Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời mở đầu
Mục lục
Trang
Lời mở đầu 2
Chơng 1: Cơ sở lý luận về hợp đồng kinh tế 5
1.1. Những vấn đề cơ bản về chế độ pháp lý của hợp đồng kinh tế
5
1.1.1. Sự ra đời của chế định hợp đồng và hợp đồng kinh tế 5
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng kinh tế 10
1.1.3 Vai trò của hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trờng 13
1.2. Ký kết hợp đồng kinh tế
16
1.2.1. Nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế 16
1.2.2. Căn cứ ký kết hợp đồng kinh tế 18
1.2.3. Chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế 20
1.2.4. Cách thức ký kết hợp đồng kinh tế 22
1.2.5. Những điều khoản thoả thuận khi ký kết thể hiện trong nội dung
của hợp đồng
23
1.2.6. Hợp đồng vô hiệu 31
Chơng 2 : Thực trạng việc ký kết hợp đồng kinh tế và h ớng
hoàn thiện pháp luật về ký kết hợp đồng kinh tế.
34
2.1. Thực trạng ký kết hợp đồng kinh tế
34
2.2. Kiến nghị hớng hoàn thiện pháp luật về ký kết hợp đồng kinh tế
55
3
Chơng I :
Chế độ pháp lý về hợp đồng kinh
tế
I. Những vấn đề lý luận về hợp đồng kinh tế.
1.Khái niệm chung về hợp đồng
a.Khái niệm
Hợp đồng là sự thoả thuận giữa hai hoặc nhiều bên bình đẳng
với nhau làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ cụ thể
của các bên trong quá trình thực hiện một công việc hay giao dịch
nhất định.
b.Vai trò của hợp đồng trong đời sống xã hội
Hợp đồng biểu hiện sự tự nguyện tham gia ký kết của các
chủ thể mà ý chí của các bên thống nháat với nhau do yêu cầu
khách quan của cuộc sống hàng ngày, do điều kiện kinh tế nhất
định tác động, ngoài ra ý chí của chủ thể tham gia hợp đồng còn
bị chi phối bởi luật pháp tức là ý chí cua r nhà nớc. Vì vậy, dới các
chế độ khác nhau, hợp đồng có ý nghĩa và bản chất khác nhau.
Trong đời sống kinh tế xã hội hiện nay, hợp đồng là công cụ pháp
lý quan trọng của nhà nớc trong xây dựng và phát triển đời sống
xã hội, nó làm cho lợi ích của mỗi cá nhân, tập thể phù hợp với lợi
ích chung của toàn xã hội. Nó xác lập và gắn chặt mối quan hệ hợp
tác giữa các cá nhân, đơn vị, tạo nên sự bình đẳng về mặt pháp lý
trong đời sống xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên ký kết, giúp đỡ các bên xây dựng kế hoạch một cách vững
chắc, kế hoạch ấy chỉ trở thành phơng án thực hiện khi nó bảo đảm
bằng những cam kết hợp đồng. Ngợc lại hợp đồng cụ thể hoá, chi
tiết hoá nội dung kế hoạch của các chủ thể hợp đồng. Việc thực
4
hiện quyền và nghĩa vụ cụ thể đó chính là việc thực hiện từng phần
kế hoạch.
Nghiên cứu vai trò của hợp đồng, chúng ta khẳng định rằng hợp đồng có vai
trò quan trọng trong đổi mới cơ chế quản lý đời sống xã hội: đổi mới kế
hoạch hoá nhằm bảo đảm quyền tự chủ của các đơn vị, tăng cờng quản lý
kinh tế quản lý thị trờng.
Trong pháp luật nớc ta đang quy định gồm nhiều loại hợp
đồng tồn tại thuộc các lĩnh vực quan hệ xã hội khác nhau nh : hợp
đồng dân sự, hợp đồng kinh tế, hợp đồng mua bán ngoại thơng, hợp
đồng liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng lao
động ...
2. Khái niệm về hợp đồng kinh tế:
a. Lịch sử phát triển của hợp đồng kinh tế:
Trong thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nền
kinh tế nớc ta còn bao gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
Ngoài khu vực kinh tế quốc doanh, tập thể còn có kinh tế cá thể
trong nông nghiệp, thủ công nghiệp và thành phần kinh tế t bản t
doanh cha đợc cải tạo. Hoạt động kinh tế của các cơ quan Xí
nghiệp Nhà nớc của các đơn vị kinh tế tập thể tiến hành song song
với hoạt động kinh tế của t nhân. Để thu hút mọi hoạt động kinh tế
đi theo hớng có lợi cho việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, từng bớc
xây dựng quan hệ sản xuất mối quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Thủ tớng Chính phủ đã ban hành Nghị định 735/TTg ngày 10/4/1957,
kèm theo Nghị định này là bản Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh
doanh. Bản Điều lệ này bao gồm những quy định điều chỉnh các quan
hệ hợp đồng giữa các đơn vị kinh tế nh các đơn vị kinh tế quốc
doanh, hợp tác xã, công ty hợp doanh, t doanh, ngời Việt Nam hay
ngoại kiều kinh doanh trên đất Việt Nam.
Theo Điều lệ này, hợp đồng kinh doanh đợc thiết lập bằng
cách hai hay nhiều đơn vị kinh doanh tự nguyện cam kết với nhau
5
thực hiện một một số nhiệm vụ nhất định, trong một thời gian nhất
định, nhằm phát triển kinh doanh công thơng nghiệp, góp phần thực
hiện kế họach Nhà nớc. Hợp đồng kinh doanh đợc xây dựng trên
nguyên tác các bên tự nguyện, cùng có lợi và có lợi ích cho việc
phát triển nền kinh tế quốc dân. Điều lệ còn quy định nếu trong
quan hệ hợp đồng có 1 bên là t doanh, hợp đồng phải đợc đăng ký
tại cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền (cơ quan công thơng tỉnh hoặc
Uỷ ban hành chính huyện) thì mới có giá trị về mặt pháp lý...
Việc thực hiện Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh,
trong một chừng mực nhất định, đã sử dụng đợc khả năng của các
thành phần kinh tế quốc dân theo hớng thống nhất của kế hoạch Nhà
nớc, góp phần cải tạo quan hệ sản xuất cũ, từng bớc xây dựng quan
hệ sản xuất mới...
