Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận môn luật ngân hàng Pháp luật về hoạt động bao thanh toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.92 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
1
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam chúng ta đang từng bước thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao
hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển.
Trong đó, lĩnh vực tài chính ngân hàng ở nước ta đang từng bước cải tiến và phát
triển rõ rệt. Hiện nay, các ngân hàng nước ta đang phát triển rất nhanh với 3 xu hướng
sau: một là, phát triển các dịch vụ trên thị trường tài chính; hai là, phát triển dịch vụ ngân
hàng bán lẻ tiện ích và hiện đại, ba là, mở rộng các dịch vụ ngân hàng quốc tế.
Với xu thế này, sản phẩm Bao thanh toán được đưa vào thực hiện và đã có những
thành công bên cạnh khó khăn nhất định. Tại Việt Nam, nghiệp vụ bao thanh toán còn
khá mới mẻ nhưng với một thị trường tiềm năng và nhiều hứa hẹn, chắc chắn sản phẩm
bao thanh toán từng bước được cải thiện và trở thành một công cụ tài chính không thể
thiếu trong việc kinh doanh của các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp.
Việc xây dựng và đưa các sản phẩm vào thị trường không thể thiếu các quy trình
hướng dẫn. Quy trình, quy chế chính là cái khung, bộ xương của sản phẩm. Đối với bao
thanh toán cũng vậy, khi quy trình, quy chế chặt chẽ, hợp lý thì nghiệp vụ bao thanh toán
mới có thể được triển khai nhanh chóng, hiệu quả.
Với tầm quan trọng và sự phát triển của hoạt động Bao thanh toán trong nền kinh
tế, pháp luật nước ta đã có quy định điều chỉnh hoạt động này. Không những thế, nhiều
nỗ lực trong việc thống nhất chế định Bao thanh toán trên phạm vi quốc tế cũng đã được
tiến hành.
Tất cả những điều này sẽ được nhóm tôi chọn làm đề tài, nghiên cứu và hoàn
thành bài tiểu luận. Đó là đề tài: “Pháp luật về hoạt động bao thanh toán”.
2
Bài tiểu luận gồm 3 phần chính:
Phần 1: Bao thanh toán.
Phần 2: Khái niệm pháp luật về bao thanh toán.
Phần 3: Hợp đồng bao thanh toán.
Trong quá trình làm bài tiểu luận, chắc chắn nhóm chúng tôi không tránh khỏi


những thiếu sót, mong nhận được sự đóng góp ý kiến của cô và các bạn để bài tiểu luận
hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BTT Bao thanh toán
DN Doanh nghiệp
KH Khách hàng
NH Ngân hàng
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
QĐ Quyết định
QPPL Quy phạm pháp luật
TCTD Tổ chức tín dụng
UCC Luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ
4
NỘI DUNG
1. Khái niệm dịch vụ bao thanh toán.
1.1. Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ bao thanh toán.
1.1.1. Khái niệm.
Theo các từ điển khoa học, thuật ngữ bao thanh toán (factoring) thường được mô
tả là việc chuyển nhượng các khoản phải thu thương mại của người bán cho tổ chức bao
thanh toán (factor). Khi thực hiện các giao dịch thương mại làm phát sinh các khoản phải
thu (ví dụ như các khoản tiền bán hàng chưa đến hạn thanh toán), người bán có thể cải
thiện trạng thái ngân quỹ của mình bằng việc đem nhượng bán các khoản phải thu để
nhận ngay một khoản tiền mặt đã trừ phần chiết khấu từ tổ chức bao thanh toán.
Tổ chức bao thanh toán sau khi nhận các khoản phải thu từ người bán sẽ thực hiện
việc thu nợ đối với người mua. Hoạt động bao thanh toán xét về mặt nội dung là sự mua
bán quyền đòi nợ. Hoạt động bao thanh toán không làm ảnh hưởng đến nội dung giao
dịch thương mại của người bán và người mua, ngoại trừ quyền đòi nợ và tiếp nhận sự
thanh toán được chuyển sang cho tổ chức bao thanh toán.

Quyền đòi nợ của tổ chức bao thanh toán được xem là tuyệt đối, không bị ràng
buộc bởi bất cứ điều kiện nào liên quan đến khả năng thanh toán của người mua cũng
như quá trình thực hiện giao dịch thương mại giữa người bán và người mua. Đối tượng
của quyền đòi nợ phải là toàn bộ giá trị khoản phải thu, việc chỉ chuyển nhượng một phần
khoản phải thu thường không được chấp nhận.
Xét về mặt hình thức, hoạt động bao thanh toán gắn liền với việc chuyển giao cho
tổ chức bao thanh toán các chứng từ thương mại liên quan đến giao dịch giữa người mua
và người bán. Các chứng từ này là căn cứ để xác định sự tồn tại pháp lí và giá trị kinh tế
của các khoản phải thu. Thông thường, các loại chứng từ này bao gồm: chứng từ hàng
hóa (ví dụ: hóa đơn bán hàng, hóa đơn vận tải), chứng từ tài chính (ví dụ: hối phiếu hoặc
lệnh phiếu) và có thể cả các sổ sách kế toán có liên quan. Cũng cần lưu ý rằng bao thanh
toán là quan hệ giữa người bán và tổ chức bao thanh toán nhưng lại liên quan mật thiết
tới người mua nên trong thực tiễn thương mại và pháp lí, thủ tục và trình tự thông báo về
nội dung bao thanh toán cho người mua luôn được ghi nhận một cách rõ ràng và chặt chẽ.
Công ước của UNIDROIT về bao thanh toán quốc tế năm 1988 (Công ước Ottawa
năm 1988) đã mô tả hoạt động bao thanh toán như sau:
• Bên bán hàng hóa sẽ chuyển giao cho bên bao thanh toán các khoản phải thu
phát sinh từ các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa bên bán và bên mua (con
nợ), trừ các hợp đồng nhằm mục đích tiêu dùng cho cá nhân, hộ gia đình.
5
• Bên bao thanh toán sẽ thực hiện ít nhất hai trong số các nghiệp vụ sau: tài trợ
tài chính cho người bán hàng (như cho vay hoặc thanh toán trước cho các
khoản phải thu); quản lí các giấy tờ, sổ sách kế toán liên quan đến khoản phải
thu, thực hiện việc thu nợ từ người mua; tiến hành các biện pháp phù hợp để
giải quyết các hành vi gian lận của người mua.
• Bên mua hàng phải được thông báo chính thức bằng văn bản về việc khoản
phải thu đã được bao thanh toán
Hoạt động bao thanh toán mặc dù đã manh nha từ rất lâu trong lịch sử của nền sản
xuất hàng hóa và được pháp luật đề cập nhưng sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động này
cũng như những thành tựu thể chế hóa nó về mặt pháp lí mới chỉ diễn ra trong vài thập kỉ

