Tải bản đầy đủ (.docx) (116 trang)

Thực trạng văn hóa doanh nghiệp và một số giải pháp xây dựng văn hóa doanh nghiệp ở Công ty cổ phần Tam Kim

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.84 KB, 116 trang )

1
Luận văn tốt nghiệp
Lời nói đầu
“Hồi thế chiến thứ 2, có một nhà máy in ở Đức bị tàn phá, Đức quốc xã
chiếm dụng làm cơ sở quân dụng. Chiến tranh đi qua, có 2 người đến nhặt từng
viên gạch, cặm cụi xếp lại thành đống. Một người đi tới hỏi: “Vì sao các anh
làm việc này?”. Họ trả lời: “Chúng tôi làm theo tâm nguyện của ông chủ, phải
xây dựng lại nhà máy ”. Người hỏi đó chính là ông chủ và họ cùng ôm nhau
khóc, quyết tâm xây lại nhà máy”.
“Trong sự nghiệp của mình, ông chủ - người sáng lập tập đoàn Samsung
- ước muốn sản xuất cho được chip điện tử. Nhưng ông không hoàn thành tâm
nguyện. Trước khi qua đời, ông nói với các cộng sự: “Tôi không làm được thì
các anh làm, rồi hãy đem nó đặt lên mộ tôi ”. Kết quả là hiện nay, Samsung trở
thành một trong những tập đoàn hàng đầu thế giới về sản xuất chip điện tử”.
Xây dựng Văn hóa Doanh nghiệp (VHDN) vẫn còn là một vấn đề khá
mới mẻ đối với hầu hết các Doanh nghiệp Việt Nam. Tại Việt Nam chưa thực sự
có một Doanh nghiệp nào xứng tầm khu vực, chưa có sản phẩm hay dịch vụ nào
làm lay động thị trường quốc tế; ngoài những lí do về trình độ quản lý, nguồn
nhân lực, nguồn tài chính…thì thiếu VHDN cũng là một trong những yếu tố góp
phần cho sự hổ thẹn ấy. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế như hiện nay,
các nhà quản lý cần có một cái nhìn toàn diện, một sự quan tâm thích đáng đến
1 | P a g e
1
2
Luận văn tốt nghiệp
việc xây dựng văn hóa Doanh nghiệp của Công ty mình, không thể để cho nó
phát triển tự phát.
VHDN không hiện hữu một cách thường trực, đầu tư xây dựng VHDN
không phải ngày một ngày hai mà hiệu quả của nó cũng khó có thể đong đếm
được, do vậy VHDN không thực sự được các Doanh nghiệp Việt Nam quan tâm
một cách đúng đắn. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này nhằm cho thấy


được vai trò quan trọng của VHDN đối với sự tồn tại và phát triển của Doanh
nghiệp đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh ngày nay.
Chuyên đề thực tập với đề tài “Một số giải pháp nhằm xây dựng văn hóa
Doanh nghiệp ở Công ty Cổ phần Tam Kim” nêu lên cơ sở lý luận về Doanh
nghiệp, Văn hoá, Văn hoá Doanh nghiệp; thực trạng Văn hoá Doanh nghiệp và một
số biện pháp nhằm xây dựng VHDN ở Công ty Cổ phần Tam Kim với hy vọng
công ty sẽ vận dụng sức mạnh VHDN để đạt được những thành công to lớn trong
quá trình kinh tế Việt Nam hội nhập với kinh tế Thế giới.