Đến năm 1960, ở miền Bắc, chúng ta đã hoàn thành cơ bản
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, bớc vào giai đoạn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, mở đầu bằng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1960 - 1965.
Các quan hệ kinh tế đã có sự thay đổi về cơ cấu chủ thể và về tính
chất. Công tác kế hoạch hoá và hạch toán kinh tế đòi hỏi phải có
những quy định mới về điều chỉnh các quan hệ hợp đồng giữa các
đơn vị kinh tế. Vì vậy, Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế
đợc Nhà nớc ban hành kèm theo Nghị định 04/TTg ngày 4/1/1960,
đồng thời Nhà nớc cũng quyết định thành lập Hội đồng trọng tài kinh
tế để thực hiện chức năng quản lý công tác hợp đồng kinh tế và giải
quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế (Nghị định 20/TTg ngày
14/1/1960).
Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế đã quy định rõ
các bên tham gia quan hệ hợp đồng là các đơn vụ kinh tế cơ sở, các
tổ chức xã hội chủ nghĩa, việc ký kết hợp đồng là nhằm thực hiện chỉ
tiêu kế hoạch của Nhà nớc, khi hợp đồng kinh tế bị vi phạm, thẩm
quyền giải quyết tranh chấp thuộc Hội đồng trọng tài kinh tế...
6
Trong quá trình thực hiện bản Điều lệ tạm thời về chế độ hợp
đồng kinh tế, Nhà nớc đã ban hành nhiều văn bản quy định các điều
lệ về từng chủng loại hợp đồng chính trị ở nớc ta. Hợp đồng kinh tế
đã thực sự trở thành công cụ điều chỉnh và củng cố các quan hệ kinh
tế xã hội chủ nghĩa.
Trớc yêu cầu của việc cải tiến quản lý kinh tế: xoá bỏ lối
quản lý hành chính cung cấp, thực hiện quản lý theo phơng thức kinh
doanh xã hội chủ nghĩa, khắc phục cách quản lý thủ công phân tán
theo lối sản xuất nhỏ, xây dựng cách tổ chức quản lý của nền công
nghiệp lớn nhằm thúc đẩy quá trình đa nền kinh tế quốc dân từ sản
xuất nhỏ tiến lên sản xuất xã hội chủ nghĩa .
Ngày 10/3/1975, Nhà nớc ta đã ban hành bản Điều lệ về chế
độ hợp đồng kinh tế (ban hành kèm theo Nghị định 54/CP ngày
10/3/1975 của Hội đồng Chính phủ). Điều lệ này đã quy định tơng
đối đầy đủ các vấn đề nh: Vai trò của hợp đồng kinh tế, nguyên tắc
ký kết, các nội dung ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế, giải
quyết tranh chấp và trách nhiệm do vi phạm chế độ hợp đồng kinh
tế... những quy định này đã trở thành căn cứ pháp lý quan trọng đáp
ứng yêu cầu của công cuộc cải tiến quản lý kinh tế, góp phần đa các
quan hệ hợp đồng kinh tế trở thành nề nếp, ở giai đoạn này với sự
phát triển cao độ của cơ chế tập trung quan liên bao cấp, hợp
đồng kinh tế đã trở thành một công cụ pháp lý chủ yếu của Nhà nớc
để quản lý nền kinh tế kế hoạch hoá xã hội chủ nghĩa. Nghĩa là hợp
đồng kinh tế đợc coi là một công cụ hữu hiện trong xây dựng, thực
hiện và đánh dấu việc hoàn thành hay không hoàn thành kế hoạch
Nói một cách khác, Nhà nớc ta đã đặt một cái dấu bằng giữa
hợp đồng kinh tế và kế hoạch. Ký kết hợp đồng kinh tế là xây dựng
kế hoạch, thực hiện hợp đồng kinh tế là thực hiện kế hoạch vi phạm
hợp đồng kinh tế là vi phạm hợp đồng kế hoạch... Do đó, việc ký kết
hợp đồng kinh tế đợc Nghị định 54/CP quy định là một nghĩa vụ, là kỷ
luật Nhà nớc. Nhà nớc quy định tỷ mỉ, chặt chẽ gần nh toàn bộ nội
7
dung của hợp đồng kinh tế buộc các bên phải tuân thủ nghiêm chỉnh.
Về mặt lý luận, ai cũng biết rằng, một trong những đặc điểm của hợp
đồng kinh tế buộc các bên phải tuân thủ nghiêm chỉnh. Về mặt lý luận,
ai cũng biết rằng, một trong những đặc điểm của hợp đồng kinh tế
trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ là ở chỗ, trong quan hệ
hợp đồng kinh tế có sự thống nhất của 2 yếu tố: yếu tố trao đổi tài
sản (quan hệ ngang) và yếu tố tổ chức kế hoạch (quan hệ quản lý).
Nhng phải nói rằng, do Nhà nớc ta đã nhấn mạnh quá mức yếu tố tổ
chức - kế hoạch trong quan hệ hợp đồng kinh tế nên đã làm cho hợp
đồng bị biến dạng và đã trở thành công cụ chủ yếu để Nhà nớc thực
hiện sự can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị
kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế
thị trờng có định hớng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện nội dung đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cần xoá
bỏ hoàn toàn cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp xác định
rõ phạm vi quản lý Nhà nớc về kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh,
xác lập và mở rộng quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các đơn vị
kinh tế cơ sở, bảo đảm sự bình đẳng về mặt pháp lý trong các quan
hệ kinh tế giữa các đơn vị kinh tế, không phân biệt thành phần kinh
tế.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, các quan hệ hợp đồng kinh tế giữa các đơn vị kinh tế mang một
nội dung mới. Bản Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm
theo Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975 không còn phù hợp nữa. Vì vậy,
Nhà nớc đã ban hành Pháp lện hợp đồng kinh tế ở nớc ta, nó đã thể
chế hoá đợc những t tởng lớn về đổi mới quản lý kinh tế của Đảng,
trả lại giá trị đích thực của hợp đồng kinh tế với t cách là sự thống
nhất ý chí của các bên, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và các văn bản
pháp lý cụ thể hoá pháp lệnh đã tạo thành hệ thống các quy phạm
pháp luật làm cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh các quan hệ hợp
đồng kinh tế trong cơ chế kinh tế mới hiện nay.
