Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tiêu chí ưu tiên khi lựa chọn việc làm của sinh viên khóa 51 khoa Quản trị kinh doanh, trường ĐH Kinh tế Quốc Dân sau khi ra trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.31 KB, 38 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
***


1

LỜI MỞ ĐẦU
***
1, Tính cấp thiết của đề tài:
Ngày nay, trong xu thế tồn cầu hóa cùng với sự đi lên của khoa học kỹ
thuật, sự phát triển của mỗi quốc gia khơng cịn phụ thuộc nhiều vào nguồn
tài ngun thiên nhiên và nguồn vốn đầu tư vì tài nguyên thiên nhiên đang
dần cạn kiệt, cịn nguồn lực tài chính cũng là có hạn. Chính vì thế, nguồn
nhân lực đang trở thành một trong những yếu tố then chốt quyết định tới sự
tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam. Hiện tại,Việt
Nam có hơn 46 triệu lao động, một lực lượng khá hùng hậu và đông đảo. Vấn
đề luôn luôn được quan tâm là giải quyết vấn đề việc làm cho 46 triệu lao
động như thế nào? Thực tế hiện nay chỉ ra rằng đối tượng sinh viên – lực
lượng lao động đã qua đào tạo lại rất khó xin được việc sau khi ra trường
trong khi đó bên phía doanh nghiệp, nhu cầu về lao động cũng rất cấp thiết
nhưng lại không thể tuyển dụng được đúng vị trí mà mình mong muốn. Đây
quả thực là một vấn đề cấp thiết cần được giải quyết nhanh chóng, kịp thời để
nâng cao chất lượng nguồn lao động cho đất nước trong giai đoạn phát triển
hiện nay, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức kinh tế thế giới WTO.
Xuất phát từ thực trạng trên mà em lựa chọn đề tài: ‘’ Tiêu chí ưu tiên
khi lựa chọn việc làm của sinh viên khóa 51 khoa Quản trị kinh doanh, trường
ĐH Kinh tế Quốc Dân sau khi ra trường’’ với mong muốn có thể góp một
phần nào đó vào việc giải quyết vấn đề việc làm cho sinh viên hiện nay.
2, Tổng quan về nghiên cứu:


Vấn đề việc làm, đặc biệt là việc làm cho sinh viên hiện nay đang là một
vấn đề được quan tâm ngày càng sâu rộng bởi lẽ nó là yếu tố có ảnh hưởng
trực tiếp tới chất lượng đào tạo Đại học nói riêng và chất lượng của cả nền
giáo dục Việt Nam nói chung mà giáo dục chính là quốc sách hàng đầu, là
một yếu tố then chốt quyết định tới sự phát triển lâu dài của mỗi quốc gia.
Chính vì vậy mà cho đến thời điểm này đã có một số lượng lớn các cơng trình


2

nghiên cứu cũng như các bài thảo luận trong nước về vấn đề việc làm của sinh
viên, trong đó có một số cơng trình có liên quan tới vấn đề mà em đang
nghiên cứu như sau:
1. Báo cáo ‘’Vận dụng quan điểm tồn diện để xem xét tình trạng thất nghiệp
của sinh viên sau khi ra trường ở nước ta hiện nay’’, năm 2011, của hai tác
giả Phạm Thị Thảo, Nguyễn Hùng Vương, sinh viên khoa Giáo dục chính
trị, trường ĐH Sư phạm đã chỉ rõ: ‘’ …Việc làm cho sinh viên sau khi ra
trường hiện đang là vấn đề nan giải chưa có những biện pháp giải quyết
hữu hiệu. Đây là một vấn đề xã hội nổi cộm ảnh hưởng tới sự phát triển
kinh tế của đất nước. Tỷ lệ thất nghiệp cao sẽ ảnh hưởng tới mức độ tồn
dụng lao động xã hội, từ đó làm thu nhập quốc dân giảm sút, ảnh hưởng
tiêu cực đến tiềm năng tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Không những thế
thất nghiệp còn là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc gia tăng các
tệ nạn xã hội như trộm cướp, cờ bạc, ma túy,… làm cho đời sống người lao
động gặp nhiều khó khăn, chất lượng an sinh xã hội giảm sút. Thất nghiệp
nói chung cũng như thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường nói riêng
đang là một vấn đề được dư luận xã hội và giới nghiên cứu quan tâm, tuy
nhiên vẫn chưa có biện pháp thỏa đáng nào để giải quyết vấn đề
này….Thất nghiệp có nhiều hình thức biểu hiện. Tỷ lệ thất nghiệp ở nước
ta vẫn còn ở mức cao, khoảng 4,2 % năm 2008, đặc biệt là tình trạng thất

nghiệp của lao động có trình độ đại học và cao đẳng. Theo số liệu của Bộ
giáo dục và đào tạo năm 2006 thì cả nước có tới 63 % sinh viên tốt nghiệp
đại học, cao đẳng ra trường khơng có việc làm, 37% có việc làm nhưng
nhiều sinh viên phải làm trái ngành, trái nghề hoặc phải đào tạo lại…’’.
2, Bài viết ‘’ Gắn đào tạo với sử dụng, nhà trường với doanh nghiệp’’ của TS
Trần Anh Tài, khoa Quản trị kinh doanh, trường Kinh tế, ĐH Quốc gia Hà
Nội in trên Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và kinh doanh số 25,
năm 2009. Bài viết có đề cập tới vấn đề cần gắn kết nhà trường, doanh
nghiệp và sinh viên với nhau để nhằm giải quyết một vấn đề, đó là vấn đề
việc làm sau khi ra trường cho sinh viên. Bài viết còn chỉ rõ: “ …Theo số
liệu khảo sát của dự án giáo dục đại học về việc làm cho sinh viên sau khi