Hà nội, ngày 10/4/2008.
2 | P a g e
2
3
Luận văn tốt nghiệp
Chương I: Cở sở lý luận về Doanh nghiệp, Văn hoá và Văn hoá doanh nghiệp.
I. Khái niệm Doanh nghiệp, Văn hoá và Văn hoá doanh nghiệp:
1. Khái niệm Doanh nghiệp.
1.1. Khái niệm Doanh nghiệp:
Là một tổ chức có trụ sở, con dấu, tài sản… thực hiện hoạt động kinh
doanh, nhằm mục tiêu tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở hữu, xét
3 | P a g e
3
4
Luận văn tốt nghiệp
trong dài hạn thì mục tiêu của Doanh nghiệp là tối đa hóa lợi
nhuận.
Hiện nay ở Việt Nam có 6 loại hình Doanh nghiệp, đó là: Doanh
nghiệp Nhà nước, Công ty TNHH 2 thành viên trở lên, Công ty Cổ
phần, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Hợp tác xã.
1.2. Các quan điểm về Doanh nghiệp:

a. Sự ngự trị của máy móc-Doanh nghiệp được xem như một cỗ máy:
Người ta tìm thấy dấu vết của quan điểm này trong thực tiễn của các
doanh nghiệp chính thức đầu tiên, các doanh nghiệp này có cấu trúc hình tháp,
đó là việc chuyên môn hoá các hoạt động của con người. Tuy nhiên với sự ra đời
và phát triển của máy móc, nhất là từ cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu
và Châu Mỹ thì quan niệm doanh nghiệp thực sự máy móc vì việc sử dụng máy
móc chủ yếu trong công nghiệp đã đòi hỏi các Doanh nghiệp thích nghi với yêu
cầu của máy móc. Cách tiếp cận này xem xét doanh nghiệp như một cỗ máy, coi
mỗi con người, mỗi bộ phận của Doanh nghiệp như một bộ phận, một chi tiết
của cỗ máy hoàn chỉnh được Adam Smith (Anh) ca ngợi, được Frédéric Đại đế
(Nước Phổ) vận dụng triệt để, được Frederick Taylor (Mỹ) , Henri Fayol (Pháp),
F.W. Mooney (Mỹ) và Lyndall Urwick (Anh) phát triển thành học thuyết quản
lý.
Doanh nghiệp được xem như một cỗ máy với con người là các bộ phận,
chi tiết nên nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của họ đều rõ ràng, sự phân công
4 | P a g e
4
5
Luận văn tốt nghiệp
chuyên môn hoá là hết sức chặt chẽ để phục vụ cho mục tiêu chung. Mối quan
hệ giữa những con người đều mang tính chính thức. Mỗi người, mỗi vị trí, mỗi
hành động đều được chuẩn hoá. Nếu một người nào đó, do sự cố không tham dự
vào Doanh nghiệp nữa, thì người đứng đầu Doanh nghiệp có thể thay thế anh ta
bằng bất kỳ ai đạt đủ các tiêu chuẩn tương đương, giống như một người đi xe
gắn máy thay chiếc xích bị rão bằng một chiếc xích khác của bất cứ nước nào,
do bất cứ doanh nghiệp nào sản xuất, miễn là xích đó có cùng chủng loại và kích
cỡ.
Doanh nghiệp là một cỗ máy, cho nên mục tiêu của Doanh nghiệp phải cố
định và hiệu quả của việc sản xuất phải rất cao. Kế hoạch đặt ra cho Doanh
nghiệp là chuẩn xác, việc kiểm tra thực hiện kế hoạch cũng thuận tiện rõ ràng.