gần đây. Các quy định về mua bán nợ có thể tìm thấy trong bộ luật Hammurapi nổi tiếng
và những người đầu tiên thực hiện việc trao đổi các giấy nợ với mức giá thấp hơn giá trị
bề mặt của nó chính là các thương nhân La Mã từ bốn ngàn năm trước đây.
Công cuộc khai thác châu Mỹ và các cuộc cách mạng công nghiệp là những cột
mốc cận đại ghi nhận những ưu điểm nổi bật của việc tài trợ thương mại thông qua việc
ứng tiền trước cho các khoản phải thu chưa đến hạn thanh toán. Nước Mỹ, nơi phát minh
ra rất nhiều công cụ tài chính, từ thế kỉ XIX, các hoạt động bao thanh toán đã diễn ra khá
sôi động trong ngành dệt may. Tuy nhiên, hoạt động bao thanh toán chỉ trở thành một
loại hình dịch vụ tài chính phổ biến ở nhiều quốc gia từ những năm 1960 và cũng trong
khoảng thời gian này, Hiệp hội bao thanh toán phát triển khá nhanh. Thống kê của Hiệp
hội bao thanh toán quốc tế cho thấy vào năm 2004, doanh số hoạt động bao thanh toán
trên thế giới là khoảng 860 tỉ USD. Đồng thời với quá trình này, nhiều nỗ lực nhằm tập
hợp và thống nhất các nguyên tắc, tập quán, luật lệ chung cho hoạt động bao thanh toán
đã được thực hiện.
Công ước Ottawa nêu trên, Luật mẫu của Uncitral về chuyển nhượng các khoản
phải thu, các quy định chung của Hiệp hội bao thanh toán quốc tế ngày càng có ảnh
hưởng sâu rộng đến mọi khía cạnh pháp lí của quan hệ bao thanh toán. Nguyên nhân cơ
bản cho sự phát triển mạnh mẽ này là sự gia tăng các giao dịch kinh tế và xu hướng đa
dạng hóa hoạt động tài chính diễn ra trong thời gian qua. Chính nó đã tạo ra môi trường
và điều kiện để thúc đẩy quá trình ứng dụng những ích lợi của bao thanh toán trong hoạt
động kinh tế. Các lợi ích chính của bao thanh toán có thể tóm tắt là: thứ nhất, nó giúp cho
người bán cải thiện được tính thanh khoản cho tài sản của mình và hạn chế những rủi ro,
tiết kiệm thời gian cho việc thu nợ từ người mua; thứ hai, các tổ chức tài chính, tín dụng
có khả năng đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ của mình.
6
Hiện nay ở Việt Nam, hoạt động bao thanh toán còn mới mẻ, có rất ít tổ chức tín
dụng ở Việt Nam triển khai nghiệp vụ này. Theo Quyết định của Thống đốc Ngân hàng
nhà nước Việt Nam số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004 ban hành quy chế hoạt
động bao thanh toán của tổ chức tín dụng, khái niệm về bao thanh toán được định nghĩa
chính thức như sau: Bao thanh toán là hính thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho

bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng
hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua, bán hàng
hóa.
Theo khoản 17 điều 4 luật các tổ chức tín dụng năm 2010, bao thanh toán là hình
thức cấp tín dụng cho bên bán hàng hoặc bên mua hàng thông qua việc mua lại có bảo
lưu quyền truy đòi các khoản phải thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc mua, bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Như vậy, bao thanh toán hiện nay được hiểu theo nghĩa rộng hơn, cấp tín dụng cho
cả bên bán hàng và bên mua hàng hóa, dịch vụ.
1.1.2. Đặc điểm
Như vậy, hoạt động bao thanh toán ở Việt Nam có một số đặc điểm sau đây:
 Thứ nhất, bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng ngắn hạn của tổ chức tín
dụng. Khi thực hiện quan hệ bao thanh toán, tổ chức tín dụng ứng trước cho
khách hàng của mình một khoản tiền nhất định thấp hơn giá trị thực tế của các
khoản phải thu. Phần chênh lệch này chính là phần phí và lãi tín dụng. Thông
thường chỉ những khoản phải thu có thời hạn không quá 180 ngày mới được
chấp nhận bao thanh toán. Từ đặc điểm này có thể rút ra hai nhận xét sau: một
là so với Công ước Ottawa năm 1988, hoạt động bao thanh toán ở Việt Nam
bắt buộc phải gắn với chức năng tài trợ tín dụng, các nghiệp vụ quản lí sổ sách,
quản lí thu nợ không được coi là chức năng độc lập trong bao thanh toán: hai là
với tính chất là nội dung của cấp tín dụng, tổ chức thực hiện hoạt động bao
thanh toán phải tuân thủ các điều kiện, thủ tục và các hạn chế để bảo đảm an
toàn được quy định trong Luật các tổ chức tín dụng.
 Thứ hai, hoạt động bao thanh toán dựa trên quan hệ về mua bán quyền tài sản
là quyền đòi nợ. Đây là dấu hiệu để phân biệt hoạt động bao thanh toán với các
hình thức cấp tín dụng khác. Do quyền đòi nợ là một loại tài sản được xác định
từ giao dịch thương mại cụ thể nên khi thực hiện hoạt động bao thanh toán, tổ
chức bao thanh toán phải tiến hành phân tích toàn diện và trực tiếp các giao
dịch làm phát sinh khoản phải thu, tình hình tài chính và hoạt động của cả bên
bán và bên mua hàng. Điều này khác với chiết khấu thương phiếu, do đặc tính

7
trừu tượng của thương phiếu, các bên chuyển nhượng thương phiếu không cần
thiết phải quan tâm tới khoản nợ ghi trên thương phiếu phát sinh từ giao dịch
kinh tế nào và về mặt pháp lí khoản nợ ghi trên thương phiếu cũng không phụ
thuộc vào hợp đồng mua bán. Do sự khác biệt này mà dẫn đến hệ quả là khi
thực hiện việc cấp tín dụng dưới hình thức bao thanh toán, bên bang hàng phải
chuyển giao toàn bộ chứng từ và các giấy tờ khác liên quan đến giao dịch mua,
bán để xác lập và chuyển quyền đòi nợ cho bên bao thanh toán.
1.2. Các phương thức thanh toán.
Trong thực tế, hoạt động bao thanh toán có thể thực hiện theo nhiều phương thức
khác nhau. Nếu căn cứ vào mối quan hệ giữa các bên của hợp đồng bao thanh toán với
bên mua hàng, hoạt động bao thanh toán có thể tiến hành theo hai hình thức, bao thanh
toán đóng và bao thanh toán mở. Trong bao thanh toán đóng, tổ chức bao thanh toán chỉ
cấp tín dụng cho người bán hàng còn người bán vẫn chịu trách nhiệm thu nợ từ người
mua cho tổ chức bao thanh toán. Ngược lại, trong bao thanh toán mở, tổ chức bao thanh
toán sẽ thực hiện trách nhiệm thu nợ từ phía người mua. Nếu căn cứ vào vị trí của tổ chức
bao thanh toán trong quan hệ tố tụng, học thuyết của hệ thống common law (hệ pháp luật
Anh – Mỹ) còn chia bao thanh toán thành hai dạng: tổ chức bao thanh toán có thể độc lập
tiến hành việc kiện người mua hàng và người bán hàng hoặc tổ chức bao thanh toán chỉ
có thể kiện với tư cách đồng nguyên đơn.
Pháp luật hiện hành của Việt Nam ghi nhận những phương thức sau đây:
• Theo Điều 12 Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNH bao thanh toán có quyền truy
đòi và bao thanh toán không có quyền truy đòi. Trong bao thanh toán có quyền
truy đòi, tổ chức bao thanh toán có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên
bán hàng khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán
khoản phải thu. Ngược lại, trong bao thanh toán không có quyền truy đòi, tổ
chức bao thanh toán phải gánh chịu mọi rủi ro khi bên mua hàng không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
• Bao thanh toán theo hạn mức và bao thanh toán từng lần. Trong bao thanh toán
theo hạn mức, các bên sẽ thỏa thuận duy trì một hạn mức tín dụng để thực hiện

