Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

TÀI LIỆU ôn vào lớp 10 môn văn HAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (691.32 KB, 108 trang )

Bài 1: “ĐỒNG CHÍ ” - CHÍNH HỮU.
A. Kiến thức cần nhớ.
1.Tác giả
- Chính Hữu tên là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926, quê ở Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
- Ông tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Từ người lính Trung đoàn Thủ đô trở
thành nhà thơ quân đội. - Chính Hữu làm thơ không nhiều, thơ ông thường viết về người lính và
chiến tranh, đặc biệt là những tình cảm cao đẹp của người lính, như tình đồng chí, đồng đội, tình
quê hương đất nước, sự gắn bó giữa tiền tuyến và hậu phương.
- Thơ ông có những bài đặc sắc, giàu hình ảnh, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc.
- Chính Hữu được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm
2000.
2. Tác phẩm
- Bài “Đồng chí” sáng tác đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong
chiến dịch Việt Bắc (thu đông năm 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên
chiến khu Việt Bắc.
- Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mạng của văn học
thời kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954).
- Bài thơ đi theo khuynh hướng : Cảm hứng thơ hướng về chất thực của đời sống kháng chiến,
khai thác cái đẹp, chất thơ trong cái bình dị, bình thường, không nhấn mạnh cái phi thường.
- Mạch cảm xúc (bố cục)
Phần 1: 6 câu thơ đầu: Lý giải về cơ sở của tình đồng chí. Câu 7 có cấu trúc đặc biệt (chỉ với
một từ với dấu chấm than) như một phát hiện, một lời khẳng định sự kết tinh tình cảm giữa
những người lính.
Phần 2: 10 câu thơ tiếp theo 9từ câu 8 -> 17) : Những biểu hiện cụ thể và sức mạnh của tình
đồng chí, đồng đội của người lính
+ Đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng của nhau (Ruộng nương anh gửi bạn thân
cày…… nhớ người ra lính)
+ Đó là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính (Áo anh rách
vai…. Chân không giầy)
+ Sự lạc quan và tình đồng chí đồng đội đã giúp người lính vượt qua được những gian khổ,
thiếu thốn ấy.


-Phần 3: 3 câu cuối: Chất thơ trong cuộc sống chiến đấu của người lính.
3.Gợi ý p hâ n tích.
a. Cơ sở hình thành tình đồng chí:
- Tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân của những người lính:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
+ Hai câu thơ với cách nói hoán dụ đã giới thiệu thật giản dị xuất thân của người lính: họ là
những người nông dân nghèo.
+ Không hẹn đợi, chẳng thân quen, thậm chí xa cách quá chừng mà bỗng nhiên trở nên thân
quen, gần gũi.
- Tình đồng chí được hình thành từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lí tưởng, sát cánh bên
nhau trong hàng ngũ chiến đấu:
Súng bên súng đầu sát bên đầu
+ Tác giả đã tả thực những giây phút bên nhau cùng chiến đấu. Tình cảm ấy thật ngọt ngào, thân
thương. “Súng bên súng” là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến đấu. “Đầu
sát bên đầu” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao. Phép điệp từ “súng, đầu,
bên” tạo nên âm điệu khoẻ, chắc, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lí tưởng, cùng chung nhiệm
vụ.
1
- Tình đồng chí nảy nở và trở thành bền chặt trong sư chan hoà và chia sẻ mọi gian lao cũng
như niềm vui:
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
+ Câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm của một thời gian khổ. Cái khó khăn thiếu thốn hiện
lên: đêm rét, chăn không đủ dắp nên phải “chung chăn”. Nhưng chính sự “chia ngọt sẻ bùi ấy”
ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm của người đồng đội đẻ họ gắn bó với nhau “Đôi tri
kỉ” là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình.Bạn chiến đấu thành “tri kỉ”, về sau trở thành
“đồng chí”.
- Đến đây, câu thơ 7,8 được nhà thơ đột ngột rút ngắn và hạ xuống một dòng thơ thật đặc biệt
với hai tiếng: “Đồng chí”! Câu thơ ngắn, cùng với hình thức cảm thán mang âm điệu vui tươi,
vang lên như một sự phát hiện, một lời khẳng định. Hai tiếng “đồng chí” mới mẻ biết chừng nào,

nửa quen, nửa lạ đã nói lên một tình cảm lớn lao, mới mẻ của thời đại. “Đồng chí” theo nghĩa
gốc là những người cùng chí hướng trong việc mưu đồ một sự nghiệp chung ở trong một tổ
chức. Nhưng đến bài thơ này thì tình đồng chí vừa là tình chiến đấu vừa là tình thân. Đó là một
tiếng gọi sâu thẳm và thiêng liêng. Tình đồng chí, đồng đội của những người lính bắt đầu ngân
vang từ hai chữ “đồng chí”.Dòng thơ chỉ có một dòng mà có tác dụng khép mở tài tình, khép lại
đoạn một - một đoạn đường từ “xa lạ” đến “quen nhau” và mở ra đoạn hai – những biểu hiện
cao đẹp của tình đồng chí.
=> Tóm lại, đoạn thơ không nhiều lời mà kết tinh được chân lí lớn lao, đúng là một phong cách
thơ riêng của Chính Hữu: “Trong thơ, tôi cố gắng để nói cái cần nói, không nói dài, nói thừa.
Tôi mong có được sự hàm súc của lời thơ”.
b. Những biểu hiện cảm động của tình đồng chí:
- là sự cảm thông sâu sắc tâm tư nỗi niềm của nhau. Những người lính gắn bó với nhau, họ
hiểu đến những nỗi niềm sâu xa, thầm kín của đồng đội mình:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng mình những gì thân thương nhất của quê hương: ruộng
nương, gian nhà, giếng nước gốc đa…. Từ “mặc kệ” cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của người
lính. Nhưng sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương, hình dung những người ở nhà
đang thương nhớ họ, dõi theo tin tức của họ. HÌnh ảnh “giếng nước gốc đa” là hình ảnh thân
thương của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa, được Chính Hữu vận dụng, đưa vào thơ
thật thật đâm đà, kín đáo mà ý nhị biết bao! Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hoá, đang
đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận? Hay “người ra lính” vẫn đêm ngày ôm ấp
bóng hình quê hương? Biết bao nhớ nhung! Những người lính không nói mình nhớ, lại chỉ nói
người khác nhớ.
- Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
+ Những gian lao, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính những năm đầu kháng chiến chống
Pháp hiện lên thật cụ thể, chân thực: áo rách, quần vá, chân không giày…. Những ngày đầu
kháng chiến, quan và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu
lương thực, thuốc men,…. Người lính ra trận “áo vải chân không đi lùng giặc đánh”, quần áo
rách tả tơi, ốm đâu bệnh tật, sốt rét rừng…
2
+ Chữ “biết” nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Các chữ “Anh với tôi”, “áo
anh, quần tôi” xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm
thiết cao đẹp.
+ “Miệng cười buốt giá” thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của người lính. Trong gian lao, nụ
cười tuy thấm thía gian khổ, thiếu thốn mà vẫn hồn nhiên bởi họ có hơi ấm và niềm vui của tình
đồng chí.
+ Hình ảnh thơ “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” thật xúc động và thấm thía: anh nắm lấy tay
tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau truyền cho nhau tình thương . Tình cảm chân
thành và tha thiết ấy không diễn tả thành lời mà thể hiện bằng hành động giản dị, mộc mạc,
không ồn ã nhưng thấm thía. Hơi ấm ở bàn tay, ở tấm lòng đã chiến thắng cái lạnh ở “chân
không giày”, chiến thắng cái thời tiết “buốt giá” của những đêm “sương muối giữa rừng”,
chống chọi với những cơn “sốt run người”để “đi tới và làm nên thắng trận”.
- Trong đoạn thơ, “anh” và “tôi” luôn đi đôi với nhau, có khi đứng chung trong một câu thơ, có
khi đi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau. Cấu trúc ấy đã diễn tả sự gắn bó, chia sẻ của những
người đồng đội. Vượt qua những cơn lạnh thấu xương chỉ có thể bằng nghị lực, bản thân, bằng
sự nâng đỡ của tình người, tình đồng chí.
c. Đoạn kết bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính.
- Ba câu cuối cùng kết thúc bài thơ bằng những hình ảnh thơ thật đẹp:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo

- Nổi lên trên nền cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo - hiện thực khắc nghiệt của những đêm
rừng Việt Bắc là hình ảnh người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là hình ảnh cụ thể
của tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Họ đã “đứng cạnh bên nhau” giữa cái nơi
giá rét của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút “chờ giặc tới”. Tình đồng chí đã
sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả… Tầm vóc của người lính bỗng chốc trở nên lớn lao,
anh hùng.
- Câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc: “Đầu súng trăng treo”- một hình ảnh cô đọng giàu cảm
xúc. Đó là một hình ảnh thật mà bản thân CHữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa
rừng khuya: “… suốt đêm vầng trăng từ bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng
trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng đối với chúng tôi như một người
bạn; rừng hoang sương muối là một khung cảnh thật….”
- Nhưng Chính Hữu đã dùng hình ảnh vầng trăng treo trên đầu súng tạo ra những liên tưởng
phong phú và giàu chất lãng mạn. “Súng” biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực khốc liệt.
“Trăng” biểu tượng cho vẻ đẹp yên bình, mơ mộng và lãng mạn. Hai hình ảnh “súng và “trăng”
kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại
mà mơ mộng. Phải nói đây là những phút kì diệu, sự thăng hoa cao độ của tâm hồn tình cảm,
Chính Hữu mới có được những hình ảnh thơ đẹp nhất của chiến trường. Hình ảnh ấy mang cả
đặc điểm của thơ ca kháng chiến - một nền thơ giàu chất hiện thực và dạt dào cảm hứng lãng
mạn. (Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”). Vì vậy mà câu thơ này đã được Chính Hữu lấy làm
nhan đề cho cả một tập thơ - tập “Đầu súng trăng treo”.
4. Tổng kết:
Tình đồng chí của người lính dựa trên những cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu
được thể hiện thật tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn cảnh, nó góp phần quan trọng
tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của người lính cách mạng.
Bài thơ thể hiện hình tượng người lính cách mạng và tình đồng chí của họ qua những chi tiết,
hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm.
5.Liên hệ, mở rộng.
3
Nhớ (Hồng Nguyên)
Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ
Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ
Quan nhau từ buổi “một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Lột sắt đường tàu,
Rèn thêm dao kiếm.
Áo vải chân không,
Đi lùng giặc đánh.
Ba năm rồi gửi lại quê hương
Mái lều gianh
Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya
Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô
Tháng năm bạn cùng thôn xóm.
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng.
Kì hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa.
- Đồng đội ta
Chia tay nhau đứng trong chiến hào chật
hẹp
Chia tay nhau cuộc đời, chia nhau cái
chết.
- Ba thằng quặp chặt gió lùa vào đâu?
Nửa đêm sương gội mái đầu,

Chòi cao phần phật mấy tàu lá khô
(Lê Kim)
- Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế,
Gió qua rừng, Đèo Khế gió sang
(Tố Hữu)
- Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng.
- Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
Bao giờ trở lại (Hoàng Trung Thông)
Bấm tay tính buổi anh đi
Mẹ thường vẫn nhắc: Biết khi nào về?
Lúa xanh xanh ngắt chân đê
Anh đi là để giữ quê quán mình
Cây đa bến nước sân đình
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường
Hoa cau thơm ngát đầu nương
Anh đi chín đợi mười chờ
Tin thường thắng trận, bao giờ về
anh?”
- Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa
Cả Đô Thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh
hùng….”
(Ngày về - Chính Hữu)
“ Ôi núi thẳm rừng sâu.
Trung đội cũ về đâu
Biết chăng chiều mưa mau
Nơi đây chăn giá ngắt
Nhớ cái rét ban đầu

