Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Tăng cường quản lý nợ công nhằm phát triển bền vững hệ thống tài chính ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.95 KB, 111 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Chúng tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của nhóm
chúng tôi.
Các kết quả, kết luận trong đề tài nghiên cứu là trung thực, các số liệu
và tài liệu tham khảo có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2013
Nhóm tác giả nghiên cứu
Nguyễn Thị Hiền
Phạm Thị Thanh Hiền
Dương Ngọc Diệp
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ABD Ngân hàng phát triển Châu Á
BHXH Bảo hiểm xã hội
BMS Hệ thống quản lý nợ trong nước
BTC Bộ Tài chính
CCTM Cán cân thương mại
CCTT Cán cân thanh toán
CP Chính phủ
CSTK Chính sách tài khóa
CSTT Chính sách tiền tệ
DMFAS Hệ thống quản lý nợ nước ngoài
DMO Cơ quan quản lý nợ công
DMS Hệ thống quản lý nợ
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
EU Liên minh Châu Âu
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FILP Chương trình đầu tư tài khóa và vay mượn
GDCK Giao dịch chứng khoán
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
HĐND Hội đồng nhân dân


IDA Cơ quan Phát triển quốc tế
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
IUCN Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên & Tài nguyên Thiên
nhiên Quốc tế
KBNN Kho bạc Nhà nước
KHĐT Kế hoạch và đầu tư
NHCSXH Ngân hàng chính sách xã hội
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHPTVN Ngân hàng phát triển Việt Nam
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng trung ương
NSĐP Ngân sách địa phương
NSNN Ngân sách Nhà nước
NSTW Ngân sách trung ương
ODA Viện trợ phát triển chính thức
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
QLN &TCĐN Quản lý nợ và tài chính đối ngoại
TPCP Trái phiếu Chính phủ
TPKB Tín phiếu Kho bạc
TTCK Thị trường chứng khoán
TTLKCK Trung tâm lưu ký chứng khoán
UBCKNN Ủy ban chứng khoán Nhà nước
UBND Ủy ban nhân dân
UNCTAD Diễn đàn Thương mại và phát triển Liên Hiệp quốc
UNECE Liên hiệp quốc ủy ban kinh tế Châu Âu
WB Ngân hàng thế giới
WECD Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới
WTO Tổ chức thương mại thế giới
XK Xuất khẩu
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Trong quá khứ, khủng hoảng nợ công cũng đã được biết đến vào đầu
thập kỷ 80 của Thế kỷ XX. Năm 1982, Mê-hi-cô là quốc gia đầu tiên tuyên bố
không trả được nợ vay IMF. Đến tháng 10/1983,đã có 27 quốc gia với tổng nợ
lên tới 240 tỷ USD đã tuyên bố hoặc chuẩn bị tuyên bố hoãn nợ. Như vậy vấn
đề khủng hoảng nợ công đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử chứ không phải mới
xuất hiện gần đây. Mỗi giây qua đi, mỗi quốc gia trên thế giới nhận thêm nợ
mới, kéo tổng nợ toàn cầu tăng thêm từ vài trăm nghìn tới vài triệu USD.
Ta thấy, nợ công là một phần quan trọng và không thể thiếu trong tài
chính mỗi quốc gia. Từ những nước nghèo nhất ở Châu Phi đến những quốc
gia đang phát triển như ở Việt Nam, Campuchia hay với những cường quốc
giàu có với trình độ phát triển cao như ở Mỹ, Nhật, EU thì đều phải đi vay để
phục vụ cho cácnhu cầu chi tiêu và sử dụng của Chính phủ nhằm đạt những
mục tiêu khác nhau. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ
và có nhiều chuyển biến hết sức phức tạp, khó lường, điển hình là cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra từ cuối năm 2008, đầu năm 2009, khủng hoảng
nợ công nghiêm trọng đang lan ra một số nước Châu Âu, nợ công và quản lý
nợ công đã và đang trở thành vấn đề nóng được các nhà lãnh đạo các quốc gia
trên thế giới quan tâm. Nợ công cần phải được sử dụng hợp lí, hiệu quả và
quản lý tốt, nếu không thì khủng hoảng nợ công có thể xảy ra với bất cứ quốc
gia nào, tại bất cứ thời điểm nào và để lại hậu quả hết sức nghiêm trọng. Đức
Khổng Tử có nói: “Làm ra hai mà tiêu một thì thịnh, làm ra một mà tiêu một
thì hòa, làm ra một mà tiêu hai thì không tránh khỏi lụi bại”…Điều này suy
cùng, vừa đúng cho cá thể lại vừa đúng cho cả một quốc gia.
Nước ta đang tích cực thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế quốc dân thì
1
vấn đề nợ công và quản lý nợ công càng cần được quan tâm, xử lý và giải
quyết một cách kịp thời và phù hợp, vì tương lai phát triển bền vững nền kinh