bao thanh toán trong một khoảng thời gian nhất định. Trong thời gian đó,
nghiệp vụ bao thanh toán được tự động thực hiện mà không cần thiết phải kí
kết các hợp đồng bao thanh toán theo từng thương vụ. Thực chất, tổ chức bao
thanh toán đã thực hiện việc quản lí toàn diện các khoản phải thu của khách
hàng. Ngược lại, trong bao thanh toán từng lần, các bên sẽ thực hiện các thủ
tục và kí hợp đồng bao thanh toán đối với các khoản phải thu theo từng lần
phát sinh.
8
• Bao thanh toán xuất khẩu và bao thanh toán trong nước. Bao thanh toán trong
nước là việc bao thanh toán dựa trên hợp đồng mua bán mà các bên mua hàng
và bán hàng là người cư trú; còn bao thanh toán xuất khẩu là dựa trên hợp đồng
xuất nhập khẩu.
2. Pháp luật về hoạt động bao thanh toán
2.1. Khái niệm pháp luật về bao thanh toán
2.1.1. Khái niệm
Pháp luật về bao thanh toán là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức tín dụng cung ứng tín dụng cho bên bán
hàng hóa thông qua việc mua lại các khoản phải thu thuộc quyền đòi nợ của bên bán
hàng đối với bên mua hàng.
Vai trò của pháp luật đối với hoạt động bao thanh toán là rất rõ ràng. Bởi vì, trong
hoạt động bao thanh toán phát sinh rất nhiều mối quan hệ pháp lí giữa các bên hợp đồng
và với bên thứ ba cũng như ẩn chứa nhiều rủi ro. Điều đó thể hiện ở chỗ việc chuyển
nhượng các khoản phải thu không chỉ liên quan đến quyền và nghĩa vụ giữa tổ chức bao
thanh toán với bên bán hàng mà còn ảnh hưởng đến nghĩa vụ thanh toán của người mua.
Bên cạnh đó, mức độ và tính chất rủi ro trong hoạt động bao thanh toán khá phức tạp. Tổ
chức bao thanh toán không chỉ quan tâm tới các rủi ro thuộc về người bán (ví dụ: không
thực hiện nghĩa vụ giao hàng, giấy tờ chứng từ về khoản phải thu không hoàn hảo) mà
còn phải xem xét tới các rủi ro về khả năng thanh toán của người mua (ví dụ: phá sản, có
hành vi lừa đảo, gian lận).
Như vậy, điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ bao thanh toán là rất cần thiết. Tùy

thuộc vào các điều kiện về môi trường pháp lí, kinh tế, xã hội cũng như thực tiễn của hoạt
động bao thanh toán, các quy định pháp luật về bao thanh toán của các quốc gia cũng
được thể hiện khá đa dạng về phạm vi, đối tượng và mức độ điều chỉnh. Khái quát lại, có
thể nhận thấy cấu trúc phổ biến của pháp luật về bao thanh toán có một số khía cạnh sau:
Về mặt nội dung, pháp luật về bao thanh toán thường được thiết kế để giải quyết
các vấn đề liên quan đến khoản phải thu và quá trình chuyển nhượng chúng, cụ thể:
 Các quy định thiết yếu phải có đó là các quy định về tính chất pháp lí của các
khoản phải thu và những giới hạn cho sự chuyển nhượng chúng. Chẳng hạn,
theo pháp luật về chuyển nhượng các khoản phải thu của hệ thông common
law, có ít nhất 3 giới hạn cần phải giải quyết để xem xét liệu một khoản phải
thu có thể được chuyển nhượng cho tổ chức bao thanh toán hay không? Một là
việc chuyển nhượng có cần được sự ưng thuận đó, bên bán hàng có thể yêu cầu
tòa án tuyên cho mình quyền chuyển nhượng hay không? Hai là việc chuyển
9
nhượng quyền nhận khoản phải thu gắn với việc thực hiện nghĩa vụ tương ứng
như thế nào? Ba là các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng có mục đích phục
vụ cá nhân có trở thành đối tượng được chuyển nhượng không?
 Các quy định về thủ tục và trách nhiệm phát sinh giữa các bên đóng vai trò
quan trọng đối với việc thực hiện quan hệ bao thanh toán. Mặc dù pháp luật
của các nước đưa ra nhiều phương án khác nhau nhưng nhìn chung đều có xu
hướng quy định thủ tục đơn giản cho việc thực hiện bao thanh toán. Chẳng
hạn, về trách nhiệm thông báo việc chuyển nhượng cho bên mua hàng, luật hợp
đồng năm 1999 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho phép việc chuyển
nhượng các quyền hợp đồng được độc lập, không nhất thiết phải có sự chấp
thuận của người mua. Tương tự, Luật số 52/91 của Cộng hòa Italy cho phép
việc thông báo có thể chỉ cần đăng trên Gazzetta Ufficinlc – dạng ấn phẩm
chính thức của Nhà nước thay vì phải thực hiện thông báo trực tiếp cho người
mua theo Điều 2160 Bộ dân luật.
Về cấu trúc hình thức của pháp luật về bao thanh toán, theo nghiên cứu của Công
ty tài chính quốc tế (IFC), phần lớn các nước trên thế giới không thiết kế văn bản quy

phạm pháp luật điều chỉnh riêng và trực tiếp quan hệ bao thanh toán. Bộ phận pháp luật
quy định về bao thanh toán được tập hợp từ các quy định trong luật về hợp đồng, luật phá
sản, luật thương mại – dân sự. Ví dụ: các nội dung về dạng giao dịch bảo đảm tại điều 9
Luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ (UCC) sẽ được áp dụng cho các quan hệ bao thanh
toán. Tuy nhiên, xu hướng cơ bản này không loại trừ việc một số quốc gia, nhất là các
nước có nền kinh tế chuyển đổi và hệ thống pháp luật còn đang trong quá trình xây dựng,
hoàn thiện, ban hành những quy định riêng áp dụng cho bao thanh toán.
Sau gần hai mươi năm vận hành cơ chế kinh tế thị trường, pháp luật về bao thanh
toán ở Việt Nam mới đề cập hoạt động bao thanh toán.
 Về mặt nội dung, pháp luật hiện hành về bao thanh toán của Việt Nam đề cập
hai nhóm quan hệ: nhóm quan hệ về quản lí nhà nước đối với hoạt động bao
thanh toán và nhóm quan hệ kinh doanh bao thanh toán của tổ chức tín dụng
với khách hàng. Nhiều nội dung quy định trong nhóm thứ hai khá gần gũi với
Công ước Ottawa năm 1988.
 Về mặt hình thức, các quy định về bao thanh toán được tập trung vào văn bản
quy phạm pháp luật là Quyết định của Thống đốc Ngân hàng nhà nước số
1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/9/2004 ban hành Quy chế hoạt động bao thanh
toán của các tổ chức tín dụng.
10
2.1.2. Nguyên tắc thực hiện bao thanh toán
Theo điều 3 Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN, hoạt động bao thanh toán phải
đảm bảo các nguyên tắc sau:
• Đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng được thực hiện bao
thanh toán và phù hợp với qui định của pháp luật Việt Nam;
• Đảm bảo các quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia vào
hợp đồng bao thanh toán và các bên có liên quan đến khoản phải thu;
2.2. Chủ thể quan hệ bao thanh toán
2.2.1. Bên bao thanh toán
Bên bao thanh toán là tổ chức tín dụng được cấp phép để tiến hành cấp tín dụng
cho khách hàng của mình dưới hình thức mua lại các khoản phải thu thương mại.