3

tốt nghiệp thì trong khoảng 200 000 sinh viên ra trường hàng năm chỉ có 30
% đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng, 45 – 62 % sinh viên tìm được
việc sau khi tốt nghiệp trong đó chỉ có 30 % là làm đúng ngành nghề đào
tạo… Bên cạnh số sinh viên tốt nghiệp hàng năm khơng tìm kiếm được
việc làm ngày càng tăng lên thì số sinh viên có việc làm cũng khơng đáp
ứng được u cầu về chất lượng của các nhà tuyển dụng. Sinh viên các
trường đại học sau khi được tuyển dụng vào các doanh nghiệp thường phải
được tiếp tục đào tạo 2 đến 3 năm nữa mới có thể đáp ứng được nhu cầu sử
dụng của doanh nghiệp, điều này gây lãng phí rất lớn về thời gian và tiền
bạc của doanh nghiệp. Theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới, khoảng 50
% cơng ty may mặc, hóa chất đánh giá lao động được đào tạo khơng đáp
ứng được u cầu của mình. Khoảng 60 % lao động trẻ tốt nghiệp từ các
trường dạy nghề và trường cao đẳng cần được đào tạo lại ngay sau khi
được tuyển dụng. Một số doanh nghiệp phần mềm cần đào tạo lại ít nhất 1
năm cho khoảng 80 – 90 % cho những sinh viên tốt nghiệp vừa được tuyển

dụng…’’.
3, Gần đây nhất là hội thảo quốc gia: “Xây dựng và hồn thiện chương trình
đào tạo cử nhân Quản trị kinh doanh (QTKD) ở Việt Nam” được tổ chức
tại Trường ĐH Kinh tế quốc dân ngày 12/10/2011. Tại hội thảo này, một
vấn đề bức thiết đã được đặt ra đó là:’’Tại sao tốt nghiệp ‘’bằng đỏ’’ vẫn
trượt tuyển dụng’’. Phân tích về thực trạng nhân lực ngành QTKD hiện nay
của Việt Nam, TS. Đoàn Hồng Lê, Cục Hải quan TP Đà Nẵng, cho biết:
“Sản phẩm đào tạo QTKD vẫn còn một khoảng cách xa so với nhu cầu
doanh nghiệp. Tình trạng thiếu hụt nhân lực trình độ cao, có kỹ năng quản
trị ngày càng trầm trọng, nhất là các vị trí chủ chốt trong cơng ty. Đặc biệt,
thiếu nhân lực trình độ cao trong các ngành nghề thuộc QTKD như
Maketing - bán hàng - quảng cáo; nhóm ngành quản trị Tài chính - Ngân
hàng; nhóm ngành Dịch vụ - Du lịch - Hành chính…các ngành này chiếm
khoảng 40% tổng nhu cầu lao động trên thị trường và mức tăng trưởng phải
đạt khoảng 50% mới đáp ứng được nhu cầu. Thậm chí nhiều vị trí của một
số công ty nhiều năm vẫn không tuyển được ứng viên nào. Ngay tại các


4

doanh nghiệp Đà Nẵng, qua khảo sát hơn 1/3 doanh nghiệp gặp phải khó
khăn trong việc tìm kiếm nguồn nhân lực có trình độ để đáp ứng u cầu
sản xuất kinh doanh. Đáng chú ý, nguồn nhân lực đã qua hệ thống đào tạo
nhưng không đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp chiếm tỷ lệ rất cao
46,14%”.
Theo nhận định của nhiều doanh nghiệp, phần lớn sinh viên ra
trường còn yếu kém về kỹ năng làm việc và kinh nghiệm thực tế. Các
doanh nghiệp cho biết, qua phỏng vấn tuyển dụng cho thấy có nhiều nhiều
sinh viên đạt kết quả học tập cao nhưng lại khơng quen làm việc theo nhóm
hoặc chưa biết cách diễn đạt, trình bày ý tưởng của mình trước tập thể…

… TS. Phạm Thế Hưng, Viện trưởng Viện SISME - Hiệp hội DNNVV Việt
Nam (VINASME) cho biết: “Thực tiễn cho thấy, các nhà lãnh đạo và quản trị
không ngừng than phiền về chất lượng nhân viên của mình. Vấn đề đặt ra rất
quan trọng trong giai đoạn hiện nay là các chủ doanh nghiệp và Nhà trường
cần phối hợp thẳng thắn, nhìn thẳng vào thực trạng nguồn nhân lực VN hiện
có, những gì đã đáp ứng u cầu, những gì phải sửa đổi, bổ sung trong chiến
lược đào tạo chung nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ doanh nghiệp giỏi”.
Như vậy, những tài liệu ở trên đã đề cập rất rõ thực trạng việc làm của
sinh viên nói chung và sinh viên Kinh tế nói riêng sau khi ra trường và chỉ ra
một số nguyên nhân dẫn tới thực trạng đó nhưng hầu hết các nghiên cứu đều
nhìn vấn đề này ở góc độ doanh nghiệp, góc độ các nhà tuyển dụng. Cịn về
phía sinh viên và phía nhà trường thì vấn đề này chưa được nhìn nhận một
cách đầy đủ và cụ thể.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Mục tiêu chính của nghiên cứu là thu thập các thông tin cụ thể và sát
thực về xu hướng lựa chọn việc làm của sinh viên khóa 51 khoa Quản trị kinh
doanh, trường Đại học Kinh tế Quốc Dân sau khi tốt nghiệp nhằm giải quyết
câu hỏi nghiên cứu: Số lượng, tỷ lệ sinh viên lựa chọn các ngành nghề là bao
nhiêu? Sinh viên lựa chọn việc làm dựa vào các yếu tố nào, họ ưu tiên yếu tố
nào khi đưa ra lựa chọn việc làm cho mình. Cuối cùng là suy nghĩ của cá nhân


5

sinh viên về thực trạng thất nghiệp và làm trái ngành, trái nghề của sinh viên
sau khi ra trường cũng như các gợi ý để giải quyết vấn đề trên. Từ đó, góp
phần tìm ra được ngun nhân và đưa ra được các giải pháp khả quan để đề
xuất lên phía nhà trường và doanh nghiệp nhằm nâng cao được chất lượng
đầu ra và giúp sinh viên có được việc làm ổn định sau khi ra trường.
4. Phạm vi, đối tượng và phương pháp nghiên cứu:

Phạm vi nghiên cứu: Khoa Quản trị kinh doanh, trường Đại học Kinh
tế Quốc Dân.
Đối tượng nghiên cứu: Sinh viên khóa 51 của 3 chuyên ngành thuộc
Khoa Quản trị kinh doanh trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, khơng theo tỷ lệ
nam/nữ.
Loại hình nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả.
Phương pháp nghiên cứu: Kết hợp cả định tính và định lượng.
- Phương pháp định tính: Thu thập các loại dữ liệu thứ cấp về vấn đề
việc làm của sinh viên nói chung và sinh viên Kinh tế nói riêng.
- Phương pháp định lượng: Tiến hành điều tra tất cả các sinh viên tới
từ 3 chuyên ngành QTKD Công nghiệp & Xây dựng, QTKD Tổng hợp và
QT Chất lượng của khoa Quản trị kinh doanh bằng phiếu điều tra có cấu trúc.
Tổng số phiếu phát ra là 365 phiếu, số phiếu thu về là 225 phiếu và số phiếu
cuối cùng thu được sau khi đã làm sạch là 186 phiếu, đạt tỷ lệ gần 51 %. Kết
quả nghiên cứu được xử lý và phân tích trên Excel.
Thời gian nghiên cứu: 1 tháng ( từ 10/3 đến 10/4/2012).
5. Kết cấu của đề tài: Đề tài bao gồm 3 chương
Chương 1: Tổng quan chung về tình hình lao động và việc làm của Việt
Nam:
1.1.Tổng quan về tình hình lao động và việc làm của Việt Nam trong
thời gian gần đây
1.2.Vấn đề thất nghiệp của lao động Việt Nam hiện nay


6

Chương 2: Thực trạng xu hướng lựa chọn việc làm của sinh viên khóa 51
khoa Quản trị kinh doanh trường ĐH Kinh tế Quốc Dân
2.1. Tổng quan về cuộc điều tra
2.2. Kết quả điều tra

2.3. Kết luận và đưa ra nhận xét
Chương 3: Một số gợi ý cho việc giải quyết vấn đề việc làm cho sinh viên sau
khi ra trường
3.1. Đối với bản thân sinh viên
3.2. Đối với nhà trường
3.3. Đối với doanh nghiệp


7

CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA SINH VIÊN SAU KHI
RA TRƯỜNG HIỆN NAY
***
1.1. Vài nét sơ qua về tình hình lao động của Việt Nam trong thời
gian gần đây:
Theo báo cáo ‘’Xu hướng việc làm Việt Nam 2010’’, trong giai đoạn
từ năm 2007 và 2009, Việt Nam gặp nhiều thách thức do tác động của nền
kinh tế toàn cầu bị suy giảm với những ảnh hưởng rõ rệt đến thị trường lao
động. Nghiên cứu lực lượng lao động đã cho thấy một số xu hướng việc làm
quan trọng trong giai đoạn này.
Các mục tiêu của Chương trình Việc làm Bền vững đã đạt được là một
yếu tố quan trọng để chống đói nghèo. Tỷ trọng việc làm dễ bị tổn thương
giảm xuống 4,3 điểm phần trăm do sự gia tăng tỷ trọng lao động làm công ăn
lương (2,9 điểm phần trăm) và gia tăng lao động tự làm (8,2 điểm phần trăm).
Tuy nhiên, sự gia tăng tỷ trọng lao động gia đình khơng được trả cơng (4,0
điểm phần trăm) trong cùng kỳ đi ngược lại xu hướng giảm của nhóm việc
làm dễ bị tổn thương.
Việt Nam có tỷ số việc làm trên dân số tương đối cao, với gần 75% dân
số từ 15 tuổi trở lên. Tuy nhiên, do ảnh hưởng bất ổn của khủng hoảng tài
chính tồn cầu, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ở Việt Nam đã giảm trong

giai đoạn từ 2007 đến 2009. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động tăng đối với
nam giới và nữ giới trong độ tuổi 15 – 19 (từ 37,1% năm 2007 lên 43,8% năm
2009) cho thấy rằng đã có một lượng lớn thanh thiếu niên rời bỏ nhà trường
để tìm việc kiếm sống và hỗ trợ gia đình.
Ngành chiếm nhiều lao động nhất ở Việt Nam là các ngành nông
nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, với gần 23 triệu lao động trong năm 2008. Số
liệu trên cho thấy sự chuyển đổi cơ cấu của thị trường lao động Việt Nam từ
những việc làm trong ngành nông nghiệp có năng suất lao động thấp, địi hỏi


8

nhiều lao động sang các ngành công nghiệp và dịch vụ có giá trị gia tăng cao
hơn, được đầu tư cơng nghệ và tài chính nhiều hơn. Trong hầu hết các dự báo,
việc làm trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản có chiều hướng
giảm và sẽ ở mức 21,1 triệu lao động vào năm 2020. Người lao động có trình
độ và kỹ năng cao hơn sẽ là chất xúc tác cho quá trình chuyển đổi này cũng
như sự tăng trưởng thành cơng của Việt Nam trong vai trị là quốc gia có thu
nhập trung bình.
Xu hướng của thị trường lao động trong giai đoạn 2010-2015
Lực lượng lao động của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng từ năm 2010 tới năm
2015. Xét về số lượng, Việt Nam vẫn tiếp tục là một trong những nước có
mức tăng lực lượng cao nhất trong khu vực ASEAN, chỉ sau Indonesia và
Philippines. Điều này vẫn sẽ tạo ra sức ép đáng kể đối với nền kinh tế để bảo
đảm việc làm đầy đủ.
Nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh sẽ là ưu tiên trong
5 năm tới khi Việt Nam chủ trương vươn lên tham gia vào hệ thống sản xuất
của khu vực và toàn cầu. Việc tiếp tục hội nhập sâu vào thị trường quốc tế và
chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế sẽ đem lại nhiều cơ hội hơn cho lao động
trong nước, đặc biệt cho nhóm đối tượng sinh viên mới ra trường.

1.2. Thực trạng việc làm của sinh viên sau khi ra trường hiện nay:
Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế
quốc tế như hiện nay thì nguồn lao động, đặc biệt là lao động có trình độ cao
đang trở thành một nhân tố vô cùng quan trọng góp phần vào sự phát triển của
mỗi quốc gia và sinh viên cũng thuộc nhân tố quan trọng đó. Tuy nhiên, hiện
nay, vấn đề sinh viên sau khi ra trường khơng tìm được việc và làm trái
ngành, trái nghề là hiện tượng vơ cùng phổ biến.
Trong thời kì bao cấp, tỷ lệ học đại học, cao đẳng cịn rất ít nên tình
trạng thất nghiệp hầu như khơng có, nhưng trong thời kì kinh tế thị trường
như hiện nay, khi mà các trường đại học, cao đẳng, đào tạo nghề được lập ra
rất nhiều nhằm đáp ứng nhu cầu lao động có kỹ năng và kinh nghiệm thì vấn