tế của đất nước.
Theo thống kê của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia thì tổng nợ
công của Việt Nam năm 2007 là 33,8% GDP, đến cuối năm 2011 thì tỷ lệ này
tăng lên 54,6 % GDP. Tốc độ tăng nhanh và đáng báo động với một nền kinh
tế nhỏ như Việt Nam – một nền kinh tế đang phát triển và phụ thuộc nhiều
vào việc xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ. Từ thực
trạng đó đặt ra một số câu hỏi: Tình hình nợ công và quản lý nợ công 5 năm
trở lại đây như thế nào? Những thành tựu và những hạn chế cần khắc phục ra
sao? Từ đó, làm cơ sở nghiên cứu và đề ra những giải pháp hợp lý, thiết thực
nhằm hoàn thiện hơn cơ chế quản lý nợ công ở Việt Nam. Vì vậy tập thể tác
giả đã lựa chọn đề tài: “Tăng cường quản lý nợ công nhằm phát triển bền
vững hệ thống tài chính ở Việt Nam”.
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Đến nay, ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học và
một số tài liệu tham khảo chuyển tải được những vấn đề về học thuật và thực
tiễn liên quan đến nợ công và quản lý nợ công. Cụ thể một số nghiên cứu về
nội dung này bao gồm:
- Công trình nghiên cứu “Những giải pháp tăng cường quản lý vay và
trả nợ nước ngoài ở Việt Nam”, luận án tiến sĩ của Nguyễn Ngọc Thủy Tiên
(2002) đã đề cập khá toàn diện về cơ chế vay và trả nợ nước ngoài của Việt
Nam, trong đó chỉ rõ cơ chế vay nợ nước ngoài của Chính Phủ.
- Nghiên cứu khoa học của Đỗ Đình Thu (2007) với đề tài “Giải pháp
tăng cường quản lý vay và trả nợ Chính phủ Việt Nam trong điều kiện hiện
nay” đã làm rõ nội dung quản lý vay và trả nợ của Chính phủ.
- Công trình nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Hương (2008) luận án
2
tiến sĩ với đề tài về “Tăng cường quản lý vay nợ nước ngoài ở Việt Nam”,
đưa ra nội dung về quản lý vay nợ nước ngoài của Việt Nam, phân tích rõ mô
hình Jaim De Pinies về đánh giá nợ nước ngoài bền vững và đưa ra những
giải pháp tăng cường quản lý vay nợ nước ngoài ở Việt Nam.

- Nguyễn Thị Vân Anh (2008) trong công trình nghiên cứu “Hoàn thiện
quản lý nợ Chính phủ của Bộ tài chính” đã làm sáng tỏ về nội dung về nợ
Chính phủ và quản lý nợ Chính phủ.
- Với đề tài “Vấn đề nợ công tại các nước phát triển và tác động đến
nền kinh tế Việt Nam” trong công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ, chủ biên
là TS. Nguyễn Đức Độ, TS. Nguyễn Thị Minh Tâm và nhóm tác giả (2010),
đã làm rõ nội dung về nợ công cũng như chỉ rõ tác động của nợ công đến các
biến số kinh tế vĩ mô và ảnh hưởng khủng hoảng nợ công của các nước phát
triển đến nền kinh tế Việt Nam.
Các đề tài trên đây đều đã đạt được một số thành tựu và mục tiêu
nghiên cứu khác nhau nhưng đề tài “Tăng cường quản lý nợ công nhằm
phát triển bền vững hệ thống tài chính ở Việt Nam” được nghiên cứu trong
bối cảnh Việt Nam đang tiến hành tái cấu trúc hệ thống tài chính, trong khi đó
khủng hoảng nợ công của các nước trên thế giới( Hy lạp, Síp) đã ảnh hưởng
không chỉ đến hệ thống tài chính quốc gia mà liên quan đến nhiều nước khác
trên thế giới. Từ đó, trên cơ sở mang tính khái quát, tổng hợp và xây dựng cơ
chế quản lý nợ công cho Việt Nam trong điều hiện hiện nay nhằm dần tiến tới
cơ chế quản lý nợ công chủ động, đạt được mục tiêu không chỉ phát triển
nóng nền kinh tế mà phải phát triển bền vững nền kinh tế.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
- Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lí luận về nợ công, đặc biệt tập
trung nghiên cứu nội dung cơ bản của cơ chế quản lý nợ công. Phân tích,
đánh giá tình hình nợ công của Việt Nam, qua đó nhằm mục đích đánh giá
3
thực trạng về cơ chế quản lý nợ công của Việt Nam.
- Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý nợ công của một số nước trên thế
giới, từ đó đề xuất các giải pháp mang tính chiến lược và giải pháp cụ thể,
đồng thời nêu kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý nợ công nhằm phát
triển bền vững hệ thống tài chính ở Việt Nam.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lí luận về nợ
công và cơ chế quản lý nợ công nhằm tăng cường phát triển bền vững hệ
thống tài chính của một quốc gia.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về nợ công và thực
trạng cơ chế quản lý nợ công của Việt Nam trong giai đoạn từ 2007-2012.
Do nợ công của các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng bao gồm
nợ trong nước và nợ nước ngoài. Tuy nhiên bản chất của nợ nước ngoài là nợ
công dân nước khác nên tạo áp lực khi đến hạn trả nợ và có thể ảnh hưởng
không tốt đến hệ thống tài chính quốc gia. Vì vậy, với đề tài này nhóm tác giả
tập trung chủ yếu nghiên cứu nợ nước ngoài và đề tài đi sâu phân tích, nghiên
cứu về tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2007-2012.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Để thực hiện mục đích nghiên cứu của đề tài, tác giả vận dụng phương
pháp phổ biến trong nghiên cứu kinh tế như:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, lí luận kinh tế
chính trị học của Chủ nghĩa Mác – LêNin được sử dụng xuyên suốt và trong
hầu hết những nội dung cơ bản của đề tài.
- Lí luận của kinh tế học và kinh tế học công cộng được sử dụng như
một công cụ quan trọng để đưa ra các lí luận về nợ công và cơ chế quản lý nợ
công nhằm đề ra những giải pháp tăng cường phát triển bền vững nền kinh tế.
- Đề tài nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phân tích thống kê, đồ thị
4
hóa để phân tích tổng hợp, để nghiên cứu, đánh giá nợ công, cơ chế quản lý
nợ công.
- Đề tài đã sử dụng phương pháp: phân tích thực chứng từ số liệu thực
tại của Việt Nam và phân tích chuẩn tắc trong kinh tế học, kết hợp phân tích
hệ thống, phương pháp tổng hợp, khái quát hóa, mô hình hóa…để đánh giá,
phân tích tình hình nợ công và cơ chế quản lý nợ công nhằm đưa ra những
giải pháp thiết thực, phù hợp với nền kinh tế Việt Nam.
Dữ liệu phục vụ cho việc phân tích, đánh giá bao gồm các dữ liệu sơ