Pháp luật hiện hành quy định về bên bao thanh toán như sau:
 Thứ nhất, loại hình tổ chức tín dụng được quyền thực hiện hoạt động bao thanh
toán :
 Ngân hàng thương mại nhà nước
 Ngân hàng thương mại cổ phần
 Ngân hàng liên doanh
 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài
 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
 Công ty tài chính
Các tổ chức trên mới được quyền thực hiện hành vi bao thanh toán. Trên thế giới,
do không bị hạn chế bởi quan niệm bao thanh toán là cấp tín dụng nên hình thức pháp lí
của bên bao thanh toán rất đa dạng. Thực tế, bên bao thanh toán có thể được tổ chức như
là một bộ phận trong ngân hàng hoặc doanh nghiệp độc lập chỉ hoạt động trong lĩnh vực
bao thanh toán hoặc cho phép các tổ chức tài chính có thể thực hiện kết hợp hoạt động
bao thanh toán với các sản phẩm tài chính khác như cho thuê tài chính.
 Thứ hai, bên bao thanh toán phải được ngân hàng nhà nước Việt Nam cho
phép thực hiện hoạt động bao thanh toán. Về bản chất pháp lí, nghiệp vụ bao
thanh toán là nghiệp vụ kinh doanh có điều kiện.
Các điều kiện mà tổ chức bao thanh toán cần phải đáp ứng được bao gồm:
11
 Điều kiện về thị trường được thể hiện bởi việc xác định nhu cầu về hoạt động
bao thanh toán;
 Điều kiện về hiệu quả tín dụng thể hiện: tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tại thời
điểm cuối từng tháng của ba tháng gần nhất dưới 5% theo khoản 3 điều Quyết
định 30/2008/QĐ-NHNN
 Điều kiện về tuân thủ pháp luật thể hiện ở việc không vi phạm các quy định về
an toàn hoạt động ngân hàng, không có hành vi vi phạm trong lĩnh vực tài
chính ngân hàng theo điểm c khoản 1 điều 7 Quyết định 1096/2004/QĐ-
NHNN.
 Điều kiện về ngoại hối trong trường hợp tiến hành hoạt động bao thanh toán

xuất nhập khẩu theo khoản 2 điều 7 Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN
Trong pháp luật về bao thanh toán của nhiều nước, vấn đề điều kiện gia nhập thị
trường bao thanh toán và thủ tục xin phép không được đặt ra. Các tổ chức muốn hoạt
động bao thanh toán chỉ cần làm thủ tục thông báo cho cơ quan có thẩm quyền là đủ.
Ví dụ, ở Hoa Kỳ và Canada, tổ chức bao thanh toán là ngân hàng hoặc do ngân
hàng thành lập chỉ phải làm thủ tục thông báo cho Cục dữ trữ liên bang và Bộ tài chính
liên Bang.
 Thứ ba, bên bao thanh toán phải tuân thủ các nguyên tắc để đảm bảo an toàn
hoạt động cấp tín dụng dưới hình thức bao thanh toán.
 Về khía cạnh giới hạn hoạt động
Theo điều 20 Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN Quy định về các điều kiện an toàn
• Hoạt động bao thanh toán phải bảo đảm các quy định về an toàn tại Luật các
Tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước;
• Tổng số dư bao thanh toán cho một khách hàng không được vượt quá 15% vốn
tự có của đơn vị bao thanh toán. Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổng
số dư bao thanh toán cho một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có
của ngân hàng nước ngoài.
• Số dư các khoản phải thu mà đơn vị bao thanh toán nhập khẩu bảo lãnh thanh
toán cho 01 bên nhập khẩu phải nằm trong giới hạn tổng số dư bảo lãnh của tổ
chức tín dụng cho 01 khách hàng theo quy định tại Quy chế Bảo lãnh ngân
hàng.
• Trường hợp nhu cầu bao thanh toán của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự
có của đơn vị bao thanh toán thì các đơn vị bao thanh toán được thực hiện
đồng bao thanh toán cho khách hàng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
• Tổng số dư bao thanh toán không được vượt quá vốn tự có của đơn vị bao
thanh toán.
 Về khía cạnh bảo đảm
12
Theo điều 16 Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN Bảo đảm cho hoạt động bao thanh
toán

Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thoả thuận áp dụng hoặc không áp dụng
các biện pháp bảo đảm cho hoạt động bao thanh toán. Các hình thức bảo đảm bao gồm:
ký quỹ, cầm cố, thế chấp tài sản, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba và các biện pháp
bảo đảm khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, trong trường hợp nhu cầu bao thanh toán của khách hàng vượt quá các tỉ
lệ an toàn, tổ chức bao thanh toán có thể thực hiện việc cấp tín dụng bao thanh toán theo
phương thức đồng tài trợ.
Trình tự và thủ tục chấp thuận hoạt động bao thanh toán
Tổ chức tín dụng cổ phần gửi 02 bộ hồ sơ xin chấp thuận hoạt động bao thanh
toán cho Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh, thành phố nơi tổ chức tín dụng đặt trụ sở
chính.
Trong thời gian tối đa 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Ngân hàng Nhà nước
Chi nhánh tỉnh, thành phố xem xét, có ý kiến bằng văn bản về điều kiện, hồ sơ xin hoạt
động bao thanh toán theo quy định và gửi cho Ngân hàng Nhà nước (Vụ Các Ngân hàng
và tổ chức tín dụng phi ngân hàng) kèm theo 01 bộ hồ sơ của tổ chức tín dụng cổ phần.
Các tổ chức tín dụng (trừ tổ chức tín dụng cổ phần) gửi 01 bộ hồ sơ xin chấp thuận
hoạt động bao thanh toán cho Ngân hàng Nhà nước (Vụ Các Ngân hàng và tổ chức tín
dụng phi ngân hàng).
Trong thời gian tối đa 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ của tổ chức tín
dụng (trừ tổ chức tín dụng cổ phần), 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ của tổ
chức tín dụng cổ phần do Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh, thành phố gửi tới, Ngân
hàng Nhà nước xem xét và có ý kiến bằng văn bản về việc chấp thuận hay không chấp
thuận cho phép hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng có nhu cầu hoạt động
bao thanh toán. Trường hợp không chấp thuận, Ngân hàng Nhà nước có văn bản nêu rõ lý
do.
13
2.2.2. Bên được bao thanh toán
Bên được bao thanh toán là bên bán hàng có các khoản phải thu phát sinh và đã
được thỏa thuận theo hợp đồng mua, bán hàng hóa với bên mua.
Pháp luật hiện hành quy định về bên được bao thanh toán như sau:

 Thứ nhất, về tư cách pháp lí của bên được bao thanh toán, chỉ có các tổ chức
kinh tế Việt nam và tổ chức kinh tế nước ngoài cung ứng hàng hóa và được thụ
hưởng các khoản phải thu mới có thể trở thành bên được bao thanh toán. Ý
nghĩa của quy định này là nhằm xác lập tính chất thương mại của các khoản
phải thu là đối tượng của hoạt động bao thanh toán. Bên cạnh đó, tùy thuộc vào
hình thức của bao thanh toán, tư cách pháp lí của bên được bao thanh toán
cùng xác định gắn với các tiêu chí pháp lí nhất định. Ví dụ: trong bao thanh
toán trong nước, tổ chức kinh tế được bao thanh toán được xác định gắn với
tiêu chí là người cư trú theo quy định về quản lý ngoại hối.
 Thứ hai, về quyền sở hữu và quyền chuyển nhượng các khoản phải thu của bên
được bao thanh toán, pháp luật hiện hành không có quy định trực tiếp nào đề
cập vấn đề này, tuy nhiên, căn cứ vào quy định về khái niệm bao thanh toán và
quy định về quyền, nghĩa vụ của bên được bao thanh toán có thể rút ra một số
khía cạnh pháp lý sau: một là bên được bao thanh toán phải là bên bán hàng
trong hợp đồng mua, bán hàng hóa; hai là bên được bao thanh toán phải là chủ
sở hữu hợp pháp của các khoản phải thu và được quyền chuyển nhượng các
khoản phải thu này, không bị giới hạn bởi hợp đồng mua, bán hàng hóa cũng
như bởi pháp luật; ba là bên được bao thanh toán chưa chuyển nhượng các
khoản phải thu này cho bất kỳ ai trước đó.
2.3. Đối tượng của quan hệ bao thanh toán
Dưới góc độ pháp lí, đối tượng của quan hệ bao thanh toán là các khoản phải thu
thương mại. Khoản phải thu được xác định là khoản tiền bên bán hàng được phép thu từ
bên mua hàng theo hợp đồng mua, bán nhưng người mua chưa đến hạn phải thực hiện
nghĩa vụ thanh toán. Theo công ước Ottawa năm 1988, các khoản phải thu từ hợp đồng
mua, bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ trừ các hợp đồng có tính chất tiêu dùng cá nhân, gia
đình thì đều trở thành đối tượng của hoạt động bao thanh toán.
Theo khoản 10 điều 4 Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN, khoản phải thu: là khoản
tiền bên bán hàng phải thu từ bên mua hàng theo hợp đồng mua, bán hàng và được điều
chỉnh theo các nội dung sau đây:
14

 Về tính chất thương mại của các khoản phải thu,
Theo pháp luật hiện hành có phạm vi hẹp. Các khoản phải thu phát sinh từ các
hoạt động thương mại như cung ứng dịch vụ cho thuê tài sản sẽ không trở thành đối
tượng được bao thanh toán. Các khoản phải thu được bao thanh toán phải phát sinh từ
quan hệ mua bán hàng hóa và đã được các bên thỏa thuận trong hợp đồng mua bán. Do
đó, các khoản phải thu được xác định gắn liền với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa, trong đó nghĩa vụ giao hàng hóa và chuyển
quyền sở hữu hàng hóa của bên bán hàng cho bên mua có ý nghĩa quan trọng. Hệ quả là
khi vi phạm nghĩa vụ này, bên bán hàng sẽ phải gánh chịu trách nhiệm bồi hoàn các
khoản phải thu đã được bao thanh toán ngay cả trong trường hợp là bao thanh toán có
quyền truy đòi và tương tự, bên mua có khả năng từ chối thanh toán cho tổ chức bao
thanh toán.
 Về tính thời hạn của các khoản phải thu
Do mục đích của quan hệ bao thanh toán là hình thức tài trợ vốn lưu động cho bên
được bao thanh toán nên pháp luật quy định chỉ có các khoản phải thu có thời hạn thanh
toán còn lại không quá 180 ngày mới đủ điều kiện là đối tượng được bao thanh toán. Trên
thực tế, tổ chức bao thanh toán thường chỉ chấp nhận bao thanh toán cho các khoản phải
thu còn thời hạn trong vòng 90 ngày. Ngoài ra, các khoản phải thu còn thời hạn thanh
toán theo hợp đồng mua bán hàng cũng không thuộc đối tượng được bao thanh toán.
 Về tính hợp pháp của các khoản phải thu
Các khoản phải thu phải phát sinh từ những giao dịch mua, bán hàng hóa hợp
pháp. Đặc tính này bảo đảm rằng việc chuyển nhượng các khoản phải thu là có căn cứ
pháp luật, hạn chế rủi ro liên quan đến quá trình thực hiện hợp đồng mua, bán và thanh
toán. Hệ quả là các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng hóa bị pháp luật
cấm hoặc từ các giao dịch, thỏa thuận bất hợp pháp hoặc giao dịch đang có tranh chấp sẽ
không thuộc đối tượng được bao thanh toán.
 Về tính độc lập của các khoản phải thu
Do quyền của bên bao thanh toán chỉ có thể được bảo đảm bởi nghĩa vụ thanh toán
của người mua hàng nên thông thường bên bao thanh toán được xác lập quyền tối cao
trong việc thu nhận các khoản phải thu. Để thực hiện mục đích này, pháp luật Việt Nam

quy định hai điều kiện: các khoản phải thu không thuộc đối tượng của bất kỳ giao dịch
nào khác và các khoản phải thu phải được xác định chắc chắn tại thời điểm hợp đồng bao
thanh toán được ký kết. Như vậy, các khoản phải thu đã được gán nợ, cầm cố, thế chấp
hoặc các khoản phải thu phát sinh từ các quan hệ bán hàng ký gửi sẽ không thuộc đối
tượng được bao thanh toán.
15
Giá trị các khoản phải thu: các khoản phải thu nên áp dụng bao thanh toán là các
khoản phải thu theo phương thức thanh toán trả chậm có thời hạn thanh toán dưới 180
ngày. Bên cạnh đó, theo điều 19 Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN có những khoản phải
thu không được thực hiện bao thanh toán như các khoản phải thu sau:
• Phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng hoá bị pháp luật cấm.
• Phát sinh từ các giao dịch, thoả thuận bất hợp pháp.
• Phát sinh từ các giao dịch, thoả thuận đang có tranh chấp.
• Phát sinh từ các hợp đồng bán hàng dưới hình thức ký gửi.
• Phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng có thời hạn thanh toán còn lại dài hơn
180 ngày.
• Các khoản phải thu đã được gán nợ hoặc cầm cố, thế chấp.
• Các khoản phải thu đã quá hạn thanh toán theo hợp đồng mua, bán hàng.
3. Hợp đồng bao thanh toán
3.1. Định nghĩa và các điều khoản chủ yếu
3.1.1. Định nghĩa
Nội dung quan hệ pháp luật về bao thanh toán là các quyền và nghĩa vụ các bên.
Dưới góc độ pháp lí, các quyền và nghĩa vụ này được thể hiện và thực hiện dựa trên hợp
đồng bao thanh toán được các bên giao kết phù hợp với quy định pháp luật.
Theo khoản 1 điều 21 Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN, Hợp đồng bao thanh
toán là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng được phép bao thanh toán và tổ
chức kinh tế là bên bán hàng về việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua lại
các khoản thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua
hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
Nội dung thỏa thuận trong hợp đồng bao thanh toán là sự phản ánh ý chí thống