9

đề thất nghiệp quả là vấn đề đáng lo ngại. Cả nước có tới gần 200 trường đại
học, cao đẳng, hàng năm, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp là rất cao nhưng tỷ lệ sinh
viên khơng có việc làm cũng không phải là con số nhỏ. Theo số liệu của Bộ
giáo dục và đào tạo năm 2006 thì cả nước có tới 63 % sinh viên tốt nghiệp đại
học, cao đẳng ra trường khơng có việc làm, 37% có việc làm nhưng nhiều
sinh viên phải làm trái ngành, trái nghề hoặc phải đào tạo lại. Đặc biệt, theo
số liệu gần đây nhất ( 2012) thì với 79 nghìn doanh nghiệp giải thể và phá
sản, và có thể tiếp tục có thêm rất nhiều doanh nghiệp ngưng hoạt động hoặc
giải thể trong năm nay, trong đó có cả các doanh nghiệp lớn bên cạnh các
doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) làm tăng nguy cơ thất nghiệp cho người
lao động kể cả đối tượng sinh viên trên diện rộng với phạm vi cả nước. Trong
bài viết ‘’ Gắn đào tạo với sử dụng, nhà trường với doanh nghiệp’’ của TS
Trần Anh Tài, khoa Quản trị kinh doanh, trường Kinh tế, ĐH Quốc gia Hà
Nội năm 2009 có chỉ rõ:’’…Theo số liệu khảo sát của dự án giáo dục đại học
về việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp thì trong khoảng 200 000 sinh

viên ra trường hàng năm chỉ có 30 % đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển
dụng, 45 – 62 % sinh viên tìm được việc sau khi tốt nghiệp trong đó chỉ có 30
% là làm đúng ngành nghề đào tạo… Bên cạnh số sinh viên tốt nghiệp hàng
năm khơng tìm kiếm được việc làm ngày càng tăng lên thì số sinh viên có
việc làm cũng khơng đáp ứng được yêu cầu về chất lượng của các nhà tuyển
dụng. Sinh viên các trường đại học sau khi được tuyển dụng vào các doanh
nghiệp thường phải được tiếp tục đào tạo 2 đến 3 năm nữa mới có thể đáp ứng
được nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp, điều này gây lãng phí rất lớn về thời
gian và tiền bạc của doanh nghiệp’’.
Thực tế cho thấy rằng, vẫn có trường hợp người lao động thất nghiệp
mà trình độ của họ về chuyên môn khá cao. Số liệu năm 2003 cho thấy:
những người tốt nghiệp đào tạo nghề lại dễ dàng tìm việc làm hơn là những
người có trình độ cao hơn: 1,39% người lao động thất nghiệp với trình độ đào
tạo nghề, 2,72% người thất nghiệp đã qua đào tạo chuyên nghiệp, 3,41% lao
động thất nghiệp trình độ cao đẳng và số người thất nghiệp có trình độ qua
đào tạo đại học là 3,61%. Một nghịch lí là trình độ càng cao thì tỉ lệ thất


10

nghiệp cũng nhảy vọt theo. Chính sự mâu thuẫn ấy lại gây nên sự hoang
mang, bày ra một thực tế khắc nghiệt cho việc lựa chọn nghề nghiệp của giới
trẻ hiện nay. Mục tiêu là phải tìm đươc việc làm sau khi đã qua đào tạo và chỉ
tiêu đó sẽ được giải quyết như thế nào, và giới trẻ sẽ căn cứ vào cái gì để mà
lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai của mình?
Hơn thế nữa, hiện nay, về vấn đề việc làm của sinh viên sau khi tốt
nghiệp, về phía nhà tuyển dụng, các doanh nghiệp thường chỉ tuyển dụng sinh
viên mới ra trường cho các vị trí ở cấp trung bình như vị trí thư ký hoặc các
công việc yêu cầu bậc nghề từ thấp đến trung bình, rất ít doanh nghiệp th
lao động trẻ vào vị trí quản lý. Hơn một nửa số doanh nghiệp cho biết, họ

không được đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng của cán bộ quản lý,
cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật bậc cao. Các doanh nghiệp tham gia
khảo sát đều cho biết hiện tại họ gặp khó khăn về cán bộ kỹ thuật và quản lý
cấp cao. Bởi lẽ Việt Nam luôn là một trong những nền kinh tế có tốc độ phát
triển cao trong khu vực. Với những cải cách về pháp lý và môi trường đầu tư,
Việt Nam đang thu hút một khối lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi.
Vì vậy dẫn tới sự gia tăng nhu cầu tuyển dụng người lao động có trình độ và
chất lượng cao. Trong khi đó, thị trường lao động trong nước khơng thể đáp
ứng kịp nhu cầu này cả về số lượng lẫn chất lượng. Điều này có thể giải thích
bởi một số ngun nhân: Các trường đại học đào tạo quá nhiều các chuyên
ngành không phù hợp với nhu cầu tuyển dụng thực tế. Hoặc kiến thức và kỹ
năng trang bị cho sinh viên khơng đáp ứng và tương thích được với cơng việc
sau khi ra trường. Khơng có gì là khó hiểu khi sinh viên ra trường còn nhiều
lúng túng khi áp dụng kiến thức vào công việc, phải mất một khoảng thời gian
khơng nhỏ để thích nghi, thậm chí phải đào tạo lại từ đầu mới có thể đảm
đương tốt cơng việc.
Mặc dù xu hướng đào tạo các chuyên ngành quản lý và quản trị trong
các trường khối kinh tế không phải là nhỏ, nhưng sinh viên mới ra trường hầu
như chưa thể đảm đương được ngay những công việc ở vị trí cấp cao mà
doanh nghiệp muốn tuyển dụng. Điều này cho thấy sự mất cân bằng giữa số
lượng và chất lượng đào tạo trong đại đa số các trường đại học hiện nay. Việt


11

Nam vẫn đang và sẽ còn nhu cầu đối với lực lượng nhân sự chất lượng cao và
thạo nghề và thực sự là nguồn cung trong nước vẫn chưa thể đáp ứng được
hết nhu cầu đó. Khoảng trống của những vị trí cấp cao sẽ là cơ hội tốt đối với
Việt kiều cũng như người nước ngoài, đặc biệt là ở những lĩnh vực mà người
Việt Nam chưa thể đảm đương được. Tuyển dụng cho các vị trí như giám đốc

tài chính, giám đốc hành chính, tổng giám đốc hoặc những luật sư đẳng cấp
quốc tế, các chuyên gia về tiếp thị... vẫn luôn là những thách thức lớn đối với
các doanh nghiệp.
Đây quả thực là thực tế đáng báo động và cần phải được giải quyết
nhanh chóng, kịp thời vì nó khơng chỉ gây nên gánh nặng cho nền kinh tế mà
cho cả xã hội do các tệ nạn xã hội gia tăng theo tỷ lệ thất nghiệp.