cấp được thu thập thông qua việc phỏng vấn chuyên gia về lĩnh vực tài chính,
tiền tệ, ngân hàng. Các dữ liệu thứ cấp bao gồm các văn bản chế độ ngành tài
chính, tài liệu hội thảo, khóa học đào tạo. Nguồn số liệu được sử dụng đảm
bảo độ tin cậy và phù hợp với phương pháp mà đề tài nghiên cứu sử dụng.
6. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
nghiên cứu
được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý nợ công.
Chương 2: Nợ công nhằm phát triển hệ thống tài chính.
Chương 3: Thực trạng quản lý nợ công ở Việt Nam.
Chương 4: Giải pháp tăng cường quản lý nợ công nhằm phát triển bền
vững hệ thống tài chính ở Việt Nam.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NỢ CÔNG
1.1. Khái quát về nợ công của quốc gia
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm
1.1.1.1.Khái niệm
Theo cách tiếp cận của Ngân hàng thế giới WB và Quỹ tiền tệ quốc tế
IMF, nợ công được định nghĩa là “các nghĩa vụ nợ của khu vực công” bao
gồm nợ của khu vực công cùng với nợ của khu vực tư nhân được khu vực
công bảo lãnh. Khu vực công bao gồm các thể chế sau:
(a) Chính phủ trung ương và các bộ, ban ngành;
(b) Các cơ quan chính trị cấp dưới, như tỉnh, huyện và thành phố;
(c) Các ngân hàng trung ương;
(d) Các thể chế tự quản (như các doanh nghiệp tài chính và phi tài
chính, các ngân hàng thương mại và ngân hàng phát triển, các ngành dịch vụ
xã hội như đường sắt, doanh nghiệp nhà nước …), trong đó:
• Ngân sách của thể chế đó phải được Chính phủ phê duyệt;

• Sở hữu nhà nước chiếm trên 50% cổ phiếu có quyền biểu quyết hoặc
trên 1 nửa số thành viên của Hội đồng Quản trị của các đại diện của Chính
phủ;
• Trong trường hợp phá sản, nhà nước sẽ phải chịu trách nhiệm về
khoản nợ của thể chế đó.
Nếu như một đơn vị thể chế đáp ứng bất kỳ điều kiện nào trong số 3
điều kiện trên thì nợ của tổ chức đó được đưa vào nợ công. Bất kỳ đơn vị thể
chế nào trong nước không đáp ứng định nghĩa về khu vực công sẽ được phân
loại là khu vực tư nhân.
Cách định nghĩa này cũng tương tự như quan niệm của Hệ thống quản
lý nợ và phân tích tài chính của Hội nghị Liên hiệp quốc về thương mại và
phát triển (UNCTAD).
6
Theo cách tiếp cận của Việt Nam trong Luật quản lý nợ công, nợ công
được hiểu bao gồm ba nhóm là nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và
nợ chính quyền địa phương.
• Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước,
nước ngoài, được kí kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính
phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính kí kết, phát hành, ủy quyền
phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản
nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách
tiền tệ trong từng thời kỳ.
• Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức
tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
• Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là UBND cấp tỉnh) ký kết, phát
hành hoặc ủy quyền phát hành.
Từ đây ta có thể thấy, khái niệm về nợ công theo quy định của pháp
luật Việt Nam được đánh giá là “hẹp” hơn so với thông lệ quốc tế. Nhận định
này cũng được nhiều chuyên gia uy tín trong lĩnh vực chính sách công thừa

nhận.
1.1.1.2. Đặc điểm
Tuy có nhiều cách tiếp cận rộng hẹp khác nhau về nợ công, nhưng về
cơ bản, nợ công có những đặc trưng sau đây:
- Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước
Khác với các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một
khoản nợ mà Nhà nước (bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có
trách nhiệm trả khoản nợ ấy. Trách nhiệm trả nợ của Nhà nước được thể hiện
dưới hai góc độ trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà
nước có thẩm quyền sẽ là người vay và do đó, cơ quan nhà nước ấy sẽ chịu
trách nhiệm trả nợ khoản vay (ví dụ: Chính phủ Việt Nam hoặc chính quyền
7
địa phương). Gián tiếp là trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đứng ra bảo lãnh để một chủ thể trong nước vay nợ, trong trường hợp bên vay
không trả được nợ thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo
lãnh (ví dụ: Chính phủ bảo lãnh để Ngân hàng Phát triển Việt Nam vay vốn
nước ngoài).
- Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền
Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo hai
mục đích: một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và cao
hơn nữa là đảm bảo cán cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia;
hai là, để đạt được những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó,
việc quản lý nợ công một cách chặt chẽ còn có ý nghĩa quan trọng về mặt
chính trị và xã hội. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nguyên tắc quản
lý nợ công là Nhà nước quản lý thống nhất, toàn diện nợ công từ việc huy
động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến việc trả nợ để đảm bảo hai mục tiêu cơ
bản như đã nêu trên.
- Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát
triển kinh tế – xã hội vì lợi ích chung

Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn những lợi
ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của đất nước.
Xuất phát từ bản chất của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích chung của
xã hội, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ
công được quyết định phải dựa trên lợi ích của nhân dân, mà cụ thể là để phát
triển kinh tế – xã hội của đất nước và phải coi đó là điều kiện quan trọng nhất.
1.1.2. Phân loại nợ công
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa
khác nhau trong việc quản lý và sử dụng nợ công.
8
Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay
Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức Việt
Nam.
Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài,
vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài. Theo
pháp luật Việt Nam, nợ nước ngoài không chỉ được hiểu là nợ mà bên cho
vay là nước ngoài mà là toàn bộ các khoản nợ công không phải là nợ trong
nước.
Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng
trong quản lý nợ. Việc phân loại này về mặt thông tin sẽ giúp xác định chính
xác hơn tình hình cán cân thanh toán quốc tế. Và ở một số khía cạnh, việc
quản lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ của nhà nước vì các
khoản vay nước ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc các
phương tiện thanh toán quốc tế khác.
Theo phương thức huy động vốn, thì nợ công có hai loại là nợ công
từ thỏa thuận trực tiếp và nợ công từ công cụ nợ.
Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những
thỏa thuận vay trực tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ
chức cho vay. Phương thức huy động vốn này xuất phát từ những hợp đồng
vay, hoặc ở tầm quốc gia là các hiệp định, thỏa thuận giữa Nhà nước Việt

Nam với bên nước ngoài.
Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ
này có thời hạn ngắn hoặc dài, thường có tính vô danh và khả năng chuyển
nhượng trên thị trường tài chính.
Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công thì nợ
công có ba loại là nợ công từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ
thương mại thông thường.
9
Theo trách nhiệm đối với chủ nợ thì nợ công được phân loại thành
nợ công phải trả và nợ công bảo lãnh. Nợ công phải trả là các khoản nợ mà
Chính phủ, chính quyền địa phương có nghĩa vụ trả nợ. Nợ công bảo lãnh là
khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh cho người vay nợ, nếu bên
vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ.
Theo cấp quản lý nợ thì nợ công được phân loại thành nợ công của
trung ương và nợ công của chính quyền địa phương. Nợ công của trung ương
là các khoản nợ của Chính phủ, nợ do Chính phủ bảo lãnh. Nợ công của địa
phương là khoản nợ công mà chính quyền địa phương là bên vay nợ và có
nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm
2002 thì những khoản vay nợ của chính quyền địa phương được coi là nguồn
thu ngân sách và được đưa vào cân đối, nên về bản chất nợ công của địa
phương được Chính phủ đảm bảo chi trả thông qua khả năng bổ sung từ ngân
sách trung ương.
1.1.3. Chỉ tiêu đo lường nợ công của quốc gia
Chỉ số nợ công trên GDP
Nợ công trên GDP được đo bằng tỷ số phần trăm giữa tổng nợ công
tích lũy và tổng sản phẩm trong nước hàng năm.
Nợ công trên GDP thể hiện mối tương quan giữa tổng số nợ của khu
vực công cộng với năng lực tạo ra thu nhập phải chịu thuế (là nguồn dùng để
thanh toán nợ công). Do phụ thuộc vào thu nhập phải chịu thuế nên tỷ lệ nợ

công trên GDP được đánh giá là cao hay thấp còn tùy thuộc vào mức độ ổn
định của nền kinh tế cũng như năng lực thu thuế của Chính phủ. Chẳng hạn,
với các nước thuộc Liên minh châu Âu EU, mức nợ công trên GDP chấp nhận
được là không quá 60% (tiêu chí Maastricht).
Chỉ số nợ công trên xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
Nợ công trên xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ được đo bằng tỷ số phần
trăm giữa tổng nợ công và thu từ xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ hàng năm.
10
Chỉ số nợ công trên xuất khẩu là chỉ số đánh giá khả năng trả nợ của
một quốc gia dựa trên nguồn thu từ xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Đó là
nguồn thu bằng ngoại tệ có thể sử dụng để trả các món nợ công nước ngoài.
Tuy nhiên chỉ số này cũng chưa phản ánh đầy đủ khả năng trả nợ của một
quốc gia vì nguồn thu xuất khẩu rất dễ biến động từ năm này qua năm khác và
khả năng trả nợ của một nước còn có thể tăng lên nhờ vào việc hạn chế nhập
khẩu hay giảm dự trữ ngoại tệ.
Chỉ số trả nợ hàng năm trên xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
Chỉ số trả nợ hàng năm trên xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ được đo
bằng tỷ số phần trăm giữa giá trị trả nợ hàng năm (bao gồm cả vốn gốc lẫn lãi
nợ) và thu từ xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ.
Chỉ số trả nợ hàng năm trên xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ là chỉ số
dùng để đánh giá khả năng thanh toán bằng ngoại tệ (khả năng tiền mặt) của
nước vay nợ trong ngắn hạn. Nếu như tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao hơn
tốc độ tăng trưởng nợ thì nước đi vay sẽ có khả năng tiền mặt thuận lợi, từ đó
tỷ lệ trả nợ trên xuất khẩu có xu hướng giảm dần và ngược lại.
Ngoài ra, người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu đánh giá khác như trả
nợ hàng năm trên GDP, trả lãi nợ hàng năm trên xuất khẩu hàng hóa và dịch
vụ…Dựa trên tình hình vay nợ thực tế của các nước và một số giới hạn nợ mà
từng nước đưa ra những mức trần các chỉ tiêu nợ từ đó đánh giá mức độ nợ và
khả năng trả nợ của mình. Để đánh giá mức độ nợ nần và khả năng trả nợ của
một nước cần phải xem xét tất cả các chỉ số trong mối quan hệ với nhau.