nhất giữa các bên về nội dung của hợp đồng. hợp đồng được coi là sự thỏa thuận nhất trí
của các bên nếu khi tiến hành giao kết hợp đồng các bên tự do, tự nguyện, bình đẳng,
thiện chí và trung thực. Xét về tính chất thỏa thuận, hợp đồng bao thanh toán có đặc
điểm của loại hợp đồng song vụ vì các bên đều có nghĩa vụ với nhau và có sự tương ứng
giữa quyền và nghĩa vụ.
Sự thỏa thuận trong hợp đồng bao thanh toán bắt buộc phải được thể hiện bằng
văn bản. Các loại văn bản như đơn đề nghị thanh toán, biên bản chấp nhận thanh toán,
hợp đồng thanh toán, các phụ lục của hợp đồng là những căn cứ trực tiếp, mặc dù không
phải là duy nhất, để chứng minh cho sự tồn tại của thỏa thuận bao thanh toán. Trên thực
tế, các tổ chức bao thanh toán có xu hướng thiết kế sẵn các mẫu hợp đồng bao thanh toán
áp dụng cho phần lớn các giao dịch. Trong trường hợp này, quy định chung về hợp đồng
16
mẫu trong bộ luật dân sự cần được tham chiếu để đảm bảo quyền và nghĩa vụ các bên
hợp đồng.
3.1.2. Các điều khoản chủ yếu
Khi xây dựng hoặc phân tích hợp đồng bao thanh toán, bên cạnh việc xem xét các
điều khoản tùy nghi và thường lệ, cần quan tâm đặc biệt tới một số điều khoản chủ yếu
sau đây:
 Điều khoản về chủ thể hợp đồng: do chủ thể quan hệ bao thanh toán chỉ có thể
là tổ chức kinh tế nên hợp đồng bao thanh toán phải phản ánh được đầy đủ các
yếu tố để xác định được tư cách pháp lí của các bên (ví dụ: đăng kí kinh
doanh). Bên cạnh đó, phải xác định đúng thẩm quyền của người đại diện (đại
diện đương nhiên hay ủy quyền). Điều khoản về chủ thể một mặt đảm bảo hiệu
lực của hợp đồng bao thanh toán, mặc khác, nó là căn cứ để xác định cơ quan
tài phán và luật áp dụng.
 Điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên: điều khoản này là cơ sở để các
bên thực hiện hợp đồng. Nội dung của quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng bao thanh toán được pháp luật quy định khá chi tiết.
 Điều khoản về thủ tục chuyển giao các khoản phải thu: khi chuyển giao khoản
phải thu các bên phải thỏa thuận rõ ràng và cụ thể về các loại và phương thức

chuyển giao hợp đồng mua bán hàng hóa, chứng từ bán hàng và chứng từ khác
có liên quan đến việc giao hàng và việc yêu cầu thanh toán của bên bán hàng
đối với bên mua hàng. Tùy thuộc vào tính chất và phương thức giao dịch trong
hợp đồng mua, bán, các chứng từ mua bán rất đa dạng. Thông thường, chúng
bao gồm hóa đơn thương mại, hóa đơn vận chuyển, bảo hiểm hàng hóa, chứng
nhận xuất xứ, chứng nhận chất lượng. Thêm vào đó, trong hợp đồng cũng cần
phải có điều khoản về trách nhiệm thông báo cho các bên thứ ba có liên quan.
Theo điều 21 Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN hợp đồng bao thanh toán bao gồm
các nội dung chính:
• Tên, địa chỉ, điện thoại, Fax của các bên ký hợp đồng bao thanh toán;
• Giá trị các khoản phải thu được bao thanh toán, quyền và lợi ích liên quan đến
khoản phải thu theo hợp đồng mua, bán hàng;
• Lãi và phí bao thanh toán;
• Giá mua, bán khoản phải thu: được xác định trên cơ sở giá trị khoản phải thu
sau khi trừ đi lãi và phí bao thanh toán.
• Số tiền ứng trước và phương thức thanh toán;
• Thông báo về việc bao thanh toán cho bên mua hàng và các bên có liên quan;
17
• Hình thức bảo đảm cho đơn vị bao thanh toán truy đòi lại số tiền đã ứng trước,
giá trị tài sản làm bảo đảm;
• Thời hạn hiệu lực của hợp đồng bao thanh toán;
• Quyền và nghĩa vụ của các bên;
• Phương thức chuyển giao hợp đồng mua, bán hàng, chứng từ bán hàng, quyền,
lợi ích và các giấy tờ liên quan đến khoản phải thu được bao thanh toán;
• Quy định về việc truy đòi của đơn vị bao thanh toán;
• Giải quyết tranh chấp phát sinh;
• Các thoả thuận khác.
3.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên
3.2.1. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức bao thanh toán
Trong quan hệ bao thanh toán, tổ chức bao thanh toán thực hiện hai nhóm công việc:

 Tài trợ tín dụng ứng trước cho khách hàng
 Thu nợ từ người mua.
Để thực hiện các công việc này, tổ chức bao thanh toán có các quyền và nghĩa vụ
được pháp luật quy định. Tổ chức bao thanh toán có quyền đánh giá và lựa chọn các
khoản phải thu để bao thanh toán. Theo đó tổ chức bao thanh toán có quyền yêu cầu bên
bán hàng cung cấp các thông tin và tài liệu liên quan đến khoản phải thu, khả năng tài
chính và tình hình hoạt động của bên bán hàng, yêu cầu bên bán hàng chuyển giao toàn
bộ bản gốc hợp đồng mua bán, chứng từ bán hàng, quyền lợi ích và các giấy tờ có liên
quan đến khoản phải thu được bao thanh toán.
Tổ chức bao thanh toán có quyền thực hiện việc thu hồi nợ thông qua việc đòi nợ
đối với bên mua hàng theo giá trị khoản phải thu được bao thanh toán. Ngoài ra pháp luật
cũng cho phép tổ chức bao thanh toán được hưởng các quyền và lợi ích khác mà người
bán hàng được huởng theo quy định tại hợp đồng mua bán. Việc thu hồi nợ còn có thể
thực hiện thông qua việc tổ chức bao thanh toán có quyền chuyển nhượng quyền đòi nợ,
trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
Theo khoản 1 điều 23 Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN, về việc ban hành Quy
chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng đã quy định về quyền của đơn vị
bao thanh toán, khoản 8 điều 1 Quyết định 30/2008/QĐ-NHNN:
Quyền của đơn vị bao thanh toán:
• Được yêu cầu bên bán hàng cung cấp các thông tin và tài liệu liên quan đến
khoản phải thu, khả năng tài chính và tình hình hoạt động của bên bán hàng;
18
• Được yêu cầu bên bán hàng chuyển giao toàn bộ bảng kê kèm bản gốc hoặc
bản sao có chứng thực của cơ quan có thẩm quyền về hợp đồng mua bán hàng
hoá, cung ứng dịch vụ; chứng từ mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; quyền,
lợi ích và các giấy tờ liên quan đến khoản phải thu được bao thanh toán
• Có quyền đòi nợ đối với bên mua hàng theo giá trị khoản phải thu được bao
thanh toán và được hưởng các quyền và lợi ích khác mà người bán hàng được
hưởng theo quy định tại hợp đồng mua, bán hàng;
• Được chuyển quyền đòi nợ, trừ trường hợp các bên trong hợp đồng bao thanh