Thấm mối tình Việt Bắc…”
(Chiều mưa đường số 5 – Thâm
Tâm)
B. Một số câu hỏi luyện tập
Câu 1: Viết đoạn văn trình bày cảm nhận của em về đoạn cuối bài thơ “Đồng chí” của Chính
Hữu
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Sử dụng hình ảnh tương phản đối lập : “ Rừng hoang sương muối” với những đêm dài lạnh
giá đôis lập với những người lính đứng cạnh bên nhau trong cái nơi sự sống và cái chết chỉ
trong gang tấc . Chính Hữu càng làm nổi bật sức mạng của tình đồng chí . Từ “ chờ” cũng đã nói
rõ cái tư thế , cái tinh thần chủ động đánh giặc của họ . Rõ ràng khi những người lính đứng cạnh
bên nhau vững chãi thì cái gian khổ , ác liệt của cuộc chiến bị mờ đi . Tầm vóc những người
lính bỗng trở nên lớn lao anh hùng.
4
- Những câu thơ tự do đang trải dài thì câu kết lại thu vào trong bốn chữ “Đầu súng trăng
treo “làm nhịp thơ đột ngột thay đổi , dồn nén, trắc gọn, gây sự chú ý cho người dọc. Trong đêm
phục kích giặc, ngươi chiến sĩ bỗng phát hiện mũi súng như treo một vầng trăng . Từ “ treo” đã
tạo nên một mối quan hệ bất ngờ, độc đáo, nối liền mặt đất với bầu trời, gợi những liên tưởng lí
thú vừa hiện thực lại vừa lãng mạn.
+ Hiện thực vì đêm khuya trăng trên vòm trời cao đã sà xuống thấp dần, ở một vị trí và tầm
nhìn nào đó, vầng trăng như treo trên đầu mũi súng của người chiến sĩ đang phục kích chờ giặc.
+ Lãng mạn vì trong hoàn cảnh hết sức gian khổ khốc liệt : đêm đông giá lạnh , rừng hoang
sương muối, cái chết cận kề, tâm hồn nhạy cảm của người chiến sĩ vẫn tìm thấy chất thơ bay
bổng trong vẻ đẹp bất ngờ của trăng . “Súng” là biểu tượng của chiến đấu , “trăng” là biểu tượng
của cái đẹp , cho niềm vui lạc quan , cho sự bình yên của cuộc sống . Súng và trăng là hư và thực
, là chiến sĩ và thi sĩ , là “một cặp đồng chí “tô đậm vẻ đệp của những cặp đồng chí đang đứng
cạnh bên nhau . Chính tình đồng chí đã làm cho chiến cảm thấy cuộc đời vẫn đẹp , vẫn thơ mộng
, tạo cho họ sức mạnh và chiến thắng.

=> Hiếm thấy một hình tượng thơ nào vừa dẹp vừa mang đầy ý nghĩa như “Đầu súng trăng
treo” . Đây là một sáng tạo đầy bất ngờ . Hình tượng này góp phần nâng cao giá trị bài thơ , tạo
nên được dư vang trong lỏng người đọc .
=> Như vậy tình cảm đồng chí trong bài thơ là tình cảm sâu lắng chân thành của những con
người gắn bó keo sơn trong cuộcchiến đấu vĩ đại vì một lí tưởng chung.
.
Câu hỏi tương tự: Sửa lỗi câu văn sau : Với hình ảnh « đầu súng trăng treo » đã diễn tả đầy sức
gợi cảm mối tình tình đồng chí keo sơn trong bài bài thơ « đồng chí » được sáng tác năm 1954
sau chiến thắng Việt Bắc.
Triển khai đoạn văn có câu chủ đề trên.
Câu 2: Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ “Đồng chí”
- Bài thơ về tình đồng chí đã cho ta thấy vẻ đẹp bình dị mà cao cả của người lính cách mạng, cụ
thể ở đây là anh bộ đội hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
+ Hoàn cảnh xuất thân: họ là những người nông dân nghèo ra đi từ hai miền đất xa nhau: “ nước
mặn đồng chua”, “ đất cầy lên sỏi đá.”
+ Họ ra đi vì nghĩa lớn (hai chữ “mặc kệ” nói được cái dứt khoát, mạnh mẽ mặc dù vẫn luôn
lưu luyến với quê hương “giếng nước gốc đa ”
+ Họ đã trải qua những gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn sốt rét run người, trang phục
phong phanh giữa mùa đông lạnh giá => Những gian khổ càng làm nổi bật vẻ đẹp của anh bộ
đội: sáng lên nụ cười của người lính (miệng cười buốt giá)
+ Đẹp nhất ở họ là tình đồng chí đồng đội sâu sắc, thắm thiết
+ Kết tinh hình ảnh người lính và tình đồng chí của họ là bức tranh đặc sắc trong đoạn cuối của
bài thơ.
Câu 3.Theo em, vì sao tác giả đặt tên cho bài thơ về tình đồng đội của những người lính là
“Đồng chí”?
Đó là tên một tình cảm mới, đặc biệt xuất hiện và phổ biến trong những năm cách mạng và
kháng chiến. Đó là cách xưng hô phổ biến của những người lính, công nhân, cán bộ từ sau Cách
mạng. Đó là biểu tượng của tình cảm cách mạng, của con người cách mạng trong thời đại mới.
Câu 4: Phân tích giá trị nghệ thuật của hình ảnh hoán dụ mang tính nhân hoá trong câu
thơ: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” (Tham khảo bài tập làm văn)

Hình ảnh “ giếng nước gốc đa” đã tô đậm sự gắn bó yêu thương của người lính với quê
hương . Hình ảnh ấy vừa được sử dụng như một phép hoán dụ ( Giếng nước gốc đa biểu hiện
cho làng quê Việt Nam – quê hương người lính ) , vừa được sử dụng như một phép nhân hoá
( giếng nước gốc đa biết nhớ nhung người lính ) . Nó giúp người lính diễn tả một cách hồn
5
nhiên và tinh tế tâm hồn mình. Giếng nước gốc da kia nhớ người ra lính hay chính tấm lòng
người ra đi không nguôi nhớ về quê hương và đã tạo cho giếng nước gốc đa một tâm hồn ? Quả
thực giữa người chiến sĩ và quê hương đã có một mối giao cảm vô cùng ssâu sắc đậm đà . Tác
giả như đang gợi lên hai tâm tình đang soi vào nhau đến tận cùng.
Câu 5 . Phân tích bài thơ để thấy rõ chủ đề đồng chí hiện lên trong thơ Chính Hữu với rất
nhiều dáng vẻ:
Chủ đề đồng chí hiện lên trong thơ Chính Hữu mang rất nhiều dáng vẻ. “ Anh với tôi” khi
thì riêng rẽ trong từng dòng thơ để nói về cảnh ngộ của nhau : “ Quê hương anh nước mặn đồng
chua / Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá” ; khi lại chen lên đứng vào cùng một dòng: “ Anh với
tôi đôi người xa lạ / Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau” . Từ riên g lẻ đã nhập thành đôi ,
thành chung khăng khít khó tách rời : “ Súng bên súng đầu sát bên đầu / Đêm rét chung chăn
thành đôi tri kỉ”. Đây là những hình ảnh đầy ắp kỉ niệm và ấm áp tình đồng chí. Câu thơ đang từ
trải dài, bỗng cô đọng thành hai tiếng “Đồng chí” vang lên tha thiết ấm áp , xúc động như tiếng
gọi của đồng đội và nó khắc ghi trong lòng người về hai tiếng mới mẻ, thiêng liêng đó . Tình
đồng chí là cùng giai cấp , cùng nhau từ những chi tiết nhỏ nhất của đời sống “Áo anh rách vai -
Quần tôi có vài mảnh vá- Miệng cười buốt giá- Chân không giầy”. Trong buốt giá gian lao, các
anh truyền cho nhau hơi ấm tình đồng đội : “ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Những bàn tay
không lời mà nói được tất cả, các anh sát cánh bên nhau để cùng đi tới một chiều cao : “Đêm
nay rừng hoang sương muối - Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới - Đầu súng trăng treo” cùng
chung chiến hào , cùng chung sống chết , đó chính là biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng chí .
Chính tình đồng chí đã khiến các anh ngay giữa nnguy hiểm gian lao vẫn thấy tâm hôn thanh
thản và lãng mạn . Và đó cũng chính là tình cảm xã hội thiêng liêng nhất , là cội nguồn của tình
yêu nước , của sức mạnh con ngươờiViệt Nam
Câu 6
Có người chưa hiểu được hết câu thơ được coi là hay nhất trong bài thơ « Đồng chí » :

« Đầu súng trăng treo »
- Vì sao trăng vốn vời vợi trên cao nhưng lại có thể treo trên đầu súng nơi mặt đất ?
- Với việc đặt trăng trên đầu súng , câu thơ đã gợi ra những vẻ đẹp gì về tâm hồn người
chiến sĩ ?
- Xét quan hệ với hai câu thơ trên , hình ảnh này giúp người đọc cảm nhận được những
điều gì về đời sống và tình người lính giữa những người chiến sĩ ?
Trong bài thơ « Đồng chí » của Chính Hữu , hình ảnh người lính luôn tự tin , đoàn kết sát
cánh bên nhau trong hoàn cảnh chién đấu gian khổ :
« Đầu súng trăng treo ».
Hình ảnh thơ hết sức độc đáo và lí thú , vừa hiện thực vừa lãng mạn bay bổng. Đêm đã
khuya , vầng trăng hạ thấp ngang trời. Vì vậy mà trong tầm ngắm, người lính phát hiện ra một
điều lí thú : Vầng trăng vốn cao vời vợi nhưng lại có thể treo trên đàu súng nơi mặt đất .Quả là
một tâm hồn lãng mạn bay bổng. Giữa giây phút hiểm nguy , người lính vẫn say sưa với nét đẹp
trong dời, một vầng trăng sáng. Súng và trăng cách xa nhau trong không gian , thế nhưng lại
được xếp cạnh nhau. Súng là biểu tượng cuộc chiến đấu đầy gian khổ, trăng là biểu tượgn cho
cuộc sống thanh bình. Phải chăng hai hình ảnh đối lập được đặt cạnh nhau và nói lên bao điều
thú vị về lí tưởng chiến đấu của các anh. Họ mang bên mình vẻ đẹp của người lính, vẻ đẹp mơ
mộng lãng mạn, biết rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên.
Hình ảnh đó vừa có caí lạnh của rừng hoang sương muối, vừa có cái trắng trẻo tuyệt vời
của lí tưởng chiến đấu, vừa có cái ấm áp , nồng hậu của tình người, tình đồng chí. Quả thật ,
ngọn lửa ấm áp của trái tim những người lính đã xua tan cái lạnh khắc nghiệt của thiên nhiên cái
gian khổ hiểm nguy của cuộc chiế và đưa những người đồng đội xích lại gần nhau hơn. Rõ ràng
tình đồng chí đã làm đời người lính đẹp đẽ thơ mộng giữa thực taị khắc nghiệt.
Tham khảo một số mở bài và kết bài sau:
6
Mở bài 1: ( đề 2: Hình ảnh người lính trong bài thơ “Đồng chí”)
Người lính nông dân đã đi vào thơ ca bằng những hình ảnh chân thạt như vẻ đẹp trong “Nhớ”
của Hồng Nguyên, “Cá nước” của Tố Hữu nhưng tiêu biểu hơn là bài “Đồng chí” của Chính
Hữu được sáng tác vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1948).
Kết bài 1: Bài thơ thiên về khai thác đời sống nội tâm, tình cảm người lính. Vẻ đẹp của “Đồng