Trong các chỉ tiêu đánh giá thì chỉ tiêu tổng nợ trên GDP có thế là chỉ số quan
trọng nhất vì nó thể hiện khả năng trảnợ lâu dài của nền kinh tế còn chỉ số nợ
trên giá trị xuất nhập khẩu phản ánh được khả năng tạo nguồn trả nợ trong
ngắn hạn. Chỉ số trả nợ hàng năm trên xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ có thể
thấp trong khi chỉ số nợ trên xuất khẩu cao có thể xảy ra trong trường hợp các
11
khoản mới vay, chưa đến hạn trả lãi hay ngược lại khi mà phải trả nợ gốc và
lãi cho các khoản vay cũ. Vì vậy khi dùng các chỉ số để đánh giá mức độ nợ
nần của một nước không nên chỉ dùng duy nhất một chỉ số mà phải kết hợp
các chỉ số với nhau cùng với tìm hiểu nguồn gốc các khoản vay để có được
những kết luận chính xác.
1.2. Tăng cường quản lý nợ công
1.2.1. Sự cần thiết tăng cường quản lý nợ công
Về bản chất, khi Nhà nước mong muốn hoặc bắt buộc phải chi tiêu
vượt quá khả năng thu của mình ( thu thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác)
mà không có khả năng hoàn trả thì buộc Nhà nước sẽ phải đi vay vốn và điều
đó làm phát sinh tình trạng nợ công. Như vậy, nợ công chính là hệ quả của
việc Nhà nước vay vốn và có trách nhiệm phải hoàn trả.
Với hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường, đa phần đều tiến
hành hoạt động vay nợ. Nợ công như bất kỳ một yếu tố kinh tế nào đều có
tính tích cực và tính tiêu cực. Quản lý nợ công sao cho hiệu quả luôn là một
bài toán khó, đặt ra cho chính phủ của bất kỳ quốc gia nào. Việc quản lý nợ
công hiệu quả sẽ góp phần hạn chế được những tiêu cực, yếu kém; phát huy
những ưu điểm vượt trội, góp phần phát triển kinh tế quốc gia.
Những tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm:
- Nợ công là nhân tố góp phần làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước,
từ đó làm tăng cường nguồn vốn phục vụ cho việc phát triển cơ sở hạ tầng và
tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước. Hiện nay, Việt Nam đang trong
giai đoạn tăng tốc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, trong đó cơ sở hạ tầng là yếu tố có tính chất quyết định. Muốn phát

triển cơ sở hạ tầng nhanh chóng và đồng bộ, vốn là yếu tố quan trọng nhất.
Với chính sách huy động nợ công hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được
giải quyết để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó gia tăng năng lực sản xuất cho nền
12
kinh tế.
-Huy động nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi
trong dân cư. Một bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông
qua việc Nhà nước vay nợ từ dân cư, những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa
vào sử dụng, đem lại hiệu quả kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu vực tư.
-Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài
chính quốc tế. Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế – ngoại
giao quan trọng của các nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc
gia nghèo, cũng như muốn hợp tác kinh tế song phương. Nếu Việt Nam biết
tận dụng tốt những cơ hội này, thì sẽ có thêm nhiều nguồn vốn ưu đãi để đầu
tư phát triển cơ sở hạ tầng, trên cơ sở tôn trọng lợi ích nước bạn, đồng thời
giữ vững độc lập, chủ quyền và chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, nợ công cũng gây ra
những tác động tiêu cực nhất định. Nợ công sẽ gây áp lực lên chính sách tiền
tệ, đặc biệt là từ các khoản tài trợ nước ngoài. Việc nhận vay vốn ưu đãi từ
nước ngoài luôn gắn liền với một số ràng buộc đòi hỏi ưu đãi về chính sách
kinh tế, xã hội đối với nhà tài trợ. Nếu quản lý điều tiết của Nhà nước lỏng
lẻo, nợ công sẽ tỏ ra kém hiệu quả sẽ gây ra tình trạng tham nhũng, lãng phí,
ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia và niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo
của bộ máy chính quyền. Vì vậy, quản lý nợ công là một điều vô cùng cần
thiết đối với tất cả các quốc gia nói chung và với Việt Nam nói riêng.
13
1.2.2. Nội dung quản lý nợ công
Nội dung quản lý nhà nước về nợ công được quy định tại điều 4 Luật
quản lý nợ công và có thể tóm lược với các nội dung chính sau:
• Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp

luật về quản lý nợ công.
Nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng của Nhà nước trong quản lý nhà nước
về nợ công là xây dựng được một khuôn khổ pháp lý và thể chế cho quản lý
nợ công, trong đó có sự phân định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn của các
cơ quan chức năng được ủy quyền thay mặt chính phủ trong việc vay, trả nợ,
phát hành bảo lãnh hay thực hiện các giao dịch tài chính như cho vay lại.
Theo quy định của Luật quản lý nợ công thì Bộ Tài chính là cơ quan
chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý nợ công, song, các Bộ, ngành khác
cũng có những trách nhiệm liên quan nhất định, và điều này cũng đã được qui
định rõ trong Luật Quản lý nợ công. Cùng với Bộ Tài chính, NHNN có vai trò
quan trọng trong việc nâng cao tính hiệu quả của quản lý nợ công, từ khâu
xây dựng chiến lược quản lý nợ công đến khâu thực hiện chiến lược. NHNN
tham gia ý kiến với Bộ Tài chính về những vấn đề liên quan đến biến động thị
trường tiền tệ, như mức lãi suất, tình hình thanh khoản, sự thay đổi về cung
tiền; đưa ra quan điểm trong việc xây dựng kế hoạch, chiến lược quản lý nợ
công về cơ cấu nợ, cơ cấu các loại chứng khoán, công cụ vay nợ, khối lượng
và lãi suất, nguồn vay nợ; thực hiện chức năng đại lý phát hành tín phiếu kho
bạc và nhận tiền gửi kho bạc; tạo tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu
Chính phủ; bù đắp nguồn vốn thiếu hụt tạm thời cho thâm hụt ngân sách trong
khuôn khổ CSTT cho phép.
• Xây dựng, ban hành chỉ tiêu an toàn về nợ, mục tiêu, định hướng huy
động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công trong từng giai đoạn; hệ thống các
chỉ tiêu giám sát nợ chính phủ, nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia và kế
14
hoạch vay, trả nợ chi tiết hàng năm.
Việc ban hành các chỉ tiêu an toàn về nợ cũng như các chỉ tiêu giám
sát nợ là công cụ quan trọng để đánh giá tình hình vay và trả nợ của quốc gia
cũng như có những cảnh báo khi mà nợ vượt qua ngưỡng “an toàn” từ đó thực
thi các chính sách kịp thời để điều chỉnh và giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu
cực khi mà khủng hoảng nợ xảy ra.

Một trong những công cụ quản lý nợ chính là chiến lược và kế hoạch
vay trả nợ. Chiến lược vay trả nợ được lập trong dài hạn trong khi kế hoạch
vay trả nợ được lập trong trung hạn.
Chiến lược nợ công là văn kiện đưa ra mục tiêu, định hướng, các giải
pháp, chính sách đối với quản lý nợ của quốc gia được xây dựng trong chiến
lược tổng thể về huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế, phù hợp với chiến lược
phát triển kinh tế xã hội 5 năm và 10 năm của đất nước. Chiến lược nợ công
thường được xây dựng cho giai đoạn 10 năm. Nội dung của chiến lược gồm
đánh giá thực trạng nợ công; tình hình và công tác quản lý nợ công thời gian
qua; mục tiêu, định hướng và hệ thống các chỉ tiêu về vay và trả nợ của quốc
gia và khu vực kinh tế; các giải pháp, chính sách đối với quản lý nợ công.
Chương trình quản lý nợ trung hạn sẽ cụ thể hóa nội dung chiến lược
nợ công dài hạn cho giai đoạn từ 3 đến 5 năm và cập nhật từng năm, phù hợp
với khuôn khổ chính sách kinh tế, tài chính và với mục tiêu ngân sách trung
hạn và hàng năm của Chính phủ. Còn kế hoạch vay trả nợ hàng năm được xây
dựng hàng năm bao gồm kế hoạch rút vốn vay và trả nợ của Chính phủ và nợ
các doanh nghiệp, tổ chức thuộc khu vực công và tổng hạn mức vay thương
mại của quốc gia.
• Đánh giá tính bền vững của nợ công
Vay nợ để đầu tư cho tăng trưởng kinh tế không còn là vấn đề mới tuy
nhiên, nợ bao nhiêu là an toàn lại là một bài toán khó giải. Do đó, cần có biện
15
pháp tính toán kiểm soát mức nợ phù hợp với nền kinh tế và kiểm soát tốt quá
trình sử dụng nguồn vốn vay từ đó đảm bảo tính bền vững của nợ công.
Tính bền vững nợ công đề cập đến mức nợ của một quốc gia trong mối
quan hệ với tình hình phát triển chung của đất nước. Theo Cơ quan Phát triển
quốc tế (IDA) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) thì: “Tính bền vững nợ là khái
niệm dùng để chỉ trạng thái nợ của một quốc gia tại đó nước vay nợ có khả
năng đáp ứng các nghĩa vụ trả nợ - cả vốn gốc lẫn lãi – một cách đầy đủ,
không phải nhờ đến biện pháp miễn giảm hoặc cơ cấu lại nợ nào, cũng như