toán có thoả thuận không được chuyển giao quyền đòi nợ.
Nghĩa vụ cơ bản của tổ chức bao thanh toán là thanh toán cho bên được thanh toán
theo giá mua khoản phải thu, phối hợp với bên được bao thanh toán để thông báo cho bên
mua hàng, gánh chịu rủi ro tín dụng nếu bên mua hàng không có khả năng hoàn thành
nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu (trường hợp bao thanh toán không có quyền truy đòi)
Theo khoản 2 điều 23 Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN, quy định về nghĩa vụ
của đơn vị bao thanh toán, khoản 8 điều 1 Quyết định 30/2008/QĐ-NHNN
Nghĩa vụ của đơn vị bao thanh toán:
• Thanh toán cho bên bán hàng theo giá mua khoản phải thu đã được thoả thuận
trong hợp đồng bao thanh toán;
• Chịu toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ
thanh toán khoản phải thu trong trường hợp thực hiện bao thanh toán không có
quyền truy đòi.
• Thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng bao
thanh toán.
3.2.2. Quyền và nghĩa vụ của bên được bao thanh toán
Quyền và nghĩa vụ của bên bán hàng
Điều 24 Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN, khoản 8 điều 1 Quyết định
30/2008/QĐ-NHNN quy định như sau:
 Quyền của bên bán hàng: Nhận tiền thanh toán của đơn vị bao thanh toán theo
giá mua, bán khoản phải thu đã thoả thuận trong hợp đồng bao thanh toán.
 Nghĩa vụ của bên bán hàng:
• Cung cấp đầy đủ, chính xác và trung thực thông tin, tài liệu và báo cáo theo
yêu cầu của đơn vị bao thanh toán;
• Thông báo cho bên mua hàng và các bên có liên quan.
• Chịu rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh
toán các khoản phải thu trong trường hợp bao thanh toán có quyền truy đòi
19
• Chuyển giao đầy đủ và đúng hạn cho đơn vị bao thanh toán toàn bộ bảng kê
kèm bản gốc (hoặc bản sao có chứng thực của cơ quan có thẩm quyền) hợp

đồng mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; chứng từ mua bán hàng hoá, cung
ứng dịch vụ; quyền, lợi ích và các giấy tờ khác có liên quan đến khoản phải thu
được bao thanh toán theo thoả thuận trong hợp đồng bao thanh toán
• Thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng bao
thanh toán và hợp đồng mua, bán hàng.
Quyền và nghĩa vụ của bên mua hàng.
Điều 25 Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN quy định như sau:
 Quyền của bên mua hàng:
• Được thông báo về việc bao thanh toán;
• Không thay đổi về quyền lợi và nghĩa vụ quy định tại hợp đồng mua, bán hàng,
ngoại trừ bên nhận tiền thanh toán khoản phải thu. Việc điều chỉnh các điều
khoản quy định tại hợp đồng mua, bán hàng phải được bên mua hàng chấp
thuận bằng văn bản.
 Nghĩa vụ của bên mua hàng:
• Xác nhận bằng văn bản về việc đã nhận được thông báo và cam kết thanh toán
theo quy định; trường hợp từ chối thanh toán phải có lý do xác đáng và phải
thông báo bằng văn bản ngay cho bên bán hàng và đơn vị bao thanh toán.
• Thanh toán cho đơn vị bao thanh toán theo đúng các điều khoản quy định tại
hợp đồng mua, bán hàng.
• Không được đòi lại số tiền đã thanh toán cho đơn vị bao thanh toán trong
trường hợp bên bán hàng không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng, đầy đủ
các điều khoản quy định tại hợp đồng mua, bán hàng, trừ trường hợp đơn vị
bao thanh toán cố tình thanh toán khoản chi trả của bên mua hàng cho bên bán
hàng sau khi đã được bên mua hàng thông báo về việc bên bán hàng có hành vi
vi phạm hợp đồng mua, bán hàng.
3.3. Giao kết và thực hiện hợp đồng bao thanh toán
3.3.1. Giao kết hợp đồng bao thanh toán
Giao kết hợp đồng bao thanh toán là quá trình các bên bày tỏ ý chí và kí kết hợp
đồng. Quá trình giao kết hợp đồng thường được tiến hành theo trình tự:
 Bên bán hàng đề nghị đơn vị bao thanh toán thực hiện bao thanh toán các

khoản phải thu. Về bản chất pháp lí, hành vi này của bên bán hàng được xem là
đề nghị giao kết hợp đồng. Bởi vậy, bên bán hàng phải thể hiện rõ ý định và
20
các căn cứ của sự đề nghị, phải chịu sự ràng buộc về nội dung đề nghị của
mình. Thông thường, nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng bao thanh toán
phải thể hiện rõ ràng, đầy đủ và toàn diện các khía cạnh pháp lí và kinh tế của
các khoản phải thu cũng như tư cách pháp lí của các bên trong giao dịch hàng
hóa.
 Tổ chức bao thanh toán xem xét đề nghị bao thanh toán. Do bao thanh toán là
hoạt động cấp tín dụng ẩn chứa nhiều rủi ro nên tổ chức bao thanh toán phải
thực hiện phân tích các khoản phải thu, tình hình hoạt động và khả năng tài
chính của bên bán hàng và bên mua hàng.
 Tổ chức bao thanh toán và bên bán hàng thỏa thuận và kí kết hợp đồng bao
thanh toán. Đây là thời điểm các bên tiến hành đàm phán để soạn thảo mọi nội
dung của hợp đồng. Thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên cuối cùng kí
vào văn bản.
3.3.2. Thực hiện hợp đồng bao thanh toán
Cũng tương tự như việc thực hiện các loại hợp đồng khác, nguyên tắc cho quá
trình thực hiện hợp đồng bao thanh toán là thực hiện đúng, phù hợp các thòa thuận trên
cơ sở trung thực, hợp tác, bảo đảm lợi ích và tin cậy lẫn nhau, không xâm phạm đến lợi
ích của Nhà nước, cộng đồng và của người khác.
Dựa trên nguyên tắc chung này, quá trình thực hiện hợp đồng bao thanh toán gồm
những nội dung sau:
 Cả hai bên chủ thể hợp đồng phải cùng kí văn bản thông báo về hợp đồng bao
thanh toán cho bên mua hàng và bên liên quan. Nội dung của thông báo này tối
thiểu phải đề cập hai vấn đề: thông báo rõ ràng việc chuyển giao quyền đòi nợ
cho bên bao thanh toán và hướng dẫn bên mua hàng thủ tục thanh toán cho bên
bao thanh toán. Không giống như công ước Ottawa 1988 hay luật mẫu
Uncitral, pháp luật hiện hành không đưa ra các tiêu chuẩn hình thức cho thông
báo như ngôn ngữ soạn thảo để bên mua hàng có thể hiểu được và cũng không