8
b. Khái niệm hợp đồng kinh tế
Theo điều 1 pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/
9/1989 thì hợp đồnh kinh tế là sự thoả thuận bằng văn
bản, hay tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc
thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ,
nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật và các thoả thuận
khác có mục đích kinh doanh cà thực hiện kế hoạch của
mình
c. Phân loại hợp đồng kinh tế:
*.Căn cứ vào thời gian của hợp đồng kinh tế
+Hợp đồng dài hạn: Hợp đồng này có thời hạn từ trên một nam nhằm
thực hiện kế hoạch dài hạn
+Hợp đồng ngắn hạn: Đây là những hợp đồng có thời hạn đợc thu
thực hiện từ một năm trở xuống.
Dựa vào tính chất của hợp đồng kinh tế, có thể chia hợp đồng
kinh tế thành hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu Pháp lệnh và hợp đồng
kinh tế không theo chỉ tiêu Pháp lệnh.
Hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu Pháp lệnh là hợp đồng kinh tế
đợc ký căn cứ vào chỉ tiêu Pháp lệnh của Nhà nớc giao. Ký kết và
thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu Pháp lệnh là kỷ luật của
Nhà nớc, là nghĩa vụ của các đơn vị kinh tế đợc Nhà nớc giao chỉ tiêu
Pháp lệnh. Trong nền kinh tế thị trờng, số lợng hợp đồng kinh tế
thuộc loại này rất hạn chế .
Hợp đồng kinh tế không theo chỉ tiêu Pháp lệnh là loại hợp
đồng đợc ký kết theo nguyên tắc tự nguyện nhằm xây dựng và thực
hiện kế hoạch của các chủ thể. Các chế độ ký kết, thực hiện hợp
đồng của loại hợp đồng này đợc nghiên cứu trong các mục tiếp theo
của chơng này.
Căn cứ vào nội dung cụ thể của các quan hệ kinh tế, trong
hợp đồng có thể chia hợp đồng kinh tế thành các loại sau đây :
9
- Hợp đồng mua bán hàng hoá
- Hợp đồng vận chuyển
- Hợp đồng xây dựng cơ bản
- Hợp đồng gia công
- Hợp đồng dịch vụ
- Hợp đồng nghiên cứu khoa học, triển khai kỹ thuật
- Các loại hợp đồng khác.
3. Đặc điểm hợp đồng kinh tế
- Về nội dung: Hợp đồng kinh tế đợc ký kết nhằm phục vụ hoạt
động kinh doanh. Đó là nội dung thực hiện các công việc sản xuất,
trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật và
các thoả thuận khác do các chủ thể tiến hành trong một số hoặc tất
cả các công đoạn của quá trình tái sản xuất, từ khi đầu t vốn đến khi
tiêu thụ sản phẩm hoặc hoàn thành dịch vụ nhằm sinh lợi hợp pháp.
Kinh doanh là chức năng, nhiệm vụ, là mục tiêu của các đơn vị
kinh tế. Vì vậy, mục đích là kinh doanh luôn đợc thể hiện hàng đầu
trong các hợp đồng mà các chủ thể kinh doanh ký kết, nhằm xây dựng
và thực hiện kế hoạch của mình. Khác với hợp đồng kinh tế, nội dung
của hợp đồng dân sự lại chủ yếu nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt, tiêu dùng của các chủ thể ký kết.
- Về chủ thể hợp đồng, theo Điều 2 Pháp lệnh hợp đồng kinh
tế thì hợp đồng kinh tế đợc ký kết giữa pháp nhân với pháp nhân, hay
pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật và phải ký kết trong phạm vi nghề nghiệp kinh doanh đã đăng ký.
Ngoài ra, Pháp lệnh còn quy định những ngời làm công tác khoa học
10
kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ng dân cá thể,
các tổ chức và cá nhân nớc ngoài ở Việt Nam cũng có thể trở thành
chủ thể của hợp đồng kinh tế khi họ ký kết hợp đồng với một pháp
nhân.
Trên thực tế hiện nay và xu hớng trong nền kinh tế thị trờng
chủ thể chủ yếu của hợp đồng kinh tế là các doanh nghiệp. Đối với
hợp đồng dân sự, mọi pháp nhân và cá nhân có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi đều có thể là chủ thể của hợp đồng ,.
- Về hình thức, hợp đồng kinh tế phải đợc ký kết bằng văn
bản. Đó là bản hợp đồng hay các tài liệu giao dịch mang tính văn bản
có chữ ký của các bên xác nhận nội dung trao đổi, thoả thuận nh
công văn, đơn chào hàng, đơn đặt hàng, giấy chấp nhận...
Ký kết hợp đồng kinh tế bằng văn bản là một quy định bắt
buộc mà các chủ thể của hợp đồng phải tuân theo. Văn bản này là sự
ghi nhận rõ ràng về quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thoả thuận với
nhau, là cơ sở pháp lý để các bên tiến hành thực hiện các điều đã
cam kết, để các cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền kiểm tra tính hợp
pháp của mối quan hệ kinh tế và giải quyết các tranh chấp, xử lý các
vi phạm nếu hợp đồng dân sự phải ký kết bằng văn bản hoặc thoả
thuận miệng tuỳ theo nội dung của từng quan hệ hợp đồng và ý chí
của các bên ký kết.
Hợp đồng kinh tế còn mang tính kế hoạch và phản ảnh mối quan
hệ giữa kế hoạch với thị trờng. Hợp đồng kinh tế đợc ký kết dựa trên
định hớng kế hoạch của Nhà nớc, nhằm các việc xây dựng và thực hiện
kế hoạch của các đơn vị kinh tế. Trong đó có những hợp đồng kinh tế
mà việc ký kết và thực hiện nó phải hoàn toàn tuân theo các chỉ tiêu
kế hoạch pháp lệnh của Nhà nớc. Trong cơ chế quản lý theo phơng
pháp kế hoạch hoá tập trung thì tính kế hoạch là đặc tính số một của
hợp đồng kinh tế. Mặc dù trong giai đoạn hiện nay, Nhà nớc ta đã có
những thay đổi lớn trong công tác kế hoạch hóa, nhng tính kế hoạch
11
của hợp đồng kinh tế vẫn tồn tại: Hợp đồng kinh tế giữa các đơn vị
sản xuất kinh doanh vừa là cơ sở để xây dựng kế hoạch, vừa là công
cụ pháp lý bảo đảm việc thực hiện kế hoạch .