12

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XU HƯỚNG LỰA CHỌN VIỆC LÀM
CỦA SINH VIÊN KHÓA 51 KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN SAU KHI RA TRƯỜNG
***
2.1. Tổng quan về cuộc điều tra
Nội dung của đề tài NCKH này là về vấn đề xu hướng lựa chọn việc
làm của sinh viên sau khi ra trường, để vấn đề được xem xét tồn diện thì cần
phải tiến hành điều tra và phỏng vấn ở cả ba đối tượng là: nhà trường, doanh
nghiệp và sinh viên. Tuy nhiên, do điều kiện về thời gian và nguồn lực không
cho phép nên chúng tôi xin phép được thực hiện điều tra với đối tượng thứ ba
là sinh viên.
Chúng tôi đã tiến hành điều tra trong phạm vi là khoa Quản trị kinh
doanh, trường đại học Kinh tế Quốc Dân. Đối tượng điều tra là sinh viên khóa
51 của 7 lớp chuyên ngành thuộc khoa Quản trị kinh doanh, trường ĐH Kinh
tế Quốc Dân. Thời gian thực hiện là trong vòng 1 tháng từ ngày 10/03/2012
đến ngày 10/04/2012. Do tổng thể không quá lớn và không mất nhiều thời
gian để tiến hành phát phiếu điều tra nên chúng tôi quyết định tiến hành điều
tra trên cả tổng thể, tổng số phiếu phát ra là 365 phiếu tương ứng với số lượng
sinh viên khóa 51 đến từ 7 lớp chuyên ngành (QTKD CN & XD 51
A,B,C;QTKD TH 51 A,B,C;QTCL51). Số phiếu thu về là 225 phiếu, sau khi

làm sạch thì tổng số phiếu cuối cùng thu được là 186 phiếu, chiếm xấp xỉ 51
% tổng số phiếu phát ra.
Các nội dung được khảo sát trong phiếu điều tra được chia làm hai phần:
- Xu hướng lựa chọn việc làm của sinh viên sau khi ra trường : yếu tố
và tiêu chí lựa chọn việc làm sau khi ra trường của sinh viên, lý do họ lựa
chọn cơng việc đó, yếu tố nào là yếu tố quyết định tới việc lựa chọn của họ.
- Ý kiến của cá nhân sinh viên về vấn đề thất nghiệp và làm trái ngành
trái nghề của sinh viên hiện nay, đồng thời, đưa ra được một số gợi ý để giải
quyết vấn đề này.


13

Tất cả các phiếu điều tra sau khi đã được làm sạch đều được chúng tơi
mã hóa và phân tích trên phần mềm Excel 2007 trong vòng 2 ngày ( 11/3 và
12/3/2012).
2.2. Kết quả điều tra
Số lượng sinh viên khóa 51, hệ chính quy, khoa Quản trị kinh doanh là
365 sinh viên, chiếm hơn 8% tổng số sinh viên chính quy khóa 51 trường ĐH
Kinh tế Quốc Dân.
Sau khi tiến hành điều tra trên 365 sinh viên khóa 51, khoa Quản trị
kinh doanh và thu về được 186 phiếu sau khi đã làm sạch. Chúng tơi đã tiến
hành mã hóa và phân tích dữ liệu bằng phần mềm Excel 2007 và thu được kết
quả như sau:
2.2.1. Kết quả điều tra về công việc mong muốn trong tương lai
Thứ nhất, về lý do lựa chọn ngành học hiện tại ở đại học, trong số
186 bạn sinh viên được hỏi thì có 60 bạn trả lời là do đam mê, sở thích của
bản thân và số lượng này chiếm tỷ lệ cao nhất 32,3 %. Lý do ngẫu nhiên lựa
chọn là câu trả lời của 50 bạn, chiếm tỷ lệ cao thứ hai là 26, 9%. 42 bạn được
hỏi trả lời rằng họ lựa chọn ngành học hiện tại là do gia đình định hướng

(chiếm tỷ lệ 22,6 %). 5,9 % là tỷ lệ thấp nhất dành cho lý do do nhu cầu của
xã hội và 12,4 % là tỷ lệ của lý do khác.

Biểu đồ 1: Lý do lựa chọn ngành học hiện tại ở đại học
của sinh viên khóa 51 khoa QTKD


14

Từ biểu trên, ta thấy rằng, đa số sinh viên lựa chọn ngành học hiện tại
của mình đều là do đam mê, sở thích của bản thân, do gia đình định hướng và
ngẫu nhiên lựa chọn, chiếm tới xấp xỉ 82 % số sinh viên được điều tra. Con số
này là dấu hiệu đáng mừng thể hiện ngành Quản trị kinh doanh là ngành có
sức hút rất lớn với hầu hết sinh viên lựa chọn. Điều này cũng xuất phát từ sự
phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay, Việt Nam chính thức gia nhập
WTO từ năm 2007, từ đó tới nay, đi kèm với việc nền kinh tế hội nhập với
nền kinh tế thế giới là việc đầu tư vào Việt Nam tăng cao và nhiều doanh
nghiệp được thành lập. Mỗi doanh nghiệp đó lại rất cần những đội ngũ quản
lý được đào tạo một cách bài bản và chun nghiệp. Chính vì vậy, nhu cầu về
nhân lực quản lý tăng cao. Tuy nhiên, bên cạnh đó, tỷ lệ sinh viên ngẫu nhiên
lựa chọn ngành Quản trị kinh doanh cũng chiếm tỷ lệ khá cao 26,9 %, xấp xỉ
tỷ lệ sinh viên chọn ngành do đam mê, sở thích (32,3%) và định hướng từ
phía gia đình (22,6%). Lý do dẫn tới tình trạng này có thể là từ phía sinh viên
chưa có sự hiểu biết về ngành Quản trị kinh doanh hoặc chưa có định hướng
nghề nghiệp rõ ràng từ lúc đăng ký hồ sơ thi đại học. Vì vậy, cần có các buổi
định hướng nghề nghiệp cho học sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà
trường Trung học phổ thông.
Thứ hai, về dự định sau khi ra trường của sinh viên, trong số 186
sinh viên đã điều tra thì có 104 bạn ( 55,9%) có xu hướng tìm một cơng việc
ổn định hoặc vừa học vừa làm sau khi ra trường. 31, 2 % số các bạn được hỏi

