển dịch

×