Những đặc điểm của hợp đồng kinh tế giúp ta phân biệt hợp
đồng kinh tế và các loại hợp đồng khác nh hợp đồng dân sự, hợp
đồng ngoại thơng, hợp đồng lao động.v.v...
II. Chế độ ký kết hợp đồng kinh tế:
1.Nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế .
Các nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế là những t tởng chỉ
đạo, có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể khi ký kết và thực
hiện hợp đồng kinh tế. Tính bắt buộc này đợc thể hiện thông qua
các quy phạm pháp luật. Các nguyên tắc cơ bản đợc ghi nhận trong
Điều 3 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Hợp đồng kinh tế đ ợc ký kết theo nguyên tắc tự nguyện,
cùng có lợi, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, trực tiếp chịu trách
nhiệm tài sản và không trái pháp luật .
a- Nguyên tắc tự nguyện :
Theo nguyên tắc này, một hợp đồng kinh tế đợc hình thành, phải
hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện thoả thuận giữa các chủ thể (tự do
ý chí ), không thể do sự áp đặt ý chí của bất cứ cơ quan, tổ chức hay
cá nhân nào.
Khi xác lập quan hệ hợp đồng, các bên hoàn toàn tự do ý
chí, tự nguyện trong việc thoả thuận, bày tỏ ý chí và thống nhất ý
chí nhằm đạt tới mục đích nhất định. Các bên có quyền tự do lựa
chọn bạn hàng, thời điểm ký kết và các nội dung ký kết. Mọi sự tác
động làm tính tự nguyện của các bên trong quá trình ký kết nh bị c-
12
ỡng bức, lừa đảo, nhầm lẫn ... đều làm ảnh hởng đến hiệu lực của hợp
đồng kinh tế.
Nguyên tắc này thể hiện quyền tự chủ trong ký kết hợp đồng
kinh tế của các chủ thể kinh doanh đợc Nhà nớc đảm bảo. Ký kết
hợp đồng kinh tế là quyền của các đơn vị kinh tế, quyền này phải
gắn liền với những các điều kiện nhất định, đó là :
- Không đợc phép lợi dụng ký kết hợp đồng kinh tế để hoạt
động trái pháp luật.
- Đối với các đơn vị kinh tế có chức năng sản xuất kinh doanh
trong các thành phần kinh tế thuộc độc quyền của Nhà nớc thì không đợc
lợi dụng quyền ký kết hợp đồng kinh tế để đòi hỏi những điều kiện bất
bình đẳng, ép buộc, cửa quyền, hoặc vì không đạt đợc những đòi hỏi bất
bình đẳng đó nên đã từ chối ký kết hợp đồng kinh tế thuộc ngành nghề
độc quyền của mình.
- Quyền ký kết hợp đồng kinh tế của các đơn vị kinh tế còn đợc
thể hiện qua việc quy định các đơn vị kinh tế có quyền từ chối mọi sự áp
đặt của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào trong việc ký kết hợp đồng
kinh tế.
Nguyên tắc tự nguyện trong ký kết hợp đồng kinh tế đánh dấu
bớc đổi mới căn bản trong chế độ hợp đồng kinh tế của Nhà nớc ta,
đợc ghi nhận trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 .
Cũng cần lu ý rằng, trớc đây cũng nh hiện nay, việc ký kết
các hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu kế hoạch Pháp lệnh là nghĩa vụ
bắt buộc của các đơn vị kinh tế đợc Nhà nớc giao chỉ tiêu Pháp
lệnh, là kỷ luật Nhà nớc. Đối với việc ký kết loại hợp đồng này, tính
tự nguyện của các chủ thể bị hạn chế đáng kể do có sự ràng buộc
bởi tính kỷ luật của các chỉ tiêu kế hoạch Pháp lệnh .
13
b. Nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi:
Nội dung của nguyên tắc này là khi ký kết hợp đồng kinh tế,
các chủ thể phải đảm bảo trong nội dung của hợp đồng có sự tơng
xứng về quyền và nghĩa vụ nhằm đáp ứng lợi ích kinh tế của mỗi bên.
Tính bình đẳng này không phụ thuộc và quan hệ sở hữu và quan hệ
quản lý của chủ thể. Bất kể các đơn vị kinh tế thuộc thành phàn kinh
tế nào, do cấp nào quản lý, khi ký kết hợp đồng đều bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ, cũng có lợi trên cơ sở thoả thuận và phải chịu
trách nhiệm vật chất nếu vi phạm hợp đồng đã ký kết. Không thể có
một hợp đồng kinh tế nào chỉ mang lại lợi ích cho một bên hoặc một
bên chỉ có quyền còn bên kia chỉ có nghĩa vụ. Một hợp đồng kinh tế
đợc ký kết mà vi phạm nguyên tắc bình đẳng thì sẽ ảnh hởng đến
hiệu lực của hợp đồng kinh tế đó.
Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế nớc ta còn tồn tại nhiều
thành phần, cơ cấu chủ thể của hợp đồng kinh tế rất đa dạng,
nguyên tắc này càng có ý nghĩa quan trọng. Nó góp phần tạo nên sự
bình đẳng về mặt pháp lý giữa các thành phần kinh tế, khuyến khích
sự phát triển và đa dạng hoá các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế
thị trờng.
c. Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản và
không trái pháp luật
Trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản là các bên tham gia quan hệ hợp
đồng kinh tế phải dùng chính tài sản của đơn vị mình để đảm bảo việc ký
kết và thực hiện hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, một chủ thể có thể ký kết
hợp đồng kinh tế trong trờng hợp đợc một chủ thể khác đứng ra bảo lãnh
về tài sản.
14
Quy định việc ký kết hợp đồng không trái pháp luật đòi hỏi
nội dung, hình thức chủ thể của hợp đồng kinh tế đó phải phù hợp,
tuân theo các quy định của pháp luật, không đợc lợi dụng việc ký
kết hợp đồng kinh tế để hoạt động trái pháp luật.
Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện hợp
đồng kinh tế và việc bảo về trật tự quản lý kinh tế của Nhà nớc. Một hợp
đồng kinh tế chỉ có thể đợc thực hiện một cách nghiêm chỉnh khi nó
không trái pháp luật và các bên có khả năng thực hiện đẩy đủ các quyền
và nghĩa vụ của mình. Trong giai đoạn hiện nay nguyên tắc này càng cần đ-
ợc coi trọng.