chí” là vẻ đẹp của đời sống tâm hồn người lính mà nơi phát ra vầng sáng lung linh nhất là mối
tình đồng đội, đồng chí quyện hoà với tình giai cấp. HÌnh ảnh “đầu súng trăng treo” xuất hiện
ở cuối bài thơ nâng vẻ đẹp người lính lên đến đỉnh cao khái quát, trong đó có sự hài hoà giữa
hiện thực và lãng mạn đồng thời mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.
Mở bài 2: (đề 3: cảm nhận về bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu)
Anh vẫn hành quân
Trên đường ra chiến dịch.
Đã từ lâu, hình tượng người chiến sĩ quân đội đã đi vào lòng dân và văn chương với những tư
thế, tình cảm, phẩm chất đẹp đẽ. Danh từ “bộ đội cụ Hồ” đã trở thành cái tên thân thương nhất
của nhân dân dành cho người chiến sĩ. Viết về đề tài quân đội có khá nhiều tác giả, nhưng để
thành công thì không dễ mấy ai. Riêng nhà thơ - người chiến sĩ Chính Hữu bằng cảm xúc của
người trong cuộc dã thành công xuất sắc với bài thơ “Đồng chí”. Tác phẩm đã diễn tả thật cảm
động mối tình đồng chí thiêng liêng và xứng đáng là một bài thơ trữ tình hay trong nền văn học
VN.
Kết bài 2: “Đồng chí”là một bài thơ hay vì bằng một ngôn ngữ nghệ thuật hàm súc, chắt lọc,
với những chi tiết thơ đầy gợi cảm, tác giả đã khắc hoạ được gương mặt những chiến sĩ vệ quốc
một thời, và quan trọng hơn đó là gương mặt tinh thần, tình cảm đồng chí mới mẻ, thiêng liêng,
là sức mạnh để những con người áo rách, chân không giày chiến thắng giặc Pháp.
Mở bài 3: ( Đề 4: Vẻ đẹp của tình đồng chí trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu)
Đồng đội ta
Chia tay nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia tay nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.
Vâng! Đó là tình cảm đồng đội keo sơn gắn bó từ trong tâm hồn thơ Chính Hữu mà để sau này
ông viết lên bài thơ “Đồng chí” như kết tinh tình cảm thiêng liêng chân thành ấy khiến rung
động bao trái tim bạn đọc.
Kết bài 3: Đồng chí! Hai tiếng thân thương lắng đọng trong lòng người đọc hơn nửa thế kỉ
nay. Tình cảm đồng chí, đồng đội là một nét đẹp truyền thống của người lính và được nhân lên
trong đời sống, trở thành một nét đẹp riêng tư tình đời, tình người của nhân dân Việt Nam.
Kết bài 4: Bài thơ với một bút pháp đặc trưng, điển hình, đó là hiện thực nhưng không bị khô
cứng cũng không bị sa vào ước lệ hào hoa với tất cả những cảm xúc của người trong cuộc,

Chính Hữu đã tái hiện được những hình ảnh thơ chân tình, giản dị, hàm súc lắng đọng nhưng
vẫn kiêu sa. “Đồng chí” mãi mãi là sự kết tinh và thăng hoa cao độ cho những người cầm bút,
khởi nguồn cảm xúc cho thơ ca.
Mở bài 4: “Đồng ch”í là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính
trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết vào
đầu xuân năm 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, nó đã đi qua một hành trình
hơn nửa thế kỉ, làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.
Kết bài 5 : « Đồng chí » là bài thơ độc đáo viết về anh bộ đội cụ Hồ - người nông dân mặc áo
lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài chiến sĩ tráng
lệ, cao cả và thiêng liêng.
Đề bài PTTP : Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu để thấy bài thơ đã diễn tả sâu
sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng chiến.
I. Mở bài
II. Thân bài
7
1. Cơ sở của tình đồng chí (7câu đầu)
- Trước hết bài thơ được bắt đầu bằng giọng điệu thủ thỉ, tâm tình của hai người đồng đội
nhớ laị kỉ niệm ngày đầu nhập ngũ. Nhịp điệu thơ tính chất kể chuyện , tâm sự như khơi dậy
hoài niệm của người lính về tháng ngày đầu tiên gặp gỡ. Họ là những người xa lạ, từ những
miền quê nghèo khác nhau gặp nhau trở thành tri kỉ bởi họ có chung một con đường đến với
cuộc kháng chiến, đó chính là cơ sở của tình đồng chí :
« Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày len sỏi đá
Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí ! »
- Mặc dù họ ở những vùng miền khác nhau, vùng « đồi núi trung du » hay miền « đồng
chua nước mặn » nhưng đó đều là quê hương của đói nghèo lam lũ vất vả. Họ phần lớn đêu là

những người nông dân mặc áo lính, từ những miền quê nghèo đến với quân ngũ.
- Hai câu thơ đầu theo cấu trúc sóng đôi , đối ứng ; « Quê anh , làng tôi » đã diễn tả sự
tương đồng về cảnh ngộ . Và chính sự tương đồng về cảnh ngộ ấy đã trở thành niềm đồng cảm
giai cấp, là cơ sở của tình đồng chí, đồng đội của người lính. Từ những miền quê nghèo, những
người dân chất phát , mộc mạc đó đã gặp nhau trong cuộc kháng chi ến vĩ đại của dân tộc.
- Họ cùng chung nhiệm vụ trong chiến đấu : « Súng bên súng đầu sát bên đầu ». « Súng »
và « đầu » là hình ảnh đẹp mang ý nghĩa tượng trưng. « Súng » nói lên nhiệm vụ chién đấu,
« Đầu » là ý thức là lí tưởng , tình cảm. Hai hình ảnh đó hoà nhập vào nhau diẽn tả người chiến
sĩ chung nhiệm vụ , chung chí hướng và lí tưởng cao đẹp. Điệp từ « súng » và « đầu » được nhắc
lại hi lần như nhấn mạnh tình cảm gắn bó trong chiến đấu của người đồng chí.
- Họ cùng trải qua những khó khăn gian khổ trong buổi đầu của cuộc kháng chiến gian
nan : « Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ » . « Tri kỉ » là người bạn thân thiết hiểu rất rõ về ta.
Vất vả nguy nan đã gắn kết những người đồng chí khiến họ trở thành những người bạn tâm giao
gắn bó. Hình ảnh thật giản dị nhưng xúc động.
- Với caí chung và cái riêng ấy , họ đã trở thành « đồng chí ». Từ « Đồng chí » được đặt
thành cả một dòng thơ tạo hơi thở trầm lắng thiêng liêng. Nó như một nốt nhấn mạnh sự thiêng
liêng cao cả trong tình cảm mới mẻ này. Nó đã lí giải ví so những người lính từ bốn phươn g trời
lại tụ họp về đây thân thiết gắn bó như máu thịt. Khi họ gọi nhau bằng tiếng đồng chí họ không
chỉ còn là người nông dân nghèo đói lam lũ , mà họ trở thành anh em trong cả một cộng đồng
với một lí tưởng cao cả vì đất nước quên thân để tạo nên sự hồi sinh cho quê hương cho dân tộc.
=> Đoạn thơ gây ấn tượng với một tình cảm giai cấp mà lên , từ lí tưởng mà có.
2. Những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí
Nếu ở khổ thơ thứ nhất tác giả lí giải cơ sở của tình đồng chí thì ở khổ thơ thứ hai , tác giả
đã nêu lên những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí.
- Họ gắn bó với nhau trong những đêm rét chung chăn, trong những lúc hành quân và họ
hiểu những nỗi lòng sâu kín của nhau :
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
+ Họ xuất thân là những người nông dân nghèo bởi vậy họ gắn bó với ruộng đồng chòm

xóm. Ra đi vơi họ là bao khó khăn day dứt nhưng tiếng gọi của tổ quốc lớn lao hơn đã cho họ
quyết tâm . Hai chữ « mặc kệ » đã nói lên được cái kiên quyết dứt khoát mạnh mẽ ấy và trách
nhiệm vì cuộc sống bình yên nơi quê hương mà họ ra đi . Song chính thái độ gồng mình lên ấy
cho ta hiểu rằng thực sự những người lính đã bỏ lại đằng sau bỏ thương mến nhớ nhung và tình
8
cảm ấy càng cố kìm nén bao nhiêu thì càng trở nên bỏng cháy bấy nhiêu. Cho nên mới có câu
thơ « Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính ». Hình ảnh giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
càng tô đậm sự gắn bó yêu thương của người lính với quê hương Hình ảnh “ giếng nước gốc
đa” đã tô đậm sự gắn bó yêu thương của người lính với quê hương . Hình ảnh ấy vừa được sử
dụng như một phép hoán dụ ( Giếng nước gốc đa biểu hiện cho làng quê Việt Nam – quê hương
người lính ) , vừa được sử dụng như một phép nhân hoá ( giếng nước gốc đa biết nhớ nhung
người lính ) . Nó giúp người lính diễn tả một cách hồn nhiên và tinh tế tâm hồn mình. Giếng
nước gốc đa kia nhớ người ra lính hay chính tấm lòng người ra đi không nguôi nhớ về quê
hương và đã tạo cho giếng nước gốc đa một tâm hồn ? Quả thực giữa người chiến sĩ và quê
hương đã có một mối giao cảm vô cùng sâu sắc đậm đà . Tác giả như đang gợi lên hai tâm tình
đang soi vào nhau đến tận cùng.
- Trong s ự đông cảm đó , họ đã chia sẻ nh ững gian lao thiếu th ốn c ủa cu ộc đ ời ng ư ời
lính:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
S ốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Đó là những cơn sốt rét rừng đến run người đang tàn phá cơ thể người lính , l à nh ững
trang phục mong manh giữa mùa đông lạnh gi á.
Họ không chỉ chia sẻ mọi gian lao mà họ còn cho nhau hơi ấm , cho nhau nụ cười ấm áp
của tình dồng chí . Chi tiết “ miệng cười buốt giá” đã ấm lên sáng lên tình đồng đội và tinh thần
lạc quan của người chiến sĩ . Rồi đến cái cử chỉ “ thương nhau tay nắm lấy bàn tay” đã thể hiện
tình thương đồng đội sâu sắc . Cách biểu hiện yêu thương không ồn ào mà thấm thía . Trong
buốt giá gian lao , các anh truyền cho nhau nièm tin , truyên ho nhau sức mạnh để vượt lên tất cả
đảy lùi gian lao. Câu thơ ấm áp trong ngọn lửa thân thương !

3. Bài thơ kết thúc với những hình ảnh thật đẹp , thật có ý nghĩa .
Nó là biểu tượng thiêng liêng của tình đồng chí chung chiến hào
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Sử dụng hình ảnh tương phản đối lập : “ Rừng hoang sương muối” với những đêm dài lạnh
giá đối lập với những người lính đứng cạnh bên nhau trong cái nơi sự sống và cái chết chỉ trong
gang tấc . Chính Hữu càng làm nổi bật sức mạng của tình đồng chí . Từ “ chờ” cũng đã nói rõ
cái tư thế , cái tinh thần chủ động đánh giặc của họ . Rõ ràng khi những người lính đứng cạnh
bên nhau vững chãi thì cái gian khổ , ác liệt của cuộc chiến bị mờ đi . Tầm vóc những người
lính bỗng trở nên lớn lao anh hùng.
- Những câu thơ tự do đang trải dài thì câu kết lại thu vào trong bốn chữ “Đầu súng trăng
treo “làm nhịp thơ đột ngột thay đổi , dồn nén, trắc gọn, gây sự chú ý cho người dọc. Trong đêm
phục kích giặc, ngươi chiến sĩ b ỗng phát hiện mũi súng như treo một vầng trăng . Từ “ treo” đã
tạo nên một mối quan hệ bất ngờ, độc đáo, nối liền mặt đất với bầu trời, gợi những liên tưởng lí
thú vừa hiện thực lại vừa lãng mạn.
+ Hiện thực vì đêm khuya trăng trên vòm trời cao đã sà xuống thấp dần, ở một vị trí và tầm
nhìn nào đó, vầng trăng như treo trên đầu mũi súng của người chiến sĩ đang phục kích chờ giặc.
+ Lãng mạn vì trong hoàn cảnh hết sức gian khổ khốc liệt : đêm đông giá lạnh , rừng hoang
sương muối, cái chết cận kề, tâm hồn nhạy cảm của người chiến sĩ vẫn tìm thấy chất thơ bay
bổng trong vẻ đẹp bất ngờ của trăng . “Súng” là biểu tượng của chiến đấu , “trăng” là biểu tượng
của cái đẹp , cho niềm vui lạc quan , cho sự bình yên của cuộc sống . Súng và trăng là hư và thực
, là chiến sĩ và thi sĩ , là “một cặp đồng chí “tô đậm vẻ đệp của những cặp đồng chí đang đứng
9
cạnh bên nhau . Chính tình đồng chí đã làm cho chiến cảm thấy cuộc đời vẫn đẹp , vẫn thơ mộng
, tạo cho họ sức mạnh và chiến thắng.
=> Hiếm thấy một hình tượng thơ nào vừa dẹp vừa mang đầy ý nghĩa như “Đầu súng trăng
treo” . Đây là một sáng tạo đầy bất ngờ . Hình tượng này góp phần nâng cao giá trị bài thơ , tạo
nên được dư vang trong lỏng người đọc .
=> Như vậy tình cảm đồng chí trong bài thơ là tình cảm sâu lắng chân thành của những con