không bị tình trạng tích tụ các khoản nợ chậm trả, đồng thời vẫn cho phép nền
kinh tế đạt được một tỷ lệ tăng trưởng chấp nhận được”.
Để việc vay nợ không dẫn đến những xáo trộn vĩ mô và có thể đảm
bảo trả được nợ hay nói cách khác chính là đảm bảo tính bền vững của nợ
công trong dài hạn, cần phải xem xét ba khía cạnh:
(1) Năng lực trả nợ hiện có của nền kinh tế, bao gồm: mức thu nhập
chung của nền kinh tế, thu nhập bằng ngoại tệ và thu ngân sách;
Năng lực trả nợ hiện có của nền kinh tế, thể hiện bằng thu nhập quốc
dân và thu nhập bằng ngoại tệ, triển vọng tăng trưởng GDP và xuất khẩu, là
kết quả của chính sách kinh tế vĩ mô trong hiện tại cũng như trong tương lai.
Năng lực trả nợ là yếu tố hết sức quan trọng quyết định tính bền vững nợ
trong dài hạn. Năng lực trả nợ lớn cho phép quốc gia có thể giữ ổn định nền
kinh tế với mức vay nợ nước ngoài lớn tương ứng.
(2) Gánh nặng nợ công tích lũy của quốc gia tại thời điểm xem xét và
kì hạn phải trả;
Mức nợ tích lũy tại thời điểm xem xét là kết quả của các chính sách
vay nợ trong quá khứ. Đây cũng là xuất phát điểm để xem xét trong dài hạn
gánh nặng nợ của quốc gia có nguy cơ làm mất ổn định nền kinh tế hay
không. Tác động của mức nợ tích lũy ở chỗ để trả vốn gốc và lãi nợ nhà nước
16
sẽ phải thu thuế. Mức nợ tích lũy lớn thì thuế thu sẽ phải lớn như vậy không
khuyến khích đầu tư. Hơn nữa, khi nguồn lực phải mang trả nợ lớn thì sẽ phải
cắt nguồn lực cho phát triển xã hội, tạo việc làm và xóa đói giảm nghèo.
(3) Tốc độ tăng của nợ công trong những năm sắp tới bao gồm cả cơ
cấu nợ và kỳ hạn nợ.
Tốc độ tăng của nợ công trong thời gian tới liên quan đến chính sách
vay và trả nợ trong hiện tại và tương lai. Giám sát và kiểm soát tốc độ tăng
của nợ công là khía cạnh không thể thiếu để giữ ổn định vĩ mô trong dài hạn.
Để theo dõi và đảm bảo được tính bền vững của nợ công, cần nắm bắt
và phân tích được các cân đối lớn của nền kinh tế và tình hình nợ công.

• Đánh giá khả năng trả nợ hiện có của nền kinh tế thông qua các chỉ
số kinh tế vĩ mô
Tập hợp các chỉ số kinh tế vĩ mô cho phép đánh giá một cách khá
chính xác nguồn lực có thể huy động cho việc trả nợ, mức độ chắc chắn của
việc trả nợ đúng hạn đồng thời có thể chỉ báo tình trạng mất khả năng trả nợ
(khủng hoảng nợ) sắp xảy đến. Phân tích động thái các chỉ số kinh tế vĩ mô là
một hoạt động thường dùng để đánh giá tính bền vững nợ, tiêu biểu là các chỉ
số:
- Tăng trưởng kinh tế: tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đóng vai trò quyết định
độ lớn của nguồn tài chính thu được để trả nợ. Tốc độ tăng trưởng giảm dần,
đồng thời xuất hiện những vấn đề của khối kinh tế đối ngoại như chi phí vay
nợ tăng lên, tính cạnh tranh giảm sút, các vấn đề tín dụng trong và ngoài nước
là dấu hiệu chỉ báo tình trạng mất khả năng trả nợ.
- Lãi suất: lãi suất thực tế tác động rất mạnh đến các nhà đầu tư trong
nước. Lãi suất thực tế thấp là đòn bẩy kích thích đầu tư trong nước. Tỷ lệ lãi
suất thực tế cao, đi liền với khoảng cách ngày càng lớn giữa lãi suất tiền gửi
và lãi suất cho vay là những dấu hiệu bất ổn trên thị trường.
17
- Tỷ giá hối đoái thực tế: các nghiên cứu thường quan sát thấy rằng tỷ
giá hối đoái thực tế được đặt quá cao trong giai đoạn trước các cuộc khủng
hoảng nợ và khủng hoảng tiền tệ. Nguyên do là vì lượng vay nợ quá lớn và
thâm hụt ngân sách tăng dần.
- Điều kiện thương mại: các điều kiện thương mại là điều kiện xuất
khẩu hàng hóa và dịch vụ ra nước ngoài và nhập khẩu hàng hóa dịch vụ từ
nước ngoài. Vấn đề lớn mà các nước nghèo phải đối mặt hiện nay, đó là họ bị
các nước công nghiệp phát triển áp đặt những điều kiện không bình đẳng
trong xuất khẩu và nhập khẩu, dẫn đến tình trạng họ phải bán rẻ mua đắt.
Chẳng hạn như các nước công nghiệp phát triền đều có chính sách bảo hộ nền
nông nghiệp trong nước của họ, hạn chế ngành xuất khẩu nông sản là lĩnh vực
xuất khẩu chính của nhiều nước đang phát triển, trong khi lại buộc các nước