2. Căn cứ để ký kết hợp đồng kinh tế
Căn cứ ký kết hợp đồng kinh tế đợc quy định tại Điều 10
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Theo quy định này, hợp đồng kinh tế
đợc ký kết trên các căn cứ sau:
a. Định hớng kế hoạch của Nhà nớc, các chính sách, chế
độ, các chuẩn mực kinh tế, kỹ thuật hiện hành.
Đối với mỗi đơn vị kinh tế, ký kết hợp đồng kinh tế là cơ sở để xây
dựng kế hoạch và là cộng cụ để thực hiện kế hoạch của mình. Kế
hoạch của mỗi đơn vị kinh tế đợc xây dựng căn cứ vào định hớng kế
hoạch của Nhà nớc, do đó việc ký kết các hợp đồng kinh tế cũng
phải căn cứ vào định hớng kế hoạch của Nhà nớc. Ngoài ra, để đảm
bảo tính hợp pháp, hợp lý và hiệu quả trong việc xây dựng nội dung
của hợp đồng kinh tế, khi ký kết hợp đồng các chủ thể cũng phải
căn cứ vào các chính sách và chế độ quản lý kinh tế của Nhà n ớc,
các chuẩn mực kinh tế kỹ thuật hiện hành đối với từng loại sản phẩm,
ngành nghề.
15
b. Nhu cầu thị trờng, đơn đặt hàng, đơn chào hàng của
bạn hàng.
Hợp đồng kinh tế phản ánh mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ,
luôn luôn gắn liền với sự vận động của thị trờng của quan hệ cung
cầu. Vì vậy, trong việc ký kết hợp đồng kinh tế, các chủ thể phải
luôn luôn căn cứ vào nhu cầu của thị trờng bao gồm các khả năng
cung cấp hàng hoá, dịch vụ và nhu cầu cần đáp ứng về hàng hoá
dịch vụ của mình và của bạn hàng.
Căn cứ này nhằm đảm bảo cho các hoạt động kinh tế đợc ký
kết có khả năng thực hiện trên thực tế, đồng thời đảm bảo cho sản
xuất kinh doanh vừa mang lại hiệu quả cao cho các đơn vị kinh tế,
vừa thoả mãn nhu cầu xã hội, đảm bảo gắn kế hoạch sản xuất kinh
doanh của các đơn vị kinh tế với quan hệ thị trờng.
c. Khả năng phát triển sản xuất kinh doanh, chức năng
hoạt động của các chủ thể ký kết.
Khả năng phát triển sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh
tế là những khả năng thực tế về tiền vốn, vật t, năng suất lao động,
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chức năng hoạt động là phạm vi ngành
nghề, lĩnh vực kinh tế mà đơn vị đó đợc tiến hành hoạt động.
Việc ký kết hợp đồng kinh tế không thể bỏ qua đợc căn cứ
này bởi vì nó đảm bảo khả năng thực tế của việc thực hiện hợp
đồng, đồng thời bảo đảm tính cân đối giữa khả năng và nhu cầu, giữa
sản xuất và tiêu thụ, giữa giá trị và hiện vật .
Mặt khác, các đơn vị kinh tế hoạt động đúng ngành nghề cần
đảm bảo các cân đối ngành kinh tế và trật tự quản lý kinh tế của Nhà
nớc .
16
d. Tính hợp pháp của hoạt động sản xuất kinh doanh và
khả năng đảm bảo tài sản của các bên cùng ký kết hợp
đồng
Đây là một căn cứ rất quan trọng để đảm bảo hiệu lực của
hợp đồng kinh tế về mặt nội dung cũng nh tính chất hợp pháp của
mỗi quan hệ và khả năng đáp ứng về hàng hoá, khả năng thanh toán
của mỗi bên. Căn cứ này nhằm đảm bảo cho mỗi hợp đồng kinh tế có
đầy đủ cơ sở pháp lý và cơ sở kinh tế để thực hiện trên thực tế.
Tóm lại, khi tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế, các đơn vị kinh
tế phải căn cứ vào những quy định của pháp luật, những yêu cầu
khách quan và khả năng chủ quan để xác lập mối quan hệ kinh tế
một cách hợp pháp, có đầy đủ điều kiện để thực hiện nhằm mang lại
hiệu quả kinh tế thiết thực cho đơn vị mình và cho xã hội.
3. Thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế.
Theo Điều 2 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, hợp đồng kinh tế
đợc ký kết giữa các bên sau đây :
- Pháp nhân với pháp nhân
- Pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật.
Nh vậy, chủ thể của hợp đồng kinh tế ít nhất một bên phải là
đơn vị có t cách pháp nhân, còn bên kia có thể là pháp nhân hoặc
cá nhân có đăng ký kinh doanh .
Pháp nhân là một tổ chức có đầy đủ các điều kiện sau đây :
- Có tài khoản riêng và chịu trách nhiệm một cách độc lập
bằng các tài sản đó.
17
- Tự nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật, có thể
trở thành nguyên đơn, bị đơn trớc toà án.
- Tồn tại độc lập và đợc pháp luật công nhận là một tổ chức
độc lập.
- Cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
là ngời đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền
theo đúng thủ tục pháp luật quy định và đã đợc cấp giấy phép kinh
doanh (giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh )
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 42, Điều 43 Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế, những ngời làm công tác khoa học, kỹ thuật, nghệ nhân,
hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ng dân cá thể, tổ chức và cá nhân
nớc ngoài tại Việt Nam khi ký kết hợp đồng với một pháp nhân Việt
Nam cũng đợc áp dụng các quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh
tế.
Về chủ thể của hợp đồng kinh tế, trong khoa học pháp lý
hiện có quan điểm cho rằng, hợp đồng kinh tế là những hợp đồng có
mục đích kinh doanh. Vì vậy, nó phải đợc thiết lập giữa các chủ thể
kinh doanh - chủ yếu là giữa các doanh nghiệp với nhau.
Khi tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế , mỗi bên tham gia quan
hệ hợp đồng chỉ cần cử một đại diện để ký vào hợp đồng kinh tế.