người gắn bó keo sơn trong cuộcchiến đấu vĩ đại vì một lí tưởng chung.
**********************************
BÀI 2: BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH - PHẠM TIẾN DUẬT.
A. Kiến thức cần nhớ.
1. Tác giả
- Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở tỉnh Phú Thọ. Sau khi tốt nghiệp đại học, năm 1964 vào
bộ đội, hoạt động ở tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu của
phong trào thơ trẻ những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ.
- Thơ ông giàu chất liệu hiện thực, chiến trường, thể hiện sinh động, có giọng điệu ngang tàng,
tinh nghịch, sôi nổi, tươi trẻ, đã làm sống lại hình ảnh thế hệ trẻ ở Trường Sơn và những khó
khăn của thời đánh Mỹ gian khổ.
- Phạm Tiến Duật thể hiện hình ảnh thế hệ thanh niên trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ
qua những hình tượng cô gái thanh niên xung phong và anh bộ đội trên tuyến đường Trường
Sơn.
- Tác phẩm chính: Vầng trăng -Quầng lửa(1970), Thơ một chặng đường ( 1971), Ở hai đầu núi
(1981). Nhiều bài thơ đã đi vào trí nhớ của công chúng như các bài: Trường Sơn Đông, Trường
Sơn tây, Lửa đèn, Gửi em cô thanh niên xung phong….
2. Tác phẩm:
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính rút từ tập thơ Vầng trăng -Quầng lửa của tác giả. Là tác
phẩm đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ trong báo Văn nghệ (1969 - 1970).
- Bài thơ được ra đời trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mĩ diiễn ra rất ác liệt. Mĩ trút hàng
ngàn, hàng vạn tấn bom trên con đường chiến lược Trường Sơn. Trong khi đó những đoàn xe
vận tải vẫn băng ra chiến trường vì Miền Nam phía trước.
3. Gợi ý phân tích: Đây là một bài thơ khá độc đáo.
a. Cái độc đáo đã bộc lộ ngay từ nhan đề bài thơ, một cái nhan đề có vẻ như dài và thừa. Có lẽ
chỉ cần viết “Tiểu đội xe không kính” là đủ, là nói rõ được hiện thực phản ánh. Nhưng nhà thơ
lại viết “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Hai chữ “Bài thơ” nói lên cách khai thác hiện thực:
không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính, chỉ viết về hiện thực khốc liệt của chiến
tranh, mà chủ yếu là khai thác chất thơ vút lên từ hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ VN vượt lên
những khắc nghiệt của chiến tranh.

b. Sáng tạo độc đáo nhất là h ình ảnh những chiếc xe không kính vẫn băng ra chiến trường.
- Bài thơ mở đầu bằng một câu thơ rất lạ, giản dị như một lời nói thường:
Không có kính không phải vì xe không có kính.
-Câu thơ như một câu văn xuôi, chẳng có gì là thơ cả. Hình ảnh thơ lại càng lạ và có sức hấp dẫn
đặc biệt vì nó chân thực, độc đáo. Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa vào thơ
thì thường được “mĩ lệ hoá”, “lãng mạn hoá” và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả
thực. Ở bài thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính là một hình ảnh thực, thực đến trần
trụi, đó là những chiếc xe “không kính” rồi “không đèn”, “không mui” ấy vẫn chạy băng ra tiền
tuyến.
10
- Cái nguyên nhân của nó cũng rất thực: Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi”.Hình ảnh “bom
giật, bom rung” vừa giúp ta hình dung được một vùng đất từng được mệnh danh là “túi bom”
của dịch vừa giúp ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh.
- Những chiếc xe như vậy vốn không hiếm trong chiến tranh chống Mĩ trên đường Trường Sơn
lửa đạn nhưng phải có một hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng, tinh nghịch thích cái lạ như
Phạm Tiến Duật mới nhận ra đụơc và đưa nó vào thơ thành hình tượng thơ độc đáo của thời
chiến tranh chống Mĩ. Không tô vẽ, không cường điệu mà tả thực nhưng chính cái thực đã làm
người đọc suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mĩ. Hơn nữa, viết
về những người lái xe thì không gì gắn họ với hình ảnh chiếc xe, qua xe mà làm nổi bật hình ảnh
ngưới lái xe.
- Bởi thế, hai câu thơ mở đầu bài đã thu hút sự chú ý của người đọc, người đọc bỗng nhận ra
chất thơ rất đẹp từ hình ảnh ấy: Bom đạn khốc liệt của chiến tranh cũng chỉ đủ để làm cho những
chiếc xe mất kính, thậm chí “không có kính, rồi xe không có đèn – Không có mui xe thùng xe có
xước”. Và những chiếc xe như vậy vẫn ngang tàng băng ra chiến trường. Chính chất thơ ấy đâ
làm cho những chiếc xe không kính trở thành hình ảnh thơ độc đáo.
b. Hình ảnh những chiếc xe không kính đó làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở
Trường Sơn.
*Trên chiếc xe không kính, người lính hiện ra với tư thế ung dung, hiên ngang, bình tĩnh
Ung dung buồn lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng.

- Đảo ngữ “ung dung” với điệp từ “nhìn” cho ta thấy cái tư thế ung dung, thong thả, khoan thai,
bình tĩnh, tự tin của người làm chủ, chiến thắng hoàn cảnh. Bầu không khí căng thẳng với “Bom
giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía trước của một con người
luôn coi thường hiểm nguy. Nhịp thơ 2/2/2 với những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trở
nên chậm rãi, như diễn tả thái độ thản nhiên đàng hoàng.
- Thật bất ngờ, với tư thế ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên đường thành niềm vui
thích, một sự hưởng thụ, một cách tiếp xúc trực tiếp, mạnh mẽ với không gian bên ngoài.
+ Những cảm giác của người chiến sĩ trong chiếc xe không kính được miêu tả thật chân thực,
chính xác đến từng chi tiết qua những hình ảnh thơ nhân hoá, so sánh và điệp ngữ:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
+ Những chữ “nhìn” lặp đi lặp lại như một niềm sảng khoái bất tận. Không có kính, càng dễ
“nhìn đất, nhìn trời” với tư thế “nhìn thẳng” thật hiên ngang. Hay nhất là hai chữ “nhìn thẳng” –
nhìn thẳng vào gian khổ, nhìn thẳng vào hi sinh, không run sợ, không né tránh.
+ Không có kính chắn gió, bảo hiểm, xe lại chạy nhanh nên người lái phải đối mặt với bao khó
khăn nguy hiểm: nào là “:gió vào xoa mắt đắng”, nào là “con đường chạy thẳng vào tim”, rồi
“sao trời”, rồi “cánh chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa- rơi rụng, va đập, quăng ném vào
buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Đó là những ấn tượng thực nhưng qua cách cảm nhận của tác
giả, đã trở thành những hình ảnh lãng mạn. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun
vút chạy trên đường.
* Thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ , tinh thần lạc quan của người lính trẻ.
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính ừ thì ướt áo
11
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời

Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
- Trên con đường chi viện cho miền Nam ruột thịt, những người lính đã nếm trải đủ mùi gian
khổ. Những câu thơ giản dị như lời nói cửa miệng của người lính: “không có kính ừ thì có bụi, ừ
thì ướt áo”, “chưa cần rửa”, “chưa cần thay”…Điệp khúc ấy tạo nên giọng điệu ngang tàng, bất
chấp. Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng mà các anh càng bình tĩnh, dũng
cảm hơn, chấp nhận thử thách như một tất yếu. Đầu tóc mặt mũi bụi bám trắng không cần rửa,
áo ướt không cần thay, và vẫn có thể “phì phèo châm điếu thuốc – Nhìn nhau mặt lấm cười ha
ha”. Sự bình thản đã đạt đến mức vô tư lự một cách thật trẻ trung, cái thái độ “phót tỉnh” cũng
rất trẻ trung. Niềm vui và tiếng cười của những người lính trẻ sôi nổi, tinh nghịch cứ vút lên giữa
gian khổ khắc nghiệt, giữa cả nguy hiểm chết người của chiến tranh với những “bom giật, bom
rung”. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối đoạn có đến 6 thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”
gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản. Ý thơ rộn rã, sôi động như sự sôi
động hối hả của đoàn xe trên đường đi tới.
* Tình đồng chí, đồng độ i gắn bó keo sơn, thắm thiết - một nét đẹp phẩm chất của người
lính.
- Những khoảnh khắc của chiến tranh, giữa sống chết, những người lính trẻ sôi nổi, yêu đời từ
những miền quê khác nhau nhưng cùng một nhiệm vụ, lí tưởng đã gắn bó nhau như ruột thịt,
gia đình:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Cái bắt tay độc đáo là biểu hiện đẹp đẽ ấm lòng của tình đồng chí, đồng đội đầy mộc mạc
nhưng thấm thía : “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”, cái bắt tay thay cho lời nói như một sự bù đắp
tinh thần cho sự thiếu thốn về vật chất. Chỉ có những người lính, những chiếc xe thời chống Mĩ

mới có thể có những cái bắt tay ấy, một chi tiết nhỏ nhưng mang dấu ấn của cả một thời đại hào
hùng.
- Lúc cắm trại, các anh trò chuyện, ăn uống, nghỉ ngơi thoải mái, xuềnh xoàng, nhường nhịn
nhau như anh em ruột thịt.: chung bát,chung đũa, mắc võng chông chênh chỉ trong một thoáng
chốc. Tình cảm gia đình người lính thật bình dị, ấm áp thân thương tạo nên sức mạnh, nâng bước
chân người lính để rồi các anh lại tiếp tục hành quân: “Lại đi lại đi trời xanh thêm”, vì lòng
người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến. “Trời xanh thêm” vì lòng
người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng. Nhịp điệu câu thơ vừa sôi nổi, vừa nhịp
nhàng cùng với điệp từ “lại đi” được lặp lại hai lần gợi tả nhịp sống chiến đấu và hành quân của
tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh đạn bom nào có thể ngăn cản nổi. Sự sống
không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang – tư thế của người chiến
thắng.
* Đ iều làm nên sức mạnh để người lính vượt qua khó khăn, gian khổ chính là tình yêu
nước, là ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Không có kính, rồi xe
không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
12
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
- Khổ thơ cuối vẫn giọng thơ mộc mạc, mà nhạc điệu hình ảnh rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy
tưởng vừa bay bổng, vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của những chiến sĩ vận
tải Trường Sơn. Trong bốn câu thơ có sự tương phản rõ rệt giữa vật chất và tinh thần, giữa bên
ngoài và bên trong, giữa cái không và cái có. Bom đạn kẻ thù đã tước đi của chiếc xe rất nhiều,
biến chiếc xe trở thành trơ trụi đến kì lạ: “không kính, không mui, không đèn, thùng xe có
xước ” và biết bao chiến sĩ đã dũng cảm hi sinh. Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân
lên những thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn khúc “không có kính / rồi xe không có
đèn/ Không có mui xe/ thùng xe có xước” như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông
gai, bom đạn.
- Ấy vậy mà hai câu cuối, âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, hình ảnh đậm nét. Những chiếc xe
mang trên mình đầy thương tích đó lại như những chiến sĩ kiên cường vượt lên trên bom đạn,

hăm hở lao ra tiền tuyến. Phía trước ấy là miền Nam thân yêu. Sức mạnh để chiếc xe băng mình
ra trận chính là sức mạnh của trái tim người lính, một trái tim nồng nàn tình yêu nước và sôi trào
ý chí chiến đấu, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc.
- Điệp ngữ “không có”, các từ ngữ tương ứng “vẫn … chỉ cần có” đã làm cho giọng thơ, ý thơ
trở nên mạnh mẽ, hào hùng. Vẫn là cách nói thản nhiên ngang tàng của lính nhưng câu thơ lại
lắng sâu một tinh thần trách nhiệm và có ý nghĩa như một lời thề thiêng liêng. Quyết tâm chiến
đấu và chí khí anh hùng của người lính không có đạn bom nào của kẻ thù có thể làm lay chuyển
được.
5. Tổng kết:
Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính, qua đó khắc hoạ nổi bật
hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước,
với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm, niềm vui sôi nổi của
tuổi trẻ và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.
Tác giả đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, cùng với
ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ khoắn.
5. Liên hệ mở rộng.
Bài ca lái xe đêm (Tố Hữu)
Ơi chiếc xe vận tải
Ta cầm lái đi đây
Nặng biết bao ơn ngãi
Xe ơi cùng ta bay
Dù mưa bom bão đạn
Ta lấy đêm làm ngày
Ta cùng cây làm bạn
Xe đi trong đêm tối
Dù đường lạ đường quen
Xe đi không lạc lối
Có mắt ta làm đèn
Ta qua sông qua suối
Ta qua núi qua đèo