Một người trong Doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả thì cả Doanh nghiệp
chịu ảnh hưởng theo, do đó đòi hỏi mọi người trong Doanh nghiệp phải làm tốt
nhiệm vụ mà mình đảm nhận.
Doanh nghiệp là một cỗ máy nên vị trí của các chi tiết không thể lắp đặt
tuỳ tiện. Việc của người nào trong tổ chức phải do người đó thực hiện theo
hướng chuyên môn hoá không thể xáo trộn bất thường.
- Ưu điểm của quan điểm xem Doanh nghiệp như một cỗ máy là sự chuyên môn
hoá cao độ trong tổ chức theo hướng từ tiêu chuẩn hoá đến hiện đại hoá, nhờ đó
Doanh nghiệp được vận hành đề đặn với hiệu quả cao. Mỗi người trong Doanh
nghiệp đều ý thức được vị trí của mình và của mọi người khác. Mục tiêu, kế
5 | P a g e
5
6
Luận văn tốt nghiệp
hoạch, công tác kiểm tra của từng Doanh nghiệp được đặt ra rõ ràng. Việc thay
thế con người trong tổ chức hết sức dễ dàng, thuận tiện cho việc đưa được người
giỏi vào tổ chức.
- Nhược điểm của quan điểm xem Doanh nghiệp như một cỗ máy là yếu tố con
người không được coi trọng, tính sáng tạo không được đề cao. Doanh nghiệp
được xây dựng và quản lý theo quan điểm cỗ máy khó thích nghi được với biến
động của môi trường. Doanh nghiệp được xem như một cỗ máy, mỗi người là
một chi tiết máy thì nhiệm vụ phải được phân công hết sức rõ ràng, ít phức tạp,
mà điều này ít khi xảy ra trong một thời gian dài của Doanh nghiệp, một mắt
xích có vấn đề là cả bộ máy ngừng hoạt động.
b. Sự can thiệp của giới tự nhiên-Doanh nghiệp được coi là một cơ thể
sống:
Doanh nghiệp là một hệ thống tồn tại trong một môi trường rộng lớn hơn
nhằm thực hiện những mục đích khác nhau. Là một hệ thống mở, Doanh nghiệp
được nhìn nhận như các quá trình liên tục hơn là một tập hợp các bộ phận. Khi
các quá trình cơ bản hoạt động lâu dài thì hệ thống sẽ tồn tại. Trong quá trình

hoạt động tổ chức phải đảm bảo được sự cân bằng bên trong và với bên ngoài,
phải không ngừng củng cố và phát triển mối liên hệ với các tổ chức khác.
Doanh nghiệp là một cơ thể sống nên phải được đáp ứng những nhu cầu
để tồn tại và phát triển. Quan điểm này coi tồn tại là mục tiêu đầu tiên mà bất kì
doanh nghiệp nào cũng phải đạt được để thực hiện sứ mệnh của mình. Nhu cầu
6 | P a g e
6
7
Luận văn tốt nghiệp
của cơ thể được đáp ứng thì mỗi bộ phận của cơ thể cũng được đáp ứng theo
bằng những phương thức và liều lượng khác nhau. Như vậy, người đứng đầu
Doanh nghiệp phải chăm lo xử lý lợi ích, nhu cầu của Doan nghiệp mình và họ
có nhiệm vụ phân phối lại các lợi ích đã thu nhận được cho các cá nhân trong tổ
chức.
Doanh nghiệp là một cơ thể sống, có nghĩa là nó phải có môi trường sống
(có không gian và thời gian mà trong đó Doanh nghiệp tồn tại và phát triển).
Quan hệ đầu tiên phải đề cập tới giữa cơ thể sống với môi trường là khả năng
thích nghi. Nếu cơ thể không thích nghi được với các rủi ro và ngẫu nhiên của
môi trường thì nó sẽ bị tiêu diệt.
Đa dạng như giới sinh vật, Doan nghiệp bao gồm nhiều loại khác nhau,
được phân chia theo nhều tiêu chí khác nhau. Những người thành lập Doanh
nghiệp luôn có một dải rộng để lựa chọn hình thái tồn tại cho Doanh nghiệp và
hiệu quả của tổ chức phụ thuộc vào chất lượng của sự lựa chọn này.
- Ưu điểm của quan điểm xem doanh nghiệp như một cơ thể sống là sự quan tâm
của các nhà quản lý đến vấn đề con người. Với quan điểm này họ sẽ cố gắng để
đảm bảo tính thích nghi của tổ chức với môi trường, biết chấp nhận những sự đe
doạ và rủi ro đến từ môi trường, thận trọng khi lựa chọn hình thái cơ cấu cho
Doanh nghiệp, chăm lo đến công tác phát triển Doanh nghiệp.
- Nhược diểm: Quan điểm xem Doanh nghiệp như một cơ thể sống có thể dẫn
chúng ta đến mong muốn nhìn nhận các Doanh nghiệp và môi trường của nó