này mở cửa thị trường dịch vụ, là thị trường mà các công ty xuyên quốc gia
có lợi thế cạnh tranh. Điều kiện thương mại xấu đi có nghĩa là năng lực trả nợ
của quốc gia trong tương lai sẽ kém đi.
- Lạm phát: tỷ lệ lạm phát nhanh cùng với tỷ giá hối đoái thực tế là
những dấu hiệu trước khủng hoảng.
- Thâm hụt tài khóa và tín dụng trong khu vực công là những chỉ báo
của vấn đề mất cân đối trong nước.
Các chỉ số kinh tế vĩ mô có thể cho biết những dấu hiệu ban đầu của sự
mất cân đối trong các lĩnh vực ngân hàng, tiền tệ và nợ công. Tuy nhiên
chúng chưa phải là những điều kiện đủ để đưa ra quyết định về tình hình nợ
công. Để theo dõi và đánh giá tình hình mức nợ tích lũy và tốc độ tăng trưởng
nợ, người ta sử dụng hệ thống các chỉ số nợ công.
• Đánh giá mức nợ và tốc độ tăng nợ công thông qua hệ thống chỉ số
nợ công:
Việc đánh giá tình hình nợ công của một đất nước là vấn đề hết sức
18
quan trọng để có những chính sách, chiến lược vay nợ cho đầu tư hợp lý, đảm
bảo được khả năng trả nợ và hạn chế nguy cơ vỡ nợ.
1.2.3. Các công cụ quản lý nợ công
1.2.3.1. Văn bản pháp luật, chính sách
Quản lý nợ công là việc phân bổ, sử dụng và điều tiết hợp lý các nguồn
vay của chính phủ vào việc chi tiêu, đầu tư để đạt hiệu quả cao nhất, tránh sự
trùng lặp và lãng phí các nguồn vốn vay mượn. Do vậy, các khoản vay này
cần phải được kiểm soát chặt chẽ, công bố công khai một cách cụ thể, minh
bạch và trách nhiệm trong việc sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn vay này.
Để thực hiện được điều đó, cần phải có một hệ thống các văn bản pháp luật,
chính sách, thông tư hướng dẫn việc đầu tư và sử dụng phân bổ các nguồn
vốn; hướng dẫn thẩm định và kiểm toán các dự án trước khi phát hành bảo
lãnh một cách hợp lý, cụ thể.
Trong hệ thống các văn bản pháp luật thì Luật quản lý nợ công là công

cụ có tính pháp lý mạnh nhất trong đó quy định các nội dung cơ bản về quản
lý nợ công và nợ nước ngoài như nguyên tắc quản lý nợ công; phân công có
trách nhiệm cụ thể cho từng cơ quan, tổ chức có liên quan; quy định về quản
lý nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ Chính quyền địa phương;
tổ chức thông tin về nợ công
Luật quản lý nợ công góp phần quan trọng để đảm bảo tính thống nhất
và hiệu quả trong công tác quản lý nợ, tránh tình trạng các đầu mối quản lý
tản mạn, tình trạng thiếu thông tin và phối hợp kém hiệu quả giữa các cơ quan
quản lý nhà nước cấp Bộ, giữa Chính phủ và chính quyền cấp tỉnh. Bên cạnh
đó, việc thực thi Luật Quản lý nợ công cũng có ý nghĩa như một “tuyên ngôn”
rõ ràng của một quốc gia đối với các nhà tài trợ về mức độ nhất quán, tính
minh bạch trong công tác quản lý nợ công của nước mình.
Luật quản lý nợ công cũng chỉ rõ ra các công cụ quản lý nợ công được
19
xác định một cách rõ ràng bao gồm: Luật Quản lý nợ công, chiến lược nợ dài
hạn, chương trình quản lý nợ trung hạn, kế hoạch vay, trả nợ hàng năm của
Chính phủ. Các văn kiện này đưa ra các mục tiêu về vay nợ, các giải pháp về
huy động và sử dụng hiệu quả vốn vay, các hạn mức, ngưỡng giới hạn vay
cho từng thời kỳ nhằm đảm bảo tình trạng nợ công luôn ở mức an toàn; quản
lý tốt rủi ro trung – dài hạn, tăng cường năng lực phân tích, dự báo của các cơ
quan tham gia quản lý nợ. Việc xây dựng các công cụ quản lý mang tính
chuẩn mực cao nhằm hạn chế thủ tục hành chính, giảm các bước trình duyệt
từng lần, đảm bảo tính chủ động của cơ quan thừa hành, đồng thời chuẩn hoá
công tác quản lý nợ theo những quy trình ổn định. Luật Quản lý nợ công quy
định rõ trách nhiệm chủ trì và trách nhiệm phối hợp của các cơ quan (như Bộ
Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng trung ương) trong việc xây
dựng những văn kiện quan trọng để quản lý nợ công, như chiến lược nợ,
chương trình quản lý nợ trung hạn, kế hoạch vay, trả nợ hàng năm. Tùy theo
thể chế chính trị của mỗi quốc gia mà có những sự điều chỉnh trong luật cho
phù hợp.

Như vậy, Luật quản lý nợ công và các văn bản, chính sách về quản lý
nợ công của Nhà nước đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều
tiết chi tiêu các khoản mục vay nợ của Chính phủ, góp phần nâng cao hiệu
quả sử dụng nợ, quy định rõ trách nhiệm cụ thể, tránh tình trạng tham ô, tham
nhũng lãng phí trong việc sử dụng các khoản nợ của quốc gia.
1.2.3.2. Hệ thống công nghệ thông tin:
Trong thời đại công nghiệp hóa – hiện đại hóa như hiện nay, sự tiến bộ
của công nghệ thông tin đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của nền
kinh tế đất nước. Công nghệ thông tin ảnh hưởng đến việc cung cấp và xử lý
các thông tin về tình hình vay nợ và báo cáo tình hình nợ. Các hoạt động quản
lý nợ cần phải được hỗ trợ bởi một hệ thống thông tin chính xác, đầy đủ và
20

×