Lòng ta vui như hội
Như cờ bay gió reo.
Ơi này anh xung kích
Ơi này o du kích
Có nghe thấy gì không?
Chuyện chi mà rúc rích!
Ta đi xe trong đêm Trường Sơn.
Nhạc và lời của Tân Huyền
Những đêm Trường Sơn
Ta đã đi qua bao chặng đường vất vả
Đạn réo, bom rơi, mưa rừng xối xả
Những đêm Trường Sơn
Đường tiền tuyến uốn quanh co,
Mây trời đẹp quá,
Vỡ kính rồi, trăng tràn cả vào xe!
Tay lái thân yêu đã cùng ta
Bao chuyến đi về vượt từng hố bom
Từng ngọn cây vách đá
Tay lái thân yêu vẫn cùng ta
Đinh ninh trong dạ
Chi viện tiền phương xe lăn hối hả
Mang lửa nhiệt tình, đi giải phóng quê
hương

TRường Sơn Đông, Trường Sơn Tây
Phạm Tiến Duật
13
Nhớ (Phạm Tiến Duật)
Cái vết thương xoàng mà đi viện
Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo

Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ
bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.
-Thiếu tất cả ta rất giàu dũng khí
Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo.
(Tố Hữu)
- Kính chào anh con người đẹp nhất
Cả nước hôn anh chàng trai chân đất
Sống hiên ngang bất khuất trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi.
Một dây ná, một cây chông cũng tiến
công giặc Mỹ
- Vẫn đôi dép lội chiến trường
Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy.
(Tiếng hát sang xuân - Tố Hữu)
- Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai. (Tố
Hữu)
Phổ nhạc: Hoàng Hiệp
- Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây
Trường Sơn tây anh đi
Thương em bên ấy mưa nhiều
Con đường mà gánh gạo
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo
Hết rau rồi, em có lấy măng không?

Anh lên xe trời đổ cơn mưa
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ
Em xuống núi nắng về rực rỡ,
Cái nhành cây gạt mối riêng tư…
Từ nơi em đưa sang bên nơi anh
Những binh đoàn nôi nhau ra tiền tuyến,
Như tình yêu nối dài vô tận
Đông TRường Sơn nhớ tây Trường Sơn.
- Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
(Tây Tiến – Quang Dũng)
B. Câu hỏi luyện tập.
Câu 1 : “Không có kính rồi xe không có đèn”
a. Chép tiếp câu thơ trên để hoàn chỉnh đoạn thơ gồm 4 dòng.
b. Cho biết, đoạn thơ vừa chép trong bài thơ nào? Của ai? Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ
c. Từ “trái tim” trong câu thơ cuối cùng của đoạn vừa chép được dùng với nghĩa như thế
nào?
d. Viết một đoạn văn diễn dịch từ 6 đến 8 câu phân tích hình ảnh người lính lái xe trong
đoạn thơ.
Gợi ý:
a. Chép tiếp: Không có kính rồi xe không có đèn.
Không có mui xe thùng xe có xước.
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
b. (tham khảo phần kiến thức cần nhớ)
c. Từ “Trái tim” trong câu thơ cuối cùng có thể hiểu theo nghĩa chuyển:
- Chỉ người lính lái xe
- Chỉ sự nhiệt tình cứu nước, lòng yêu nước nồng nàn, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống

nhất đất nước.
d. Đoạn văn phải đảm bảo các yêu cầu về nội dung và hình thức (tham khảo câu 3,4)
- Cuộc chiến đấu ngày càng gian khổ, ác liệt (qua hình ảnh những chiếc xe ngày càng méo mó,
biến dạng)
- Bất chấp gian khổ, hi sinh, những chiếc xe vẫn thẳng đường ra tiền tuyến.
- Những người lính lái xe quả cảm vững tay lái vì học có một trái tim tràn đầy nhiệt tình cách
mạng, tình yêu tổ quốc nồng nàn, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam sắt đá.
14
Câu 2 : Triển khai câu chủ đề sau : Cả bài thơ là dòng cảm xúc của người lính lái xe trên
con đường xe ra tiền tuyến.
Thật vậy , dòng cảm xúc ấy tuôn chảy dào dạt trong suốt bài thơ . Đi vào cuộc chiến đấu
với tất cả tính chất chủ động , tự tin của người có lí tưởng co đẹp , có sức mạnh và tiềm lực nên
tâm hồn người lính cũng có nét thanh thản, vui tươi. Điều khiến những chiếc xe không kính với
tốc độ phi thường như lướt nhanh trong bom đạn họ có cmr giác thích thú, như cảm nhận cả con
đường “ chạy thẳng vào tim” . Qua khung cửa xe không kính các anh cảm nhận được vẻ đẹp của
những cánh chim và cả những ánh ứao đêm lấp lánh trên bầu trời . Gió cũng được nhan hoá và
chuyển đổi cảm giác thật ấn tượng : “ gió vào xoa mắt đắng”, mắt đắng , mắt cay là con mắt của
những người đói ngủ vì phải thức thâu đêm . Trong gian khổ ấy họ vẫn cất lên nụ cười lạc quan ,
yêu đời từ những khuôn mặt lám lem khi đồng đội gặp nhau. Những câu thơ lạc quan yêu đời
như thách thức với mọi khó khăn : “ Không có kính ừ thì có bụi . Bụi phun tóc trắng như người
già. Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc. Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” . Cái bắt tay của
những người lính cũng thật hồn nhiên , mộc mạc mà cũng thấm thía tình đồng chí đồng đội : “
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” . “ Từ trong bom rơi” mầ vẫn có cái bắt tay như thế thì thật mừng
vui và tự hào biết mấy . Đời người lính là đi , nhất là lính lái xe , nhưng trong những phút dừng
chân ngắn ngủi, ta càng thấy rõ sự gắn bó tự nhiên mà cao đẹp của tình đồng đội . Chỉ là “ bếp
Hoàng Cầm”và võng “ mắc chông chênh” rồi cả những bữa cơm hội ngộ thân mật, tình đồng chí
cũng tình anh em ruột thịt : “ chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy” . đến cả giấc ngủ ngắn ngủi
cũng rất đặc biệt thú vị: “ võng mắc chông chênh trên đường xe chạy . Lại đi lại đi trời xanh
thêm” . Trong tâm hồn họ, trời xanh như chan chứa hi vọng . Không dễ gì có được thái độ lạc
quan đến như thế nếu không mang trong mình một trái tim yêu nước của tuổi trẻ VN thời chống

Mĩ . Phải nói rằng hình ảnh ngươờichiến sĩ lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật thật tươi tắn và yêu
đời. Chúng ta mãi mái yêu quí và tự hào về họ
Câu 3 : Triển khai câu chủ đề:
Bài thơ gây được ấn tượng mạnh về các anh, những chiến sĩ lái xe rất dũng cảm, rất đáng
yêu bởi những nét nghịch ngợm, ngang tàng
Thật vậy, người lính trong thơ PTD đi vào cuộc chiến đấu với tất cả tính chủ động, tự tin
của những người có lí tưởng cao đẹp, có sức mạnh và tiềm lực nên họ dũng cảm và mang những
nét thanh thản, vui tươi. Lái xe trên con đường Trường Sơn khói lửa, con đường ấy trong bom
đạn, mưa tuôn phải trả giá bằng bao mồ hôi, xương máu nhưng vẫn tràn đây nghị lực, bất chấp
gian khổ hiểm nguy để hoàn thành nhiệm vụ. Xe không kính không mui , không đèn” mà tâm
thế vẫn ung dung thanh thản, khó khăn nhiều mà mắt vẫn “ nhìn trời , đất , gió chim” , vẫn hiên
ngang “nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”. Những câu thơ dí dỏm tinh nghịch, ngang tàng đầy sức trẻ
cảu những chàng trai như thách thức với mọi khó khăn :
- Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
- Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa mau khô thôi
Chuyện vặt ấy mà, có hề gì ! Nhịp điệu câu thơ, đặc biệt là các từ “ừ thì” đã nói lên rất rõ
điều đó. Đọc những câu thơ trên , ta tưởng như nhìn thấy mái đầu bạc trắng , bộ mặt lấm lem và
nghe rõ tiếng cười ha ha , sảng khoái của người lính. Nhưng đằng sau những chữ bông đùa đáng
yêu này là một bản lĩnh chiến đấu vững vàng thì không thể đùa vui như vậy giữa cái tuyến
đường TS ác liệt này . Và điều đó đã ngân lên câu hát nâng bước chân người lính đi tiếp những
chặng đường mới: “ Lại đi lại đi trời xanh thêm”. Không dễ gì có được thí độ dũng cảm đến
15
ngang tàng và lạc quan đến như thế nếu không mang trong mình một trái tim yêu nước can
trường.

Câu 4 : Cảm nhận của em về hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính” của Phạm Tiến Duật.
Câu 5 :
a. Phân tích giá trị biểu cảm của từ “Chông chênh” trong câu thơ: “Võng mắc chông chênh
đường xe chạy. Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
b. Chỉ với hai câu thơ trên, Phạm Tiến Duật đã cho ta hiểu vẻ đẹp người lái xe Trường Sơn thời
chống Mĩ. Hãy viết tiếp từ 7 đến 12 câu tạo đoạn văn diễn dịch hoàn chỉnh (trong đó có sử dụng
phép nối và câu đơn mở rộng thành phần chủ ngữ)
Câu 6: Khi phân tích bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, trong phần giải quyết vấn
đề, bạn em đã nêu được một nhận xét:
“Bài thơ không chỉ phản ánh được cái khốc liệt, sự gian khổ của chiến tranh qua hình ảnh
những chiếc xe không kính mà từ trong những gian khổ, sự khốc liệt ấy bài thơ còn là lời khẳng
định ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong
những năm kháng chiến chống Mĩ”
a. Câu văn trên chứa đựng đề tài gì?
b. Triển khai 1 ý trong đề tài trên thành một đoạn văn hoàn chỉnh.
Gợi ý:
a.Đề tài:
- Bài thơ phản ánh được cái khốc liệt, gian khổ của chiến tranh qua hình ảnh những ch iếc xe
không kính.
- Bài thơ là khúc hát ngợi ca vẻ đẹp của những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn.
a. Triển khai đề tài 2: Vẻ đẹp của những người chiến sĩ lái xe (theo các ý sau)
- Tư thế hiên ngang, bình tĩnh (khi xe mất đi những hệ số an toàn)
- Thái độ bất chấp gian khổ, hiểm nguy, đón nhận gian khổ khó khăn rất đàng hoàng, chủ
động.
- Lạc quan, vui vẻ, trẻ trung
- Tinh thần quyết chiến, quyết thắng, vượt lên mọi thiếu thốn, gian khổ, hiểm nguy, tất cả vì
Miền Nam phía trước
- Viết đoạn văn phân tích hai câu cuối của bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
- Gợi ý: Hai câu cuối của “ bài thơ về tiểu đội xe khiông kính” đã khắc đậm hình ảnh đẹp