7 | P a g e
7
8
Luận văn tốt nghiệp
một cách quá cụ thể mà điều này thì khó mà làm được. Đặc biệt, cách tiếp cận
sự tiến hoá của các Doanh nghiệp dựa trên nguyên tắc chọn lọc tự nhiên (môi
trường chọn lọc các Doanh nghiệp được sống sót) đã bỏ qua khả năng của các tổ
chức và các thành viên của nó góp phần xây dựng tương lai của chính họ và có
thể có những tác động tích cực tới môi trường.
c. Hướng tới khả năng tự tổ chức-Doanh nghiệp được xem như một bộ não:
Cách tiếp cận Doanh nghiệp theo quan điểm này đã xuất hiện trong những
năm 1940 và 1950, buổi ban đầu của kỷ nguyên thông tin với những người đi
tiên phong như Herbert Simon và Norbert Wiener, Fred Emery (Australia),
William Ouchi (Nhật).
Quan điểm coi Doanh nghiệp là một bộ não cho rằng:
Doanh nghiệp là một hệ xử lý thông tin và ra quyết định. Các quyết định
của Doanh nghiệp không bao giờ là hoàn toàn hợp lý (có tính hợp lý hạn chế)
bởi các thành viên của tổ chức chỉ có năng lực hạn chế trong xử lý thông tin.
Chính hệ thống thông tin cấu thành Doanh nghiệp. Các bộ phận, phần tử
của Doanh nghiệp có thể tồn tại tương đối độc lập nhưng tổ chức vẫn đảm bảo
mọi tính chất thích hợp nếu xây dựng được hệ thống truyền thông tốt. Điều này
tạo khả năng cho Doanh nghiệp tồn tại không cần địa điểm rõ ràng, các thành
viên của nó có thể liên hệ với nhau qua máy vi tính và các thiết bị nghe nhìn,
còn người máy được điều khiển từ xa để làm các công việc cơ bắp. Những
Doanh nghiệp như vậy đã và đang phát triển trong thực tế.
8 | P a g e
8
9
Luận văn tốt nghiệp
Với quá trình trao đổi thông tin liên hệ ngược, Doanh nghiệp có khả năng

tự điều chỉnh, duy trì khả năng thích nghi và trạng thái ổn dịnh.
- Ưu điểm: Suốt trong nhiều thập niên trôi qua kể từ khi Simon đưa ra khái niệm
về quá trình thông tin và ra quyết định trong Doanh nghiệp nhiều nhà nghiên
cứu đã đóng góp công sức để nâng cao khả năng quản lý Doanh nghiệp trước
tính phức tạp và bất định của môi trường. Quan điểm này là cơ sở để hình thành
các nghành khoa học mới như điều khiển học và lý thuyết thông tin, giúp chúng
ta hiểu được các hình thức học tập nổi bật trong Doanh nghiệp (hỏi đáp và tự
phê) và khả năng tự tổ chức của chúng. Đồng thời mở ra khả năng sử dụng tin
học để hình thành các dạng Doanh nghiệp mới.
- Nhược điểm: Với quan điểm này các Doanh nghiệp phải bằng lòng với các
quyết định “thoả đáng” dựa trên các phương pháp có tính kinh nghiệm giản đơn
và trên một lượng thông tin hạn chế. Có nguy cơ không chú ý đến những xung
khắc nghiêm trọng giữa đòi hỏi học tập và tự tổ chức với các thực tế của quyền
hành và kiểm tra. Tự tổ chức đòi hỏi sự thay đổi thái độ: ưu tiên tính chủ động
chứ không phải thụ động, độc lập chứ không phụ thuộc, linh hoạt chứ không
cứng nhắc, hợp tác hơn là cạnh tranh, cởi mở trí tuệ hơn là trói buộc, đàm đạo
dân chủ hơn là đức tin độc đoán. Đối với nhiều Doanh nghiệp , điều đó đòi hỏi
“sự thay đổi tính cách” với những khoảng thời gian đáng kể chứ không thể làm
ngay như thiết kế và xây dựng hệ thống thông tin cho những hệ thống cơ học.
9 | P a g e
9
10
Luận văn tốt nghiệp
d. Tạo dựng hiện thực xã hội- Doanh nghiệp được nhìn nhận như một nền
văn hoá:
Quan điểm coi Doanh nghiệp là một nền văn hoá phát triển từ những năm
1970, từ khi nước Nhật vươn lên hàng cường quốc kinh tế lớn. Mặc dù các nhà
lý luận còn chưa nhất trí về nguyên nhân của sự đổi thay của nước Nhật, song
phần lớn đều cho rằng nền văn hoá, đặc biệt là lối sống đã giữ vai trò hàng đầu.
Những đổi thay trong cán cân quyền lực thế giới và xu thế quốc tế hoá đã làm