Nếu là pháp nhân thì ngời ký hợp đồng phải là ngời đợc bổ nhiệm
hoặc đang giữ chức vụ đó. Nếu là cá nhân có đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật thì ngời ký hợp đồng phải là ngời đứng
tên trang giấy phép kinh doanh (đã đăng ký kinh doanh theo đúng
quy định của pháp luật và đợc cấp giấy phép kinh doanh). Trong tất
cả các trờng hợp, hợp đồng kinh tế không bắt buộc kế toán trởng
phải cùng ký vào bản hợp đồng kinh tế, đây là điểm khác biệt so với
quy định trong Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành theo
Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975.
18
Trong trờng hợp một bên là ngời làm công tác khoa học, kỹ
thuật, nghệ nhân thì ngời ký hợp đồng kinh tế phải là ngời trực tiếp
thực hiện công việc trong hợp đồng (nếu có nhiều ngời cùng làm thì
ngời ký vào bản hợp đồng kinh tế phải do những ngời cùng làm cử
bằng văn bản có chữ ký của tất cả những ngời đó, văn bản này phải
kèm theo hợp đồng kinh tế ).
Khi một bên là hộ kinh tế gia đình nông dân, ng dân cá thể thì đại
diện ký hợp đồng kinh tế phải là chủ hộ. Khi một bên là tổ chức nớc
ngoài tại Việt Nam thì đại diện tổ chức đó phải đợc uỷ nhiệm bằng
văn bản, nếu là cá nhân nớc ngoài ở Việt Nam thì bản thân họ phải là
ngời ký kết các hợp đồng kinh tế .
Đại diện ký kết hợp đồng kinh tế nh trên cũng chính là đại
diện đơng nhiên trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế và trong
tố tụng trớc cơ quan tài phán.
Tuy nhiên, ngời đại diện đơng nhiên của các chủ thể hợp
đồng kinh tế có thể uỷ quyền cho ngời khác hay mình ký kết, thực
hiện hợp đồng kinh tế. Việc uỷ quyền có thể theo vụ việc hoặc th-
ờng xuyên nhng phải đợc thể hiện dới hình thức văn bản. Việc uỷ
quyền thờng xuyên có thể áp dụng trong trờng hợp ngời đại diện đ-
ơng nhiên uỷ quyền cho cấp phó của mình (hoặc do ngời đứng đầu
chi nhánh trực thuộc, có t cách pháp nhân không đầy đủ) theo kỳ
hạn cần uỷ quyền. Văn bản uỷ quyền phải ghi rõ họ tên, chức vụ của
ngời uỷ quyền, ngời đợc uỷ quyền, số chứng minh th của ngời đợc uỷ
quyền; tính chất và nội dung uỷ quyền, thời hạn uỷ quyền và phải có
chữ ký xác nhận của cả hai ngời này. Ngời đợc uỷ quyền chỉ đợc
phép hành động trong phạm vi đợc uỷ quyền và không đợc uỷ quyền
lại cho ngời khác. Trong phạm vi uỷ quyền, ngời uỷ quyền phải chịu
trách nhiệm về hành vi của ngời đợc uỷ quyền nh hành vi chính của
mình.
19
Quy định trên đây có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc vì nó vừa giúp
cho các đơn vị kinh tế có thể linh hoạt trong việc ký kết và thực
hiện hợp đồng kinh tế lại vừa ràng buộc trách nhiệm theo nguyên tắc
chịu trách nhiệm cá nhân.
4. N ội d ung ký kết hợp đồng kinh tế:
Theo quy định tại Điều 12 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì nội
dung của hợp đồng kinh tế bao gồm những điều khoản cụ thể sau:
a. Ngày tháng năm ký kết hợp đồng kinh t ế.
- Tên, địa chỉ, số tài khoản, ngân hàng giao dịch của các bên.
- Họ tên ngời đại diện, ngời đứng tên đăng ký kinh doanh.
b. Điều khoản đối tợng của hợp đồng:
Tức là các bên trao đổi mua bán, giao dịch về cái gì...? công việc
gì...?
Đối tợng của hợp đồng đợc tính bằng khối lợng, số lợng hoặc giá
trị quy ớc đã thoả thuận.
c. Điều k hoản chất l ợng
Tức là sự quy định thể hiện những đặc điểm, tính cách... của đối
tợng hợp đồng. Các bên phải thoả thuận cụ thể về chủng loại, quy
cách, cách tính, tính đồng bộ, mẫu mã, tiêu chuẩn... của sản phẩm. Hàng
hoá hoặc những yêu cầu kỹ thuật của công việc giao dịch giữa các bên.
d. Điều khoản giá cả :
Các bên có thể thoả thuận xác định đơn giá, hoặc giá trị của
toàn bộ công việc thoả thuận những nguyên tắc xác định rõ giá cả....
e. Điều khoản bảo hà nh:
g. Đ iều khoản nghiệm t hu, gi ao nhận:
20
Các bên đợc thoả thuận đặt ra các điều kiện dể giao nhận sản
phẩm hàng hoá, điều kiện để nghiệm thu đối tợng của hợp đồng.
h. Điều khoản phơng thức thanh toán:
Các bên đợc quyền lựa chọn phơng thức thanh toán cho phù
hợp với hoạt động kinh doanh, nhng không trái với những quy định
của pháp luật hiện hành.
i. Điều khoản trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh tế:
Các bên đợc thoả thuận trong khung phạt do pháp luật quy
định đối với hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế, đối với từng chủng
loại hợp đồng kinh tế.
k. Điều khoản thời hạn có hiệu lực của hợp đồng:
l. Các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng:
Các bên có thể thỏa thuận các biện pháp bảo đảm thực hiện
hợp đồng nh: thế chấp tài sản, cầm cố, bảo lãnh tài sản theo quy
định của pháp luật.
m.
Các bên có quyền xây dựng những điều khoản thể
hiện sự thoả thuận về các vấn đề khác, không trái quy
định của pháp luật.
Đề cập đến nội dung hợp đồng kinh tế, khi ký kết hợp đồng
do không nắm vững các quy định pháp luật nên các bên thờngmắc sai
lầm khi thoả thuận các điều khoản. Theo quy định của Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế để một hợp đồng hợp pháp thì ngoài các điều kiện chủ
thể, hình thức hợp đồng còn phải đảm bảo yếu tố nội dung hợp
đồng. Hợp đồng phải đảm bảo các điều khoản cơ bản thì mới đảm
bảo tính hiệu lực.