đẽ của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường TS:
- Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
- Chỉ cần trong xe có một trái tim
- Những chiếc xe ấy đã bị bom đạn chiến tranh phá huỷ nặng nề, mát đi cả những hệ số an
toàn, tưởng như không thể lăn bánh. Vậy mà những người chiến sĩ lái xe đâu có chịu dừng
. Những chiếc xe của họ chở lương thực, thuốc men , đạn dược vẫn chạy trong bom rơi
đạn lửa bởi phía trước là MN đang vẫy gọi . Công cuộc giành độc lập tự do cua rnửa nước
vẫn phải tiếp tục . Dùng hình ảnh tương phản đối lập, câu thơ không chỉ nêu bật đực sự
ngoan cường, dũng cảm, vượt lên trên gian khổ, ác liệt mà còn nêu bât được ý chí chiến
đấu giải phóng MN , thống nhất đất nước. Hơn thế hình ảnh hoán dụ “ một trái tim” hình
ảnh đẹp nhất của bài thơ cùng kết cấu câu “ vẫn - chỉ cần” đã lí giả về sức mạnh vượt khó,
khẳng định hơn tinh thần hiên ngang bất khuất sự lạc quan tự tin trong cuộc chiến của
người lính lái xe. Chính điều đó đã tạo nên sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng để
chúng ta mãi yêu quý và cảm phục
Đề 4 : Cảm nhận của em về hình ảnh người lính cách mạng qua hai bài thơ « Đồng chí » và
« Bài thơ về tiểu đội xe không kính »
16
Đề 5 : Đồng chí (Chính Hữu) và « Bài thơ về tiểu đội xe không kính » (Phạm Tiến Duật) là
hai bài thơ tiêu biểu viết về đề tài người lính cách mạng trong hai thời kì chống Pháp và
chống Mỹ - so sánh hình ảnh người lính cách mạng ở hai bài thơ này.
Gợi ý : Tham khảo hệ thống luận điểm phần thân bài của đề 4,5
1. Luận điểm 1 : Đánh giá chung vấn đề.
- Về đề tài : Dân tộc ta đứng lên tiến hành hai cuộc chiến tranh cách mạng oanh liệt chống Pháp
và chống Mỹ. Lẽ tất nhiên, ở đất nước ta hơn ba mươi năm chưa rời tay súng, hình ảnh anh « Bộ
đội cụ Hồ » là hình ảnh « con người đẹp nhất » đáng yêu nhất trong văn thơ và là niềm tự hào
lớn của dân tộc.
- Về hai tác phẩm : Cùng với nhiều bài thơ khác, hai bài thơ « Đồng chí » sáng tác năm 1948
khi tác giả Chính Hữu chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc và « Bài thơ về tiểu đội xe không
kính » sáng tác năm 1969 khi tác giả Phạm Tiến Duật tham gia hoạt động ở tuyến đường Trường
Sơn đã khắc hoạ thành công về đề tài người lính.

- Về vấn đề : Hình tượng « anh bộ đội cụ Hồ » được ghi lại trong hai bài thơ đã lưu giữ trong
văn chương Việt Nam hai gương mặt đẹp, đáng yêu của người lính trong hai thời kì lịch sử.
2. Luận điểm 2 : Phân tích
a. Những điểm chung :
* Yêu nước, yêu quê hương, có tình đồng chí gắn bó, keo sơn.
- Có thể phân tích tình yêu quê hương da diết, cháy bỏng của người lính trong bài thơ « Đồng
chí » qua nỗi nhớ quê được thể hiện trong hình ảnh thơ « giếng nước gốc đa nhớ người ra
trận » ; và những trái tim yêu nước luôn hướng về miền Nam thân yêu với khát vọng cháy bỏng
là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước « xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước/ Chỉ cần
trong xe có một trái tim ».
- Có thể phân tích cử chỉ nắm tay chất chứa bao tình cảm không lời trong cả hai bài thơ thể hiện
sự gắn bó đồng chí. (Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Hoặc : « Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi )
- Có thể phân tích câu thơ: « Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ/ Đồng chí !
* Vượt qua mọi khó khăn gian khổ để quyết tâm tiêu diệt giặc, hoàn thành nhiệm vụ.
- Tất cả mọi khó khăn gian khổ, thử thách được tái hiện bằng những chi tiết hết sức thật, không
né tránh, không tô vẽ trong cả hai bài thơ. (Cảnh rừng hoang sương muối, cảnh những người
lính sốt run người, áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giầy những gian khổ và ác liệt
hiện hình trong những chiếc xe không kính, không mui, không đèn do bom giật, bom rung ,
hình ảnh gió vào xoa mắt đắng, bụi phun tóc trắng như người già, mưa tuôn, mưa xối như ngoài
trời )
- Gian khổ tưởng chừng như không thể vượt qua được, cái chết kề bên, vậy mà, các chiến sĩ đều
có một tư thế hiên ngang, dũng cảm : «Chờ giặc tới », « ung dung buồng lái ta ngồi/ Nhìn đất,
nhìn trời, nhìn thẳng ».
*Tinh thần lạc quan và khí phách anh hùng.
- Đời lính gian khổ nhưng luôn giữ mãi nụ cười dẫu cho có cận kề cái chết : « nụ cười buốt giá »
(Đồng chí) cho đến nụ cười rất ngang tàng, rất nghịch ngợm của của những anh lính lái xe phớt
đời « ha ha », cử chỉ «phì phèo châm điếu thuốc » như một lời thách thức với quân thù.
- Luôn có niềm tin vào ngày mai chiến thắng : « Đầu súng trăng treo » ; «Lại đi lại đi trời xanh
thêm »
b. Những điểm riêng. :

- Bài thơ « Đồng chí » :
+ Người lính xuất thân là nông dân từ những miền quê nghèo khó : « nước mặn đồng chua »,
« đất cày lên sỏi đá », vừa được cách mạng giải phóng khỏi kiếp nô lệ lầm than, sẵn sàng ừ biệt
làng quê với ruộng nương, nhà cửa vốn hết sức thân thiết, gắn bó để ra đi, dấn thân vào cuộc đời
người chiên sĩ.
17
+ Người lính nông dân thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc
mà sâu sắc. Tình tri kỉ thiêng liêng hoà quyện với tình đồng chí, tình cảm giai cấp khi lí tưởng
chiến đấu đã rực sáng trong tâm hồn : « Súng bên súng, đầu sát bên đầu.Đêm rét chung chăn
thành đôi tri kỉ . Đồng chí ! »
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính :
+ Người lính lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật là những chàng trai còn rất trẻ, có tri thức, có học
vấn, sẵn sàng gác lại những ước vọng tương lai của mình để cống hiến tuổi thanh xuân theo
tiếng gọi thiêng liêng của miền Nam yêu dấu : « Xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mĩ. Mà lòng phơi
phới dậy tương lai ».
+ Người lính thời kì chống Mĩ hiện lên với vẻ đẹp trẻ trung, ngang tàng, tâm hồn nhậy cảm, tính
cách riêng mang chất «lính » đáng yêu. Họ chiến đấu vì miền Nam ruột thịt với trái tim yêu
nước cháy bỏng (xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước. Chỉ cần trong xe có một trái tim)
3. Luận điểm 3 : Đánh giá chung.
- Hình tượng người lính dù ở thời kì kháng chiến chống Pháp hay kháng chiến chống Mỹ đều
mang phẩm chất cao đẹp của « anh bộ đội cụ Hồ » - thời đại đã cung cấp cho các nhà thơ những
nguyên mẫu đẹp đẽ để họ tạo nên những hình tượng làm xúc động lòng người.
- Viết về những người lính, các nhà thơ nói về chính mình và những người đồng đội của mình.
Vì thế, hình tượng người lính chân thật và sinh động.
***********************************************
Bài 3: ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ - HUY CẬN
A. Kiến thức cần nhớ.
1. Tác giả:
- Huy Cận bút danh là Cù Huy Cận, sinh năm 1919, quê ở hà Tĩnh. Ông mất năm 2005 tại Hà
Nội.

- Huy Cận là một cây bút nổi tiếng của phong trào thơ mới với tập thơ “Lửa thiêng” giàu chất
triết lí và thấm thía bao nỗi buồn.
- Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945. Sau cách mạng tháng Tám, ông giữ nhiều trọng
trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt
Nam từ sau năm 1945.
- Thơ Huy cận sau cách mạng tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu cuộc sống mới. Thiên nhiên, vũ
trụ là nguồn cảm hứng dồi dào trong thơ Huy Cận và nó mang những nét đẹp riêng. Hàng loạt
tập thơ nối tiếp ra đời: “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958), “Đất nở hoa” (1960), “bài thơ cuộc đời”
(1963), “hai bàn tay em” (1967)…
- Huy Cận mất năm 2005, tại Hà Nội.
2. Tác phẩm.
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ được viết vào ngày 1.10, năm 1958, tại vùng biển Hồng Gai, Quảng Ninh, in trong
tập thơ : “Trời mỗi ngày lại sáng””.
b. Bố cục: Bài thơ gồm 7 khổ, mỗi khổ gồm bốn câu thơ 7 chữ, được bố cục theo hành trình
của một chuyến ra khơi đánh cá.
+ Đoạn 1: Hai khổ thơ đầu: Cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn và tâm trạng náo nức của
người đi biển.
+ Đoạn2 : 4 khổ tiếp: Cảnh lao động của đoàn thuyền đánh bắt cá giữa không gian biển trời
ban đêm.
+ Đoạn 3: khổ thơ cuối: Cảnh đoàn thuyền trở về trong cảnh bình minh lên.
18
- Trong bài thơ có hai nguồn cảm hứng bao trùm và hài hoà với nhau: cảm hứng về lao động
và cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ, vốn là một nét nổi bật của hồn thơ Huy Cận. Sự thống
nhất của hai nguồn cảm hứng ấy thể hiện qua kết cấu và hệ thống hình ảnh của bài thơ.
+ Về kết cấu: Thời gian của bài thơ là nhịp tuần hoàn của vũ trụ từ lúc hoàng hôn cho đến bình
minh, và cũng là thời gian hoạt động của đoàn thuyền đánh cá ra khơi rồi trở về. Không gian của
bài thơ là không gian rộng lớn bao la với mặt trời, biển, sóng, mâ, gió, trăng, sao…., cũn là
không gian của cảnh lao động.
+ Về hệ thống hình ảnh: Nhiều hình ảnh thơ đã gắn liền với công việc lao động của con người

với nhịp sống của thiên nhiên đất trời: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, “thuyền ta lái gió với
buồm trăng - Lướt giữa mây cao với biển bằng”, “gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”, “Đoàn
thuyền chạy đua cùng mặt trời”….Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá qua cái nhìn của nhà thơ trở
nên lớn lao, kì vĩ, bay bổng.
3. Phân tích bài thơ.
a. Hai khổ thơ đầu: Tả cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn và tâm trạng náo nức của
người đi biển.
*Cảnh mặt trời lặn được miêu tả thật độc đáo và đầy ấn tượng:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”
- Ở nước ta, thường chỉ thấy cảnh mặt trời mọc trên biển. Như vậy, “mặt trời xuống biển” là
một cảnh tượng lạ, chỉ có thể nhìn thấy từ một hòn đảo nào đó ngoài khơi, hoặc từ một con
thuyền đang ra biển. Ngoài khơi xa, bốn bề là nước, nhìn về phía tây có cảm giác mặt trời như
một hòn than cháy hồng đang lặn xuống biển. Sau lúc hoàng hôn là màn đêm buông xuống.
Trong câu thơ: “Sóng đã cài then đêm sập cửa”, Huy Cận đã có một liên tưởng thật bất ngờ: vũ
trụ như một ngôi nhà lớn với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng
hiền hoà gối đầu nhau chạy ngang trên biển như những chiếc then cài cửa.
- Với sự liên tưởng so sánh thú vị, với hình ảnh nhân hoá đặc sắc, Huy Cận đã miêu tả rất thực
sự chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm khiến cảnh biển vào đêm thật kì vĩ, tráng lệ như thần
thoại. Phác hoạ được một bức tranh phong cảnh kì diệu như thế hẳn nhà thơ phải có cặp mắt thần
và trái tim nhậy cảm.
* .Đ oàn thuyền đánh cá lại ra khơi trong thời điểm ấy.
- Màn đêm mở ra đã khép lại không gian của một ngày. Giữa lúc vũ trụ, đất trời như chuyển
sang trạng thái nghỉ ngơi thì ngược lại, con người bắt đầu hoạt động: “Đoàn thuyền đánh cá lại
ra khơi. Câu hát căng buồm trong gió khơi. -> Sự đối lập này làm nổi bật tư thế lao động của
con người trước biển cả.
+ Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết định dứt khoát. Đoàn ngư dân ào xuống đẩy thuyền ra
khơi và cất cao tiếng hát khởi hành. Từ “lại” vừa biểu thị sự lặp lại tuần tự, thường nhật, liên tục
mỗi ngày của công việc lao động vừa biểu thị ý so sánh ngược chiều với câu trên: đất trời vào
đêm nghỉ ngơi mà con người bắt đầu lao động, một công việc lao động không ít vất vả.