nổi bật sự cần thiết phải tìm hiểu các mối liên hệ giữa văn hoá, đời sống văn hoá
và đời sống Doanh nghiệp. Những yếu tố cơ bản của quan điểm này là:
Doanh nghiệp bản thân nó là một hiện tượng văn hoá với hệ thống nhận
thức, những giá trị, những chuẩn mực, những lễ nghi hàng ngày, những điều
cấm kị của mình. Văn hoá là “xi măng chuẩn” gắn kết các bộ phận và con người
của Doanh nghiệp thành một khối thống nhất, làm tăng cường khả năng phối
hợp để đạt mục đích chung.
Văn hoá Doanh nghiệp là kết quả của sự kế thừa các giá trị trong quá khứ,
là sự sáng tạo trong hiện tại và trong tương lai. Điều này khẳng định vai trò của
truyền thống, sự sáng tạo của con người trong hiện tại và vai trò của quản lý
chiến lược để đạt đến giai đoạn phát triển cao trong môi trường luôn biến động.
Văn hoá có những điểm khác nhau giữa các xã hội, các Doanh nghiệp, tạo
nên bản sắc cho mỗi nền văn hoá. Lĩnh hội những ưu điểm của các nền văn hoá
10 | P a g e
10
11
Luận văn tốt nghiệp
khác trong điều kiện phát huy bản sắc văn hoá của mình là con đường dẫn đến
sự tiến bộ của các tổ chức.
- Ưu điểm của quan điểm xem Doanh nghiệp như một nền văn hoá chính là ở chỗ
nó lấy văn hóa là nền tảng tinh thần của Doanh nghiệp. Giống như lề thói của xã
hội, văn hoá dễ được mọi người chấp nhận tự giác mà không cần phải tốn công
rèn luyện. Nhờ có quan điểm này, Doanh nghiệp hình thành được các quy tắc xử
sự theo khía cạnh hợp lý nhất cho đời sống của nó. Sức sống của một Doanh
nghiệp được dựa trên một nền văn hoá bất diệt, nó có khả năng đối phó với các
đối thủ cạnh tranh và dễ dàng chỉnh lý các sai phạm trong Doanh nghiệp.
- Nhược điểm của cách tiếp cận Doanh nghiệp như một nền văn hoá là có thể đưa
một số nhà quản lý tới quan niệm cho rằng mình là người cha tinh thần của
Doanh nghiệp, có vai trò xây dựng nên các giá trị mới, chuẩn mực mới cho
Doanh nghiệp. Quan điểm này cũng có thể dẫn đến tính mù quáng ý thức hệ