sẽ có ý định học lên các học vị cao hơn hoặc học thêm văn bằng hai trước khi
đi làm, có tới 10,8% các bạn trả lời rằng chưa có ý định và định hướng gì sau
khi ra trường và chỉ có 2,2 % cịn lại có dự định khác như du học. Vậy lý do
gì khiến cho 82 bạn cịn lại chưa có ý định làm việc ngay sau khi ra trường ?
Tại sao 31, 2% các bạn muốn học lên các học vị cao hơn hoặc học thêm văn
bằng hai và 2,2 % đi du học? Để lý giải cho điều này có thể vì hai lý do. Lý
do đầu tiên xuất phát từ phía chủ quan của sinh viên, có thể do sinh viên
muốn có mức lương cao hơn sau khi ra trường, muốn có thêm hiểu biết từ các
ngành khác để có thể có cơ hội việc làm nhiều hơn. Bên cạnh đó, có thể do
trong thời gian sinh viên học tập, gia đình đã có những định hướng khác dành


15

cho sinh viên và lý do khách quan nữa đó là do xu hướng lựa chọn nghề
nghiệp dựa theo các ngành đang ‘’hot’’ của nền kinh tế như: Tài chính – Ngân
hàng, Kế toán, Kiểm toán, Marketing,… tác động tới lựa chọn của sinh viên.
Còn 10,8 % các bạn sinh viên năm cuối mà vẫn chưa có định hướng gì cho
tương lai thì cần phải xem xét lại mục tiêu học tập và nghề nghiệp của mình
để có định hướng thật đúng đắn cho cơng việc sau này của mình.

Biểu đồ 2: Dự định sau khi ra trường của sinh viên khóa 51, khoa QTKD
Thứ ba, về lĩnh vực làm việc trong tương lai, trong số 107 bạn có dự
định tìm việc làm hoặc vừa học vừa làm sau khi ra trường thì chỉ có duy nhất
1 bạn dự định làm trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, chiếm tỷ lệ 0,9 %
tổng số sinh viên, có 5 bạn có dự định làm trong lĩnh vực giáo dục, nghiên
cứu, tư vấn (4,7%), 4 bạn có dự định ở lĩnh vực khác (3,7%) cịn 96 bạn cịn
lại thì lựa chọn lĩnh vực công nghiệp, xây dựng cơ bản và lĩnh vực thương
mại dịch vụ. Trong đó, có tới 67 bạn chọn lĩnh vực thương mại dịch vụ,
chiếm 62,6 % trên tổng số bạn dự định tìm việc. Điều này cũng phù hợp với

xu thế phát triển của nền kinh tế hiện nay. Cơ cấu kinh tế đang có xu hướng
dịch chuyển từ khu vực nông, lâm, ngư nghiệp sang công nghiệp xây dựng và
dịch vụ. Ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đang tăng với tỷ trọng ngày
càng cao đồng nghĩa với nhu cầu nhân lực cho hai lĩnh vực này cũng tăng lên.
Nắm bắt được xu hướng này, các bạn sinh viên đã có lựa chọn lĩnh vực làm
việc cho mình là hai lĩnh vực trên. Đồng thời, hai ngành này cũng phù hợp
với các chuyên ngành mà khoa Quản trị kinh doanh đang giảng dạy.


16

Biểu đồ 3: Lĩnh vực công việc mà sinh viên khóa 51 khoa QTKD mong
muốn sau khi ra trường.
Khi được khảo sát về loại hình doanh nghiệp mà sinh viên mong
muốn được làm việc thì đa số các bạn sinh viên đều có xu hướng lựa chọn các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân và doanh
nghiệp Nhà nước với tỷ lệ lần lượt là: 54,2 %, 30,8% và 12,1 %. Xu hướng
lựa chọn này đều xuất phát từ sự khác nhau của mức lương, chế độ đãi ngộ và
môi trường làm việc trong mỗi loại hình doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ngun
nhân sâu xa hơn có thể là do Việt Nam gia nhập WTO – Tổ chức kinh tế thế
giới, Việt Nam mở rộng kinh doanh, thương mại ra phạm vi quốc tế, các
doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài đầu tư vào Việt Nam ngày càng nhiều, mức
lương và chế độ đãi ngộ ngày càng được nâng cao nên rất thu hút được lao
động có trình độ như sinh viên ứng tuyển vào.


17

Biểu đồ 4: Loại hình doanh nghiệp mà sinh viên khóa 51, khoa QTKD
lựa chọn làm việc sau khi ra trường


Về các yếu tố thuộc về công việc như : mức lương khởi điểm, địa
điểm làm việc, vị trí cơng việc,… mà sinh viên lựa chọn sẽ được thể hiện ở 3
biểu dưới đây:

Biểu đồ 5: Vị trí cơng việc mà sinh viên khóa 51 khoa Quản trị kinh doanh
mong muốn sau 5 năm làm việc


18

Biểu đồ 6: Mức lương khởi điểm mà sinh viên khóa 51 khoa
Quản trị kinh doanh mong muốn sau khi ra trường.

Biểu đồ 7: Địa điểm làm việc mong muốn của sinh viên khóa 51 khoa
Quản trị kinh doanh
Đầu tiên, về vị trí cơng việc mong muốn sau 5 năm làm việc, chiếm
đa số trong số các lựa chọn đó là các vị trí của quản trị viên cấp cao và quản
trị viên cấp trung ( 33,6 % và 51,4 %), số cịn lại là các vị trí quản trị viên cấp
cơ sở và vị trí khác. Bất kì ai khi đi làm cũng đều mong muốn được làm đúng
với chuyên ngành mà mình đã học ở đại học. Một khi được làm việc đúng