+ Hình ảnh “câu hát căng buồm” - cánh buồm căng gió ra khơi- là ẩn dụ cho tiếng hát của con
người có sức mạnh làm căng cánh buồm. Câu hát là niềm vui, niềm say sưa hứng khởi của
những người lao động lạc quan yêu nghề, yêu biển và say mê với công việc chinh phục biển khơi
làm giầu cho Tổ quốc.
*C âu hát của người lao động còn mang theo một niềm mong mỏi tha thiết, vừa hiện thực vừa
lãng mạn:
Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi.
19
- Họ hát khúc hát ca ngợi sự giầu có của biển cả. Họ hát bài ca gọi cá vào lưới, mong muốn
công việc đánh cá thu được kết quả tốt đẹp.
- Từ dáng cá hình thoi, nhà thơ chợt liên tưởng đến biển như một tấm lụa lớn mà đàn cá là
“đoàn thoi” đang vun vút qua lại. Liên tưởng này lại kéo theo một liên tưởng khác: “Đoàn
thoi”cá dệt nên tấm lưới của người dân chài.
b.Bốn khổ thơ giữa miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển bao la, hùng vĩ:
Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển trời, sóng nước, trăng sao có nhiều yếu tố lãng mạn, tràn
đầy tưởng tượng dựa trên những yếu tố hiện thực của đời sống trong đó con người hiện lên trong
dáng vẻ trẻ trung, khỏe mạnh và yêu đời.
*.Biển rộng lớn mênh mông và khoáng đạt trong đêm trăng sáng.
- Trên mặt biển đó, có một con thuyền đang băng băng lướt đi trên sóng. Con thuyền đánh cá
vốn nhỏ bé trước biển cả bao la giờ đây qua cái nhìn của nhà thơ chợt trở nên lớn lao, kì vĩ.
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
- Một con thuyền đặc biệt có gió là người cầm lái, còn trăng là cánh buồm. Con thuyền băng
băng lướt sóng ra khơi để “dò bụng biển”. Công việc đánh cá được dàn đan như một thế trận hào
hùng. Tư thế và khí thế của những ngư dân thật mạnh mẽ, đầy quyết tâm giữa không gian bao la

của biển trời.
- Như vậy, tầm vóc của con người và đoàn thuyền đã được nâng lên hòa nhập vào kích thước
của thiên nhiên vũ trụ. Không còn cái cảm giác nhỏ bé lẻ loi khi con người đối diện với trời rộng
sông dài như trong thơ Huy Cận trước cách mạng. Hình ảnh thơ thật lãng mạn bay bổng và con
người có tâm hồn cũng thật vui vẻ, phơi phới. Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá
đã trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên
*Biển giầu đẹp nên thơ và có thật nhiều tài nguyên:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
- Huy Cận đã ngợi ca sự giàu có của biển cả bằng cách liệt kê tên các loài cá và tập trung miêu
tả màu sắc của chúng trong đêm trăng. Những con cá song giống như ngọn đuốc đen hồng đang
lao đi trong luồng nước dưới ánh trăng lấp lánh quả là hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Tuy nhiên “cái
đuôi em quẫy trăng vàng chóe” lại là hình ảnh đẹp nhất. Ánh trăng in xuống mặt nước, những
con cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra vàng chóe. Phải thật tinh tế mới có được những phát
hiện tuyệt vời ấy. Cảnh biển về đêm mới đẹp đẽ và thi vị làm sao!
- “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long” là hình ảnh nhân hóa đẹp. Đêm được miêu tả như một sinh
vật đại dương: nó thở. Tiếng thở của biển đêm chính là ánh sao lùa sóng nước, hoà với tiếng gõ
thuyền trong nhịp điệu hối thúc của đêm tàn… . Nhưng tưởng tượng của nhà thơ lại được cắt
nghĩa bằng một hình ảnh bất ngờ: sao lùa nước Hạ Long làm nên tiếng thở của đêm. Đây là một
hình ảnh đảo ngược, sóng biển đu đưa lùa bóng sao trời nơi đáy nước chứ không phải bóng sao
lùa sóng nước. Đây là một hình ảnh lạ - một sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận khiến cho cảnh
thiên nhiên thêm sinh động. Tất cả làm nên một cuộc hoà nhịp diệu kì giữa con người lao động
và thiên nhiên vũ trụ.
*.Biển không những giầu đẹp mà còn rất ân nghĩa thủy chung, bao la như lòng mẹ. Biển cho
con người cá, nuôi lớn con người. Những người dân chài đã hát bài ca gọi cá vào với họ:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
20

Không phải con người gõ thuyền để xua cá vào lưới mà là “trăng cao gõ”. Trong đêm trăng
sáng, vầng trăng in xuống mặt nước, sóng xô bóng trăng dưới nước gõ vào mạn thuyền thành
hình ảnh “nhịp trăng cao gõ”. Có thể nói đây là hình ảnh lãng mạn đầy chất thơ làm đẹp thêm
công việc lao động đánh cá trên biển. Thiên nhiên đã cùng với con người hòa đồng trong lao
động.
- Câu thơ “biển cho ta cá như lòng mẹ. Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” là một lời hát ân tình sâu
sắc trong bài ca lao động say sưa thơ mộng, hùng vĩ và đầy lòng biết ơn.
*.Một đêm trôi đi thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng hăng say:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng
Những đôi bàn tay kéo lưới nhanh thoăn thoắt gợi lên vẻ đẹp rắn rỏi, khỏe mạnh với những bắp
tay cuồn cuộn của người dân chài khi kéo mẻ lưới đầy cá nặng. Từ phía chân trời bắt đầu bừng
sáng. Khi mẻ lưới được kéo lên, những con cá quẫy dưới sánh sáng của rạng đông và lóe lên
màu hồng gợi khung cảnh thật rạng rỡ huy hoàng, tươi đẹp. Câu thơ “lưới xếp buồm lên đón
nắng hồng” tạo một sự nhịp nhàng giữa sự lao động của con người với sự vận hành của vũ trụ.
Con người muốn chia sẻ niềm vui với ánh bình minh.
c . Và đây là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên đường trở về:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
- Đoàn thuyền đánh cá đã ra đi vào lúc hoàng hôn trong tiếng hát và trở về vào lúc bình minh
cũng trong tiếng hát. Những câu thơ được lặp lại như một điệp khúc của một bài ca lao động.
Chữ “hát” xuất hiện bốn lần trong bài thơ, đem lại âm điệu tươi vui khoẻ khoắn của một khúc ca
lao động đầy hào hứng, say mê. Nếu như tiếng hát lúc trước thể hiện niềm vui khi lao động thì
tiếng hát sau lại thể hiện sự phấn khởi vì kết quả lao động sau một đêm làm việc hăng say. Họ
trở về trong tư thế mới “chạy đua cùng mặt trời”. Từ “chạy đua” thể hiện khí thế lao động mạnh
mẽ, sức lực vẫn dồi dào của người lao động. Đoàn thuyền được nhân hóa, cả mặt trời cũng tham

gia vào cuộc chạy đua này và kết quả con người đã chiến thắng.
- Hai câu kết khép lại bài thơ nhưng lại mở ra một cảnh tượng thật kì vĩ và chói lọi. Phải nói
rằng Huy Cận đã rất tinh tế khi miêu tả sự vận hành của vũ trụ. Mặt trời từ từ nhô lên trên sóng
nước xanh lam , chiếu tỏa ánh sáng rực rỡ, cảnh biển bừng sáng và còn đẹp hơn với kết quả lao
động. Con thuyền chở về khoang nào cũng đầy ắp cá. Mắt cá phản chiếu ánh mặt trời giống như
muôn vàn mặt trời nhỏ li ti. Đó thật sự là một cảnh tượng đẹp, huy hoàng giữa bầu trời và mặt
biển, giữa thiên nhiên và thành quả lao động.
d. Tổng kết.
Theo hành trình chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, bài thơ đã khắc họa nhiều hình ảnh
đẹp tráng lệ về thiên nhiên vũ trụ và người lao động, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con
người, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
Bài thơ có nhiều sáng tạo trong xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú
độc đáo; có âm hưởng khoẻ khoắn, hào hùng lạc quan.
4. Liên hệ mở rộng.
Bài ca mùa xuân 1961 (Tố Hữu)
Tôi viết bài thơ xuân
Nghìn chín trăm sáu mốt
Cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt
Đi ta đi ! Khai phá rừng hoang
Hỏi núi non cao, đâu sắt đâu vàng?
Hỏi biển khơi xa, đâu luồng cá chạy?
Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy
21
Nắng soi sương giọt long lanh….
Nào đi tới! Bác Hồ ta nói
Phút giao thừa, tiếng hát đêm xuân
Kế hoạch năm năm. Mời những đoàn quân
Mời những bàn chân, tiến lên phía trước
Tất cả dưới cờ, hát lên và bước!
Hỏi đâu thác nhảy, cho điện quay chiều?

Hỡi những người trai, những cô gái yêu
Trên những đèo mây, những tầng núi đá
Hai bàn tay ta hãy làm nên tất cả!
Xuân đã đến rồi.Hối hả tương lai
Khói những nhà máy mới ban mai…
B. Câu hỏi luyện tập.
Câu 1: Viết một đoạn văn phân tích khổ đầu hoặc khổ thơ cuối bài thơ “Đoàn thuyền đánh
cá” của Huy Cận. (Tham khảo bài tập làm văn trên)
Câu 2: Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp, tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con
người lao động. Em hãy chọn và phân tích một số hình ảnh đặc sắc trong các khổ thơ 1,3,4, 7.
Bút pháp xây dựng hình ảnh của tác giả trong bài thơ có đặc điểm gì nổi bật?
Câu 3: Viết đoạn văn: Khổ 2,3,4 của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã miêu tả cảnh biển
đẹp, biển giàu (tương tự câu trên)
Câu 4: Viết đoạn văn ngắn khoảng 10 câu nêu cảm nghĩ của em về vẻ đẹp của thiên nhiên và
con người trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.
Câu 5. Trong câu thơ “vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông”, từ “đông” có nghĩa là gì? Hãy tìm ít
nhất 2 nghĩa của từ “đông” và cho ví dụ. Câu thơ đã sử dụng biện pháp tu từ gì? Phân tích? Tìm
hai ví dụ cũng sử dụng biện pháp tu từ đó mà em đã được học.
Câu 6: Cho câu chủ đề sau:
Đoàn thuyền đánh cá không chỉ là một bức tranh sơn mài lộng lẫy về vẻ đẹp của thiên nhiên
mà còn là một bài ca ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động.
a. Đề tài của đoạn văn chứa câu mở đoạn là gì? Đề tài của đoạn văn trên đoạn văn
chứa câu mở đoạn là gì?
b. Hãy viết tiếp từ 9 đến 15 câu để tạo thành đoạn văn tổng phân hợp hoàn chỉnh.
Trong đó có sử dụng phép thế đồng nghĩa.
Câu 7: Hãy chỉ ra và phân tích giá trị nghệ thuật trong câu thơ sau:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé.
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Hãy tìm một ví dụ cũng có sử dụng biện pháp tu từ nghệ thuật giống như câu thơ trên (trong
chương trình đã học)