đặt vấn đề phân biệt thông báo chuyển nhượng với hướng dẫn thanh toán.
 Bên mua hàng gửi văn bản cho bên bán hàng và tổ chức bao thanh toán xác
nhận về việc đã nhận được thông báo và cam kết về việc thực hiện thanh toán
cho bên bao thanh toán. Trong trường hợp từ chối thanh toán, phải thông báo
ngay bằng văn bản và nêu rõ lí do từ chối. Thông thường, lí do xác đáng nhất
trong trường hợp này là việc chỉ ra bên bán có hành vi vi phạm hợp đồng. Nếu
thông báo đã được đưa ra hợp thức mà bên bao thanh toán vẫn cố tình cấp tín
21
dụng cho bên bán hàng thì bên mua hàng sẽ được miễn trách nhiệm thanh toán
cho bên bao thanh toán.
 Bên bán hàng chuyển giao bản gốc hợp đồng mua bán hàng, chứng từ bán hàng
và các chứng từ khác liên quan đến các khoản phải thu cho bên bao thanh toán.
 Tổ chức bao thanh toán chuyển tiền ứng trước cho bên bán hàng theo thỏa
thuận.
 Tổ chức bao thanh toán tiến hành theo dõi, thu nợ từ bên mua hàng. Tất toán
tiền với bên bán hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng bao thanh toán.
22
ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT
Quy chế bao thanh toán 1096 được xem là kim chỉ nam về bao thanh toán của các
tổ chức tín dụng, tuy nhiên trong quy chế này cũng còn nhiều bất cập nên khi áp dụng
trong thực tế gây khó khăn cho các ngân hàng. Một số bất cập như sau:
- Nội dung của quy chế hoạt động BTT còn quá chung chung. Quy chế chỉ để cập
đến những khái niệm, nguyên tắc thực hiện sản phẩm BTT, điều kiện thực hiện BTT,
mà không quy định cụ thể đến những trường hợp phát sinh thực tế. Cụ thể:
+ Các đơn vị thực hiện BTT sẽ phải hạch toán kế toán cho hoạt động BTT như thế
nào? Đây là vấn đề rất quan trọng đối với các tổ chức tín dụng. Thiếu văn bản hướng dẫn
những chuẩn mực hạch toán kế toán chung cho sản phẩm BTT tức là đồng nghĩa với việc
các tổ chức tín dụng sẽ lúng túng trong cách thức thực hiện. Điều đó dẫn tới kết quả là
tuy cùng một bản chất sự việc nhưng cách phản ánh của các đơn vị trên sổ sách kế toán
hoàn toàn khác nhau. Từ đó gây khó khăn cho các cơ quan ban ngành hữu quan trong

việc kiểm soát hoạt động BTT.
+ Nhiều chuyên gia kinh tế trên thế giới cho rằng để sản phẩm BTT hoạt động
hiệu quả và ổn định thì không nên áp dụng thuế chuyển nhượng vì bản thân những đơn vị
thực hiện BTT đã phải tuân thủ theo đúng quy định của những luật thuế khác. Tại Việt
Nam, theo điều 18 quy chế hoạt động BTT quy định “các quy định về thuế đối với hoạt
động BTT được thực hiện theo các quy định của pháp luật”. Với quy định mang tính chất
chung chung như vậy, đơn vị thực hiện BTT rất khó nhận biết rằng sản phẩm BTT có
chịu thuế chuyển nhượng hay không? Mức thuế suất được áp dụng như thế nào? Cơ sở để
tính toán thêm khoản thuế này như thế nào để các đơn vị có thể tính toán lại giá vốn hoạt
động của mình,…
- Xem xét trên một số khía cạnh chuyên sâu của sản phẩm BTT, một số vấn đề
quy chế BTT chưa có quy định hay có quy định nhưng không phù hợp với thực tế. Cụ
thể:
+ Điều quan trọng nhất khi thực hiện sản phẩm BTT là phải xác định được “giá
mua khoản phải thu”. Tuy nhiên, quy chế BTT hiện tại không đề cập đến vấn đề này. Khi
không có những văn bản hướng đẫn cụ thể thì các tổ chức tín dụng thực hiện BTT sẽ định
giá mua các khoản phải thu hoàn toàn dựa trên tình hình hoạt động thực tế và mức độ
chấp nhận rủi ro của hệ thống dẫn đến các tổ chức tín dụng khác nhau sẽ chấp nhận “giá
mua khoản phải thu” khác nhau trên cùng một giao dịch mua bán bất kỳ từ đó sẽ là hạn
chế khả năng cung cấp vốn cho bên bán hoạt động, đồng thời tạo sự không nhất quán
trong tiến trình thực hiện BTT.
23
+ Trên thực tế, tuy hợp đồng kinh tế giữa bên mua và bên bán có quy định rõ thời
hạn thanh toán cụ thể nhưng thời hạn kết thúc quá trình thanh toán hợp đồng có thể kéo
dài hơn do những hạn chế về khoảng cách địa lý, dịch vụ NH hay những thỏa thuận thêm
ngoài hợp đồng, do đó ngày đáo hạn khoản BTT có thể không trùng khớp với ngày đến
hạn của hợp đồng mua bán. Quy chế BTT không quy định biên độ thời gian tối đa của
khoản BTT đến hạn là bao nhiêu nên các đơn vị thực hiện BTT buộc phải chuyển các
khoản thu phát sinh trễ sang nợ quá hạn hay truy đòi bên bán. Tuy nhiên, chuyển nợ quá
hạn hay thủ tục tiến hành truy đòi bên bán như thế nào thì quy chế cũng không quy định

rõ. Vì vậy, các đơn vị thực hiện BTT rơi vào vòng luẩn quẩn khi thiếu cơ sở pháp lý khi
hoạt động.
+ Ngoài hợp đồng mua bán, chứng cứ quan trọng để đơn vị BTT có thể tiến hành
thu nợ của bên mua chính là toàn bộ bản gốc các chứng từ mua bán liên quan đến hợp
đồng mua bán đó. Trên thực tế, bên bán thường chỉ lập một bộ bản gốc duy nhất, khi
chuyển giao cho đơn vị thực hiện BTT thì rất khó giải trình với cơ quan.
24
KẾT LUẬN
Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng đóng vai trò quan trọng trong nền
kinh tế thị trường, nhất là đối với Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế hiện
nay với sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, ít vốn. Tạo khung pháp lý nhằm
giúp các TCTD cũng như các doanh nghiệp có thể mua bán các khoản phải thu dưới hình
thức hợp đồng bao thanh toán là một việc phải làm. Nhưng các quy định về bao thanh
toán cần phải phù hợp với các thông lệ quốc tế bởi hoạt động bao thanh toán ở Việt Nam
cũng như ở các nước đang phát triển hiện nay chủ yếu liên quan đến các khoản phải thu
trong các thương vụ xuất nhập khẩu.
Quy chế bao thanh toán được ban hành nhưng như đã phân tích cho thấy Quy chế
này còn nhiều thiếu sót, chưa đầy đủ khi so sánh với chế định pháp luật về bao thanh toán
của các quốc gia phát triển và thông lệ quốc tế. Nhưng Quy chế này cũng cần phải có thời
gian vận dụng thực tế và cần có nhiều nghiên cứu sâu trên cơ sở phân tích toàn diện pháp
luật kinh tế dân sự của Việt Nam để hoàn thiện.
Trước mắt, các TCTD được phép cũng như các doanh nghiệp khi giao kết hợp
đồng bao thanh toán cần phải lường trước vấn đề này để quy định thật cụ thể quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Đặc biệt các TCTD nên thực hiện hình thức bao
thanh toán có quyền truy đòi, quy định cụ thể TCTD có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước
cho bên bán hàng khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán
khoản phải thu.
Qua đó TCTD có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đảm bảo khả
năng thu hồi vốn khi cấp tín dụng dưới hình thức bao thanh toán. Bên cạnh đó, Hiệp hội
Ngân hàng Việt Nam cần nhanh chóng soạn thảo hợp đồng bao thanh toán mẫu trên cơ sở

các hợp đồng bao thanh toán của các doanh nghiệp bao thanh toán lớn trên thế giới để các
TCTD và các doanh nghiệp tham khảo.
25

×