19

chun mơn, đúng sở trường thì chúng ta mới có thể phát huy được hết khả
năng của mình và đạt được kết quả cao nhất trong công việc. Sinh viên học
ngành Quản trị kinh doanh cũng vậy, một khi đã lựa chọn học Quản trị kinh
doanh các bạn phần nào cũng đã có ý định được làm một quản trị viên cấp
cao, là người điều hành doanh nghiệp, làm chủ doanh nghiệp của mình. Xu

hướng này cũng thể hiện rõ mục tiêu nghề nghiệp của sinh viên khoa Quản trị
kinh doanh đó là muốn được làm cơng việc phù hợp với ngành học của mình
và được phát huy hết sở trường của mình trong kinh doanh.
Thứ hai, về mức lương khởi điểm, kết quả điều tra cho thấy rằng, có
tới 77,5 % số bạn được hỏi trả lời rằng mức lương khởi điểm họ mong muốn
nằm trong khoảng 5 đến 10 triệu đồng/tháng. Mức lương trên 10 triệu đồng
chỉ chiếm 17,8 % và chỉ có 4,7 % các bạn mong muốn mức lương dưới 5 triệu
đồng/tháng. Mức lương từ 5 tới 10 triệu đồng/tháng được hầu hết các bạn sinh
viên lựa chọn, điều này cũng phù hợp với thực tế hiện nay khi mà sinh viên
vừa tốt nghiệp, chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực mình mong muốn
làm việc nên khơng thể địi hỏi một mức lương q cao đối với doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, để định ra được mức lương khởi điểm mà mình mong muốn,
sinh viên khơng chỉ xem xét dựa trên các yêu cầu công việc từ phía doanh
nghiệp mà cịn phải xem xét cả khả năng và năng lực của bản thân xem mình
có đáp ứng được u cầu đó hay khơng, đó là giải pháp an tồn nhất, từ đó
mới xác định được mức lương khởi điểm cho phù hợp để tránh tình trạng đòi
hỏi quá cao rồi dẫn tới hiện tượng thất nghiệp.
Thứ ba, về địa điểm làm việc, địa điểm làm việc được các bạn lựa
chọn nhiều nhất là các thành phố lớn như thủ đơ Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh,… với tỷ lệ 71 %. Tỷ lệ còn lại là các bạn lựa chọn làm việc ở quê
hương các bạn (20,6%), ở tỉnh, huyện khác (1,9%), 6,5% các bạn không chú ý
tới địa điểm làm việc ở đâu, chỉ cần cơng việc ổn định và khơng có bạn sinh
viên nào lựa chọn làm việc ở nước ngoài. Sở dĩ hầu hết các bạn sinh viên lựa
chọn các thành phố lớn để làm việc là vì rất nhiều lý do. Thứ nhất, ở thành
phố lớn, nền kinh tế phát triển hơn, nhu cầu về việc làm nhiều hơn, hứa hẹn
có nhiều mức lương cao hơn và khả năng thăng tiến trong công việc là rất lớn.


20


Điều này rất có lợi cho các bạn sinh viên mới ra trường khi bắt tay vào việc
tìm kiếm việc làm, giúp sinh viên tìm việc được dễ dàng hơn và giảm thiểu
được rủi ro về thất nghiệp. Bên cạnh đó, ở các thành phố lớn, chất lượng cuộc
sống ln luôn được nâng cao và dịch vụ cho vui chơi giải trí ngày càng
được cải thiện, vậy thì khơng có lý do gì để sinh viên khơng chọn nơi đây để
ổn định cuộc sống và cơng việc của mình. Chính vì thế, đây là địa điểm thuận
lợi để sinh viên mới ra trường tìm kiếm việc làm và phát triển con đường sự
nghiệp sau này của mình.
Cuối cùng, một yếu tố không kém phần quan trọng trong quyết định lựa
chọn việc làm của sinh viên đó là lý do lựa chọn việc làm đó:

Biểu đồ 8: Lý do lựa chọn việc làm của sinh viên khóa 51, khoa
Quản trị kinh doanh
Qua biểu đồ, ta thấy rằng ba lý do được các bạn lựa chọn nhiều nhất đó
là đam mê, sở thích của bản thân, phù hợp với năng lực của bản thân và điều
kiện làm việc, chế độ đãi ngộ tốt, nhanh chóng thăng tiến. Lý do lựa chọn
việc làm của hầu hết các bạn sinh viên đều dựa vào khả năng thực tế, vào sở
thích, đam mê của bản thân và vào điều kiện thuận lợi của công việc, điều này
cũng xuất phát từ khi các bạn lựa chọn ngành học trên đại học của mình. Để
làm việc đạt hiệu quả cao nhất thì trước hết chúng ta phải u thích cơng việc


21

đó, tiếp đó là cơng việc đó phù hợp với khả năng của bản thân thì mới có thể
phát huy được hết năng lực của mình và sinh viên mới có định hướng đúng
đắn cho con đường sự nghiệp sau này của mình. Hơn thế nữa, một mức lương
hấp dẫn, một chế độ đãi ngộ tốt cùng với cơ hội thăng tiến cao sẽ là động lực
lớn giúp sinh viên gắn bó với cơng việc mà mình đã chọn, đồng thời vẫn có
cơ hội phát triển bản thân hơn nữa và đảm bảo tốt hơn cho cuộc sống của

mình.
2.2.2. Ý kiến của sinh viên về thực trạng việc làm của sinh viên sau
khi ra trường hiện nay
Khi được hỏi về vấn đề kiến thức trong trường đại học đáp ứng
được bao nhiêu % cho công việc thực tế sau này của sinh viên thì có tới 78
bạn cho rằng nó chỉ đáp ứng được 15 – 30% cho công việc sau này, 60 bạn
cho rằng tỷ lệ này từ khoảng 30 đến 50 %, 29 bạn cho rằng nó chỉ chiếm 0 tới
15% và 19 bạn còn lại cho rằng kiến thức trong trường đại học đáp ứng được
trên 50 % công việc thực tế. Tỷ lệ cho rằng kiến thức đáp ứng từ 0 tới 30%
đã chiếm tới gần 60% số bạn được hỏi. Vậy nguyên nhân từ đâu? Xuất phát từ
thực tế hiện nay, theo đánh giá, các chương trình đào tạo của Việt Nam hiện
nay thường nhấn mạnh đào tạo kiến thức lý thuyết chứ chưa quan tâm đến các
kỹ năng thực hành. Hầu hết các sinh viên ra trường không thể bắt tay ngay
vào công việc mà luôn phải qua một thời gian đào tạo lại. Theo báo cáo của
VCCI cũng cho thấy có tới 56% số doanh nghiệp tham gia khảo sát cho rằng,
họ tin vào những kỹ năng mà họ đào tạo cho lao động sau khi được nhận hơn
là những kỹ năng mà lao động được đào tạo sẵn qua các cơ sở đào tạo. Sở dĩ
người sử dụng lao động dựa nhiều vào đào tạo sau tuyển dụng chủ yếu là vì tự
đào tạo sẽ đảm bảo lao động có những kỹ năng mà doanh nghiệp cần. Phần
lớn những người sử dụng lao động không đánh giá cao các kỹ năng được dạy
và cấp bằng trong hệ thống giáo dục đào tạo công lập và các cơ sở đào tạo
trong nước. Bên cạnh đó, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác để hồn
thành cơng việc của lao động Việt Nam quá yếu kém. Nhiều nhà quản lý nước
ngoài đã nhận xét rằng: "Lao động Việt Nam làm việc rất tốt khi tự mình giải
quyết cơng việc, nhưng nếu đặt họ trong một nhóm thì hiệu quả kém đi