21
Về phơng diện khoa pháp lý, căn cứ vào tính chất vai trò của
các điều khoản, nội dung của hợp đồng kinh tế đợc xác định thành
ba loại với các điều khoản sau:
Thứ nhất : điều khoản chủ yếu là những điều khoản cơ bản,
quan trọng nhất của một hợp đồng bắt buộc phải có trong bất cứ
hợp đồng kinh tế nào, nếu không thì hợp đồng sẽ không có giá trị
Pháp lý, theo Điều 12 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế các Điều khoản
chủ yếu của hợp đồng kinh tế bao gồm:
- Ngày, tháng năm ký hợp đồng, tên, địa chỉ, số tài khoản, ngân
hàng giao dịch của các bên, họ tên ngời đại diện, ngời đứng tên
đăng ký kinh doanh.
- Điều khoản đối tợng của hợp đồng kinh tế tính bằng số l-
ợng, khối lợng hoặc giá trị quy ớc đã thoả thuận .
- Điều khoản chất lợng.
- Điều khoản giá cả.
Ngoài ra hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận của các bên về
viềc thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên
trong hoạt động kinh doanh. Do đó nội dung của hợp đồng kinh tế
trớc hết là những điều khoản do các bên thoả thuận. Những điều
khoản mà các bên đã thoả thuận đó là phát sinh thay đổi hoặc chấm
dứt quyền và nghĩa vụ của ác bên tham gia thoả thuận.
Xuất phát từ nguyên tắc tự do hợp đồng trong nền kinh tế thị
trờng, pháp luật không giới hạn các điều khoản mà các bên đã ký
kết hợp đồng thoả thuận với nhau. Nói nh vậy không có nghĩa là các
bên thoả thuận nh thế nào đợc, các bên có quyền thoả thuận nhng
những thoả thuận đó không đợc trái với pháp luật thì mới có hiệu lực
và đợc pháp luật bảo vệ. Do đó yêu cầu đặt ra là nội dung của hợp
đồng kinh tế phải hợp pháp, có khả năng thực hiện, các điều khoản
của hợp đồng phải rõ ràng cụ thể.
22
Trong trờng hợp cần thiết, Nhà nớc vẫn có quyền can thiệp
vào nội dung của quan hệ hợp đồng. Chẳng hạn buộc các bên ký
kết hợp đồng phải tuân theo những quy định bắt buộc về chất lợng
sản phẩm để đảm bảo an toàncho ngời tiêu dùng.
Nh vậy, nội dung của hợp đồng kinh tế không chỉ là những
điều khoản mà các bên thoả thuận mà còn có thể bao gồm cả những
điều khoản mà các bên không thoả thuận nhng theo dquy định của
pháp luật các bên có nghĩa vụ thực hiện. Bởi vì quyền và nghĩa vụ
của các bên trong quan hệ hợp đồng không chỉ phát sinh từ những
điều khoản mà các bên thoả thuận mà còn có thể phát sinh từ những
quy định pháp luật.
Trong Thứ hai: điều khoản thờng lệ, là những điều khoản đã
đợc pháp luật ghi nhận, nếu các bên không ghi vào các văn bản hợp
đồng thì coi nh các bên đã mặc nhiên công nhận và có nghĩa vụ thực
hiện những quy định đó. Nếu các bên thoả thuận ghi vào văn bản
hợp đồng thì không đợc ghi trái với những điều đã quy đinh đó, nếu
thoả thuận trái pháp luật thi những thoả thuận đó không có giá trị.
Những quy định của pháp luật sẽ trở thành nội dung của hợp
đồng kinh tế thay vào những điều khoản các bên đã thoả thuận trái
đó. Do đó, các bên phải thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ quy phạm
pháp luật có liên quan. Ví dụ: điều khoản về bối thờng thiệt hại, về
khung phạt vi phạm hợp đồng kinh tế, điều khoản về bảo hành.
Trong hợp đồng có thể các bên không thoả thuận về điều khoản
bảo hành nhng bên bán vẫn có nghĩa vụ phải bảo hành nếu có quy
định của Nhà nớc về bảo hành sản phẩm đó. Bên bán không thể viện
cớ là trong hợp đồng hai bên không thoả thuận về điều khoản bảo
hành để trốn trách nhiệm bảo hành. Qua đây chúng ta càng thấy rõ
hơn nội dung của hợp đồng kinh tế không chỉ bao gồm những điều
23
khoản mà các bên đã thỏa thuận mà còn có thể bao gồm cả những
điều khoản mà các bên không thoả thuận, nhng theo quy định của
Pháp luật, các bên có nghĩa vụ phải thực hiện.
Trong mối quan hệ giữa các điều khoản chủ yếu và điều khoản
thờng lệ của hợp đồng kinh tế thì sự tồn tại của hợp đồng kinh tế
không phụ thuộc vào các điều khoản thờng lệ mà chỉ phụ thuộc vào
các điều khoản chủ yếu. Hai bên không thoả thuận về những điều
khoản thờng lệ thì hợp đồng kinh tế vẫn cứ hình thành và làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Thứ ba: điều khoản tuỳ nghi là những điều khoản do các bên
tự thoả thuận với nhau khi pháp luật cho phép. Khi một quy phạm
pháp luật quy định các bên có thoả thuận về vấn đề này hay vấn đề
khác thì các bên có thể thoả thuận hoặc không thoả thuận. Nếu các
bên thoả thuận đó là nội dung của hợp đồng các bên phải có trách
nhiệm thực hiện. Còn nếu các bên không thoả thuận thì các bên
không phải thực hiện. Ví dụ: điều khoản thởngvật chất, điều khoảm
áp dụng mức phạt cụ thể khi vi phạm các điều khoản của hợp đồng
trogn khung phạt mà pháp luật đã quy định.
Theo pháp luật về hợp đồng kinh tế của nớc ta hiện nay thì
những thoả thuận về biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng (cầm cố
tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh tài sản, thoả thuận về tiền thởng
do thực hiện tốt hợp đồng) là những điều khoản tuy nghi. Những điều
khoản này chỉ trở thành nội dung hợp đồng nếu các bên trực tiếp
thoả thuận với nhau.