Câu 8: Phân tích giá trị các biện pháp tu từ trong câu thơ sau:
Biển cho ta cá như lòng mẹ.
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Hãy viết 1 đoạn văn phân tích hai câu thơ trên.
Câu 9: (Đề thi vào THPT năm học 2005 – 2006)
1) Bài “cành phong lan bể” có câu: “Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về”. Bài “Đoàn thuyền
đánh cá” cũng có câu thơ giàu hình ảnh tương tự. Hãy chép chính xác khổ thơ có câu thơ đó
và nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ?
2) Con cá song và ngọn đuốc là hai sự vật khác nhau trong tưởng tượng nhưng Huy Cận lại
có sự liên tưởng hợp lí. Tại sao vậy? Câu thơ của ông giúp người đọc hiểu thêm gì về thiên
nhiên và tài quan sát của ông?
3) Dưới đây là câu chủ đề cho một đoạn văn trình bầy cảm nhận về khổ thơ yêu cầu chép ở
câu 1: “Chỉ với bốn câu thơ, Huy Cận đã cho chúng ta thấy một bức tranh kì thú về sự đẹp
đẽ của biển cả quê hương”.
Em hãy viết tiếp khoảng 8 đến 10 câu để hoàn chỉnh đoạn văn trên theo phép lập luận diễn
dịch (trong đó có một câu ghép và một câu có thành phần tình thái)
22
Câu 10: Viết đoạn văn tổng phân hợp khoảng 15 câu:
Cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ kết hợp hài hoà với cảm hứng lao động đã tạo nên những hình
ảnh rực rỡ, bay bổng, lãng mạn trong khổ thơ thứ hai và thứ ba của bài thơ : “Đoàn thuyền đánh
cá”. (Đoạn văn có sử dụng câu bị động và câu có thành phần phụ chú)
Câu 11:Trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, tác giả có viết :
“đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
a) Hãy phân tích cái hay của phụ từ “lại”
b) “ Câu hát căng buồm” là cách viết rất đặc sắc, mới đọc tưởng như pji lí nhưng lại rất
hay.Hãy phân tích điều đó?
Trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” , tác giả có viết:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi”

Câu thơ thứ nhất có sử dụng phụ từ “lại”, thật là cách viết giàu ý nghĩa. Nó vừa biểu thị sự lặp
lại tuần tự, là một hoạt động thường nhật, diễn tả nhịp điệu lao động khẩn trương, liên tục. Công
việc ấy diễn ra ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, có khi gắn bó với cả cuộc đời
dân chài lưới , bởi họ say mê lao động quên cả thời gian . Không những thế nó còn biểu thị sự
tương phản với câu thơ trên:
“ Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Trong cảnh màn đêm buông xuống, mọi sự vật đã chìm đi trong cái tĩnh lặng êm đềm , ki bícủa
cảnh trời đêm thì đoàn thuyền lại ra khơi , bắt đầu một hành trình mới, với khí thế băng lướt
sóng đày quyết tâm .Quả thật cách viết đó đã khién ta cảm nhận được sự hăng say lao động thật
đáng ngợi ca của những người dân chài lưới.
Bên cạnh đó càn một cách viết khác cũng không kém phần đặc sắc của tác giả, đó là “ Câu hát
căng buồm”. Đây là hình ảnh vừa mang ý tả thực, diễn tả hình ảnh cánh buồm trước sóng gió
biển khơi, căng tràn no gió; vừa là hình ảnh ẩn dụ cho sức mạnh tiếng hát của người dan chài .
Tiếng hát ấy vang lên, hoà quyện với khung cảnh nên thơ huyền diệu của bầu trời đêm, đem sức
mạnh làm căng tràn cánh buồm. Hình ảnh thơ hùng ví mang tính tưởng tượng lãng mạn đã diễn
tả nièm say sưa hứng khởi của người lao động yêu nghề, yêu biển. Đó là niềm lạc quan, biết yêu
biển cả, yêu cuộc sống. Bởi nếu không yêu biẻn cả, yêu đời sao họ có thể cất lên những câu hát
đẹp đẽ trong sáng và giàu sức mạnh đến thế.
C. Phần tập làm văn:
Đề 1: Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
Cách 1: Phân tích bài thơ theo bố cục.
A. Mở bài:
- Huy Cận (1919 – 2005) nổi tiếng trong phong trào thơ mới (1932 – 1945) với những vần thơ
lãng mạn “Sầu vũ trụ”.
- Sau năm 1945, đổi mới phong cách, Huy Cận viết nhiều về con người mới, cuộc sống mới
cách mạng.
- “Đoàn thuyền đánh cá” (trích trong “TRời mỗi ngày lại sáng” – 1958) là một bài thơ tiêu biểu
cho phong cách mới của Huy Cận.
B. Thân bài:

1. Cảnh ra khơi (khổ 1,2)
- Thời điểm: lúc ngày tàn, đêm đến.
- Không gian: Biển cả lúc đêm xuống.
- Hoạt động: Đoàn ngư dân ra khơi sôi nổi, khí thế, mong đánh bắt nhiều cá.
23
- Nghệ thuật: Các hình ảnh so sánh, nhân hoá, sự đối lập thanh bằng- thanh trắc, chi tiết tưởng
tượng…. gợi liên tưởng phong phú, sâu sắc.
2. Cảnh đánh cá trên biển đêm (khổ 3- 6)
- Vẻ đẹp kì vĩ của trời biển Đông, của thiên nhiên, đất nước.
- Biển Đông là kho cá vô tận với nhiều loại cá quý
- Đoàn ngư dân sôi nổi hăng say lao động trên biển đêm: thả lưới, kéo lưới đạt những mẻ cá
ứn.
- Nghệ thuật: các hình ảnh liệt kê, khoa trương, bút pháp lãng mạn kết hợp tả thực với tượng
trưng.
3. Cảnh trở về (khổ 7)
- Thời điểm : lúc rạng động
- Thành quả lao động to lớn, đánh bắt được nhiều cá.
- Nghệ thuật: Các hình ảnh khoa trương, nhân hoá, ẩn dụ, phóng đại đặc sắc.
C. Kết bài 1
- Bài thơ có sự kết hợp bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn
- Cảm hứng lãng mạn cách mạng hoà nhập với cảm hứng vũ trụ, thiên nhiên
- Nhịp điệu khoẻ khoắn, giọng điệu vui tươi, không gian trong sáng khác không gian buồn
thảm trong thơ Huy Cận trước năm 1945
Cách 2 : Phân tích bài thơ theo đặc điểm nổi bật của bài :
a. Cảnh biển vào đêm vừa rộng lớn vừa gần gũi với con người do một liên tưởng so sánh
thú vị của nhà thơ
b. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển
c. Đẹp lộng lẫy và rực rỡ đến huyền ảo là những hình ảnh các loài cá trên biển, giữa ánh
trăng sao và ánh nắng lúc rạng đông.
********************************************

Bài 4: BẾP LỬA
A. Ki ến thức cần nhớ.
1. Tác giả
- Bằng Việt là bút danh của Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941 tại Huế, nhưng quê gốc ở huyện
Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 1960 và thuộc thế hệ các nhà thơ
trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.
Thơ Bằng Việt, cảm xúc tinh tế, có giọng điệu tâm tình, mượt mà, trong trẻo, tràn đầy cảm xúc.
Đề tài thơ thường đi vào khai thác những kỉ niệm, những kí ức và ước mơ tuổi trẻ, thơ Bằng Việt
rất dễ đem lại cảm xúc cho người đọc, nhất là các bạn đọc trẻ tuổi.
- Tác phẩm chính: Hương cây - Bếp lửa (thơ in chung với Lưu Quang Vũ – 1968), Những gương
mặt, những khoảng trời (1973), đất sau mưa (thơ – 1977), Khoảng cách giữa lời (thơ – 1983).
Cát sáng (thơ 1986), Bếp lửa - Khoảng trời (thơ tuyển 1988)
2. Tác phẩm.
- “Bếp lửa” là một trong những sáng tác đầu tay của BV, được sáng tác năm 1963, khi BV đang
là sinh viên khoa pháp lí trường Đại học tổng hợp Ki – ép (Liên xô cũ).
- “Bếp lửa” được đánh giá là một bài thơ hay viết về tình bà cháu.
Bố cục : 3 phần:
+ Phần 1: 3 dòng đầu: hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng về bà
+ Phần 2: Từ “lên bốn tuổi” đến “niềm tin dai dẳng”: những kỉ niệm tuổi thơ và hình ảnh người
bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa trong hồi tưởng của cháu.
+ Phần 3: Từ “lận đận đời bà đến “thiêng liêng bếp lửa”: suy ngẫm về bà và cuộc đời bà.
24
+ Phần 4: (4 dòng cuối): Hình ảnh bà và bếp lửa sống mãi trong tâm hồn cháu.
- Mạch cảm xúc của bài thơ rất tự nhiên, đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm:
hình ảnh bếp lửa gợi về những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình
ảnh bà với bao vất vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu; từ kỉ niệm, đứa cháu nay
đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà;
cuối cùng, người cháu muốn gửi niềm nhớ mong về bà.
3. Chú ý: Cần cảm nhận và thuộc một số câu thơ nói về:
- Hình tượng bếp lửa, ngọn lửa

- Hình tượng con chim tu hú
- Hình ảnh người bà nhóm lửa và đứa cháu bé thơ.
- Những câu thơ cảm thán và câu hỏi tu từ làm cho giọng thơ tha thiết bồi hồi.:
VD: ….Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
… Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Hoặc: “Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa!”
“Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
4. Phân tích nội dung bài thơ.
a. Những hồi tưởng về bà và tình bà cháu.
* Khổ 1 nói về bếp lửa và lòng cháu thương bà. Khi nhớ về quê hương, người ta thường nhớ
về những kỉ niệm gắn liền trong quá khứ như dòng sông, bến đò, cây đa…. Đối với Bằng Việt,
sự hồi tưởng được bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
- Ba tiếng “một bếp lửa” trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điêụ sâu lắng, hình ảnh
quen thuộc trong mọi gia đình. Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh của “chờn vờn sương
sớm”, thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu nồng đượm”. Các từ “ấp iu”, “nồng đượm”,
“chờn vờn”…. được dùng rất hình tượng.
- Hình ảnh bếp lửa, rất tự nhiên đánh thức dòng cảm xúc hồi tưởng của cháu về bà: “Cháu
thương bà biết mấy nắng mưa”. Nghĩ về bếp lửa, nhớ về bếp lửa mà trong lòng đứa cháu đi xa
trào dâng một cảm xúc thương bà mãnh liệt.
* Từ đó, bài thơ gợi lại cả một thời thơ ấu bên người bà ( Khổ 2,3,4)
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu.
-Bốn câu thơ gợi lại cả một tuổi thơ nhọc nhằn, gian khổ. Kí ức đưa nhân vật trở về những
năm “đói mòn đói mỏi” của nạn đói năm 1945. Giọng thơ trĩu xuống, nao nao lòng người đọc.

- Tuổi thơ ấy còn có cái gian khổ chung của thời kì kháng chiến chống Pháp: giặc giã tàn phá
xóm làng:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi.
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi”
- Mẹ cùng cha công tác bận không về”
Cháu sống trong sự nuôi nấng, dậy dỗ của bà : “Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe - Bà dạy
cháu làm, bà chăm cháu học”.
- Kỉ niệm về những năm tháng tuổi thơ gắn liền với bếp lửa, với khói bếp bởi “Lên bốn tuổi
cháu đã quen mùi khói”, tức là sớm phải lo toan. Và sau đó “tám năm ròng cháu cùng bà nhóm
lửa”, cho nên nhớ về tuổi thơ, nhân vật trữ tình “chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu – Nghĩ lại đến
giờ sống mũi còn cay”. Cái cảm giác cay nơi sống mũi khi nhớ về tuổi thơ ấy đâu chỉ là vì khói,
25

×