22

nhiều". Chính điều này đã khiến cho nhiều doanh nghiệp không thể thành đạt

được, cho dù họ đã tập hợp được đội ngũ nhân cơng có đẳng cấp cao.
Nhận thức được điều này, các trường đại học hiện nay sẽ phải đặc biệt
chú trọng đầu tư vào việc nâng cao kỹ năng cho sinh viên để đáp ứng tốt hơn
nữa yêu cầu của các nhà tuyển dụng, tạo được chất lượng đầu ra tốt nhất để đáp
ứng sự phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời nắm rõ những điểm mạnh cần phát
huy và khắc phục những điểm yếu trong kỹ năng của sinh viên để từ đó bổ
sung và hồn thiện vai trị đào tạo nguồn nhân lực của nhà trường. Hơn thế
nữa, nhà trường cũng cần xem xét thực trạng hiệu quả của công việc giảng dạy
và chương trình đào tạo hiện tại của mình, từ đó, nâng cao được chất lượng
giảng dạy của mình cũng như giúp sinh viên đáp ứng được tốt hơn nhu cầu của
các doanh nghiệp, tránh tình trạng thất nghiệp và làm trái ngành, trái nghề.

Biểu đồ 9: Ý kiến của sinh viên về mức độ đáp ứng của kiến thức trên đại học
với công việc thực tế sau khi ra trường.
Khi được hỏi về các yếu tố mà doanh nghiệp/các nhà tuyển dụng
u cầu ngồi kiến thức chun mơn được học ở trường thì 100 bạn được
lựa chọn ngẫu nhiên trong số 186 phiếu điều tra có được câu trả lời dưới biểu
đồ sau: ( Sở dĩ chúng tôi chọn con số 100 khơng vì mục đích nào khác mà chỉ
nhằm giúp cho việc đơn giản trong tính tốn và phân tích).


23

Biểu đồ 10: Các yếu tố mà doanh nghiệp yêu cầu ngồi
kiến thức chun mơn
Trong đó:
A. Kinh nghiệm làm việc
B. Ngoại ngữ và Tin học
C.Các kỹ năng mềm
D.Khả năng thích ứng với môi trường làm việc

E.Tinh thần trách nhiệm với công việc cao
F. Đáp án khác (mối quan hệ thân quen, bản lĩnh và đam mê, sức khỏe,…)
Kết quả trên cho thấy, hầu hết các bạn sinh viên đều ưu tiên cho ba
phương án đầu tiên (kinh nghiệm làm việc, Ngoại ngữ và Tin học, các kỹ
năng mềm). Đây là những yếu tố mà các doanh nghiệp yêu cầu khi tuyển
dụng sinh viên vừa mới tốt nghiệp. Thực tế hiện nay cho thấy, hầu hết các
sinh viên sau khi ra trường và tìm kiếm việc làm đều khơng đáp ứng được yêu
cầu của các nhà tuyển dụng vì thiếu kinh nghiệm làm việc thực tế, trình độ
Ngoại ngữ và Tin học còn kém, và quan trọng nhất là các kĩ năng mềm như:
làm việc nhóm, giao tiếp, thuyết trình, đàm phán, lãnh đạo,… thì hầu như
khơng có. Trong thời đại hiện nay, khi nền kinh tế mở cửa và hội nhập với
nền kinh tế thế giới thì Ngoại ngữ là một yếu tố không thể thiếu với mỗi một


24

sinh viên nếu muốn có được cơng việc ổn định, thế nhưng hầu hết sinh viên
nói chung và sinh viên kinh tế nói riêng thì đó lại là một điểm yếu. Đó chính
là lý do dẫn tới hiện tượng thất nghiệp cũng như làm trái ngành, trái nghề hiện
nay ở sinh viên. Thực trạng này cần phải có biện pháp cụ thể và thiết thực để
giải quyết nếu khơng nó sẽ gây ra những tác động tiêu cực không chỉ với nền
kinh tế mà với cả sự phát triển của cả đất nước.
Cũng từ 100 bạn được điều tra ngẫu nhiên ở trên, chúng tôi đã hỏi về
việc doanh nghiệp ưu tiên những yếu tố nào nhất trong các yếu tố sau khi
tuyển dụng sinh viên: bằng tốt nghiệp và các loại bằng khác, kiến thức
chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm làm việc, Ngoại ngữ và Tin học, các
loại kỹ năng mềm, khả năng thích ứng với mơi trường và công việc bằng
thang đo thứ bậc, sau khi xử lý số liệu và tính tốn thì thứ tự các yếu tố được
sắp xếp lại như sau:
TỔNG ĐIỂM


XẾP THỨ TỰ

Bằng tốt nghiệp và các loại bằng khác

338

4

Kiến thức chuyên môn nghiệp vụ

275

6

Kinh nghiệm làm việc

327

5

Ngoại ngữ, tin học

358

3

Các kỹ năng mềm

375


2

Khả năng thích ứng với mơi trường và
cơng việc

451

1

Bảng 1: Ý kiến sinh viên về mức độ ưu tiên của các yếu tố khi tuyển dụng
của doanh nghiệp
Khả năng thích ứng với môi trường và công việc được ưu tiên nhiều
nhất, tiếp theo là các kỹ năng mềm cần thiết, Ngoại ngữ và Tin học. Bằng tốt
nghiệp và các loại bằng cấp khác xếp ở vị trí ưu tiên số 4, kinh nghiệm làm
việc xếp thứ 5 và vị trí cuối cùng là kiến thức chuyên môn nghiệp vụ. Đây là
ý kiến chủ quan từ phía sinh viên, các yếu tố như kỹ năng mềm, Ngoại ngữ và
Tin học đã được sinh viên coi trọng và ưu tiên nhất, tuy nhiên kinh nghiệm


×