Về điều khoản thởng do thực hiện tốt hợp đồng cần phải xem
xét them. Khái niệm, thực hiện tốt hợp đồng theo chúng tôi là một
khái niệm không có cơ sở khoa học. Thế nào là thực hiên tốt hợp
đồng? Sau khi hợp đồng đợc ký kết và có hiệu lực các bên phải
24
thực hiện đúng hợp đồng và nếu thực hiện đúng hợp đồng là bình
thờng. Còn nếu các bên thực hiện không đúng, không đầy đủ hoặc
không là nghĩa vụ của các bên, do đó nó hoàn toàn là bình thờng,
chẳng có lý do gì để thởng cả, còn bên nào vi phạm hợp đồng thì
phải chịu trách nhiệm vật chất (phạt hợp đồng và bồi thờng thiệt hại
nếu có).
Trong hợp đồng kinh tế, hàng hoá đợc trao đổi ngang giá, do
đó điều khoản thởng phạt tronh hợp đồng kinh tế là vô lý, trái với
quy luật kinh tế. Bởi vì giá cả trong hợp đồng đã chịu sự tác động
khách quan của quy luật giá trị và quy luật cung cầu của thị trờng.
Nếu cộng thêm khoản tiền thởng nó sẽ phá vỡ quy luật trao đổi
hàng hoá trên cơ sở ngang giá.
Trong quan hệ hợp đồng kinh tế giữa các chủ doanh nghiệp t
nhân với nhau hoặc giữa các doanh nghiệp ngoài khu vực kinh tế
quốc doanh, nếu họ thoả thuận thởng cho nhau thì đó là việc của
họ. Điều vô lý đó không ảnh hởng đến lợi ích của ai nên pháp luật
cũng không can thiệp. Nhng trong quan hệ hợp đồng giữa các doanh
nghiệp Nhà nớc với nhau hoặc giữa doanh nghiệp Nhà nớc với doanh
nghiệp của các thành phần kinh tế khác thì không nên có điều khoản
tuỳ nghi này. Vì sự tuỳ nghi đó có thể dẫn đến sự tuỳ tiện làm
thiệt hại đến lợi ích của Nhà nớc.
Nói tóm lại các điều khoản của hợp đồng là do các bên thoả
thuận, pháp luật không hạn chế các điều khoản mà các bên thoả
thuận, miễn là những thoả thuận đó không phải trái pháp luật. Pháp
luật chỉ quy định những điều khoản tối thiểu phải có để chứng tỏ
giữa các bên có quan hệ hợp đồng. Những điều khoản tối thiểu đó là
những điều khỏan chủ yếu của hợp đồng.
25
Tuy nhiên, về từng khía cạnh cụ thể cần có những hiểu biết và
kinh nghiệm sâu sắc đặc biệt về chủ thể hợp đồng, về hình thức, về
nội dung hợp đồng nh tiêu đề trình bày.
5. Thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế.
Để xác lập một quan hệ hợp đồng kinh tế có hiệu lực pháp
lý, các bên có thể lựa chọn một trong hai cách ký kết hợp đồng kinh
tế nh sau:
a. Ký kết hợp đồng bằng phơng pháp ký trực tiếp là cách ký đơn
giản. Hợp đồng kinh tế đợc hình thành một cách nhanh chóng. Khi ký
kết bằng cách này, đại diện hợp pháp của các bên trực tiếp gặp
nhau bàn bạc, thoả thuận, thống nhất ý chí để xác định các điều
khoản của hợp đồng và cùng ký vào bản hợp đồng
b. Ký kết hợp đồng bằng phơng pháp ký gián tiếp là cách ký kết mà
trong đó các bên tiến hành gửi cho nhau các tài liệu giao dịch
( công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng ) chứa đựng nội
dung cần giao dịch. Việc ký kết hợp đồng kinh tế bằng phơng pháp
ký gián tiếp đòi hỏi phải tuân theo trình tự nhất định, thông thờng
trình tự này ít nhất cũng gồm hai bớc:
-Bớc một: Một bên lập dự thảo ( đề nghị ) hợp đồng trong đó
đa ra những yêu cầu về nội dung giao dịch ( tên hàng hoặc công
việc, số lợng, chất lợng, thời gian, địa điểm, phơng thức giao nhận,
thời hạn thanh toán... và gửi cho bên kia ).
-Bớc hai: Bên nhận đợc đề nghị hợp đồng tiến hành trả lời
cho bên đề nghị hợp đồng bằng văn bản, trong đó ghi rõ nội dung
chấp nhận, nội dung không chấp nhận, những đề nghị bổ sung ...
Trong trờng hợp ký kết theo cách ký gián tiếp, hợp đồng kinh
tế đợc coi là hình thành và có giá trị pháp lý từ khi các bên nhận đ-
26
ợc tài liệu giao dịch thể hiện sự thoả thuận xong những điều khoản
chủ yếu của hợp đồng
Dù ký kết bằng phơng pháp ký trực tiếp hay gián tiếp, những
hợp đồng kinh tế đợc hình thành đều có hiệu lực pháp lý nh nhau và
các bên đều phải nghiêm chỉnh thực hiện các điều khoản đã cam kết.
Để cho hợp đồng kinh tế có hiệu lực, việc thoả thuận của các bên
phải đảm bảo những điều kiện sau:
- Nội dung thoả thuận không vi phạm pháp luật;
- Phải đảm bảo điều kiện chủ thể của hợp đồng;
- Đại diện ký kết hợp đồng phải đúng thẩm quyền
Nếu không đảm bảo một trong các điều kiện này, hợp đồng sẽ
trở thành vô hiệu.
Mỗi cách ký kết đều có những u điểm và nhợc điểm riêng của
nó, lựa chọn cách nào là quyền của các chủ thể ký kết, song việc lựa
chọn luôn luôn phải tính đến hiệu quả kinh tế, thời cơ kinh doanh.
Các chủ thể cũng có thể kết hợp cả hai phơng pháp ký kết để xác
lập một quan hệ hợp đồng kinh tế.
III.Chế độ thực hiện hợp đồng kinh tế
1. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng kinh tế:
Sau khi ký hợp đồng kinh tế và hợp đồng kinh tế có hiệu lực, các
bên bị ràng buộc vào trách nhiệm thực hiện các cam kết trong hợp đồng.
Mọi hành vi không thực hiện hợp đồng và thực hiện không đầy đủ đều đợc
coi là vi phạm hợp đồng và chịu trách nhiệm vật chất. Để cho hợp đồng đ-
ợc thực hiện một cách đầy đủ và đúng đòi hỏi các bên phải tuân thủ các
nguyên tắc sau đây:
27