trong Doanh nghiệp. Nhiều nhà lý luận quản lý coi văn hoá như một chỉnh thể
tách biệt, có những đặc trưng khá xác định, có thể sử dụng như một công cụ.
Trong khi đó văn hoá mang tính chất toàn cảnh khó mà bóc tách thành các bộ
phận và những nhà lãnh đạo Doanh nghiệp có thể ảnh hưởng đến diễn biến của
văn hoá chứ không thể khống chế được văn hoá.
e. Lợi ích, xung đột và quyền lực - Doanh nghiệp được coi như một hệ thống chính
trị:
11 | P a g e
11
12
Luận văn tốt nghiệp
Quan điểm coi Doanh nghiệp là một hệ thống chính trị đã xuất hiện từ
thời Aristote (384-322TCN). Theo cách tiếp cận này thì:
Doanh nghiệp là một tập hợp những con người có chung lợi ích. Tuy
thống nhất với nhau ở những lợi ích cơ bản, Doanh nghiệp có thể sẽ đem lại lợi
ích cho một số người này nhiều hơn người khác. Mâu thuẫn về lợi ích làm xuất
hiện trong Doanh nghiệp những xung đột.
Để bảo vệ lợi ích và giành lấy phần lợi ích lớn hơn, con người ta phải có
quyền lực. Những căng thẳng giữa lợi ích riêng và lợi ích của Doanh nghiệp đã
hướng đạo con người, dẫn dắt họ hành động một cách khôn khéo.
Con người trước hết muốn quyền lực và trò chơi quyền lực là một trong
những yếu tố cơ bản nhất của con người.
Các mối quan hệ về lợi ích và quyền lực tác động lên cấu trúc và trật tự
của Doanh nghiệp, có tác dụng cấu trúc lại các quan hệ trong Doanh nghiệp,
giữa các Doanh nghiệp và xã hội.
- Ưu điểm: Những tư tưởng trên đã giúp chúng ta chấp nhận thực tế rằng chính trị
là một yếu tố tất yếu trong đời sống Doanh nghiệp, thừa nhận vai trò của nó
trong việc tạo dựng trật tự xã hội. Nó cởi bỏ huyền thoại về tính hợp lý và tính
thống nhất của các Doanh nghiệp, khẳng định vai trò của các nhà quản lý trong
quá trình giải quyết xung đột. Quan điểm này cũng cho ta thấy vai trò chủ động

của chính trị trong mối quan hệ đối với kinh tế.
12 | P a g e
12
13
Luận văn tốt nghiệp
- Nhược điểm: Trước hết, sự phân tích lợi ích, xung đột và quyền lực có nguy cơ
dẫn con người tới những cách lý giải xảo quyệt, cho rằng từng người có thể tìm
cách để thông minh hơn, khéo léo hơn người khác. Đáng lẽ quan điểm chính trị
phải trang bị cho chúng ta những tư tưởng mới, cách hiểu mới để phối hợp các
lợi ích khác nhau thì chúng ta lại có thể quy nó thành một công cụ để phục vụ
lợi ích riêng của mình. Đồng thời những người theo quan điểm này có thể đi đến
chỗ quá nhấn mạnh quyền lực và vai trò cá nhân mà xem thường tính năng động
của cả Doanh nghiệp như một chỉnh thể thống nhất.
f. Trình bày logic của sự thay đổi- Doanh nghiệp được nhìn nhận như một dòng
chảy và như sự biến hoá:
Vào những năm 500 trước công nguyên, nhà triết học Hy Lạp, Heraclite,
nhận xét rằng “Không thể nhúng chân hai lần xuống cùng một dòng sông vì
dòng nước không bao giờ ngừng chảy”. Quan điểm coi Doanh nghiệp như một
dòng chảy và sự tiến hoá được đặc trưng bởi một số nội dung:
Doanh nghiệp là một tổng thể thống nhất không thể chia cắt và không thể
ổn định.
Doanh nghiệp mang tính tự lập, môt hệ đóng, tính tuần hoàn, không có
bắt đầu mà cũng không có kết thúc và tính tự quy chiếu, coi mình là tâm điểm.
Điều đó cho phép nó tự hình thành và tự đổi mới
Môi trường của Doanh nghiệp thực ra là một phần của Doanh nghiệp.
13 | P a g e
13
14
Luận văn tốt nghiệp
- Ưu điểm: Quan điểm trên đã làm sáng tỏ quá trình phát sinh, phát triển, ổn định

và thoái hoá liên tục của doanh nghiệp để từ đó tìm ra phương thức hoạt động
phù hợp với từng giai đoạn trong tiến trình phát triển của mình.
- Nhược điểm:
+ Việc coi Doanh nghiệp là một hệ thống đóng mang tính tự quy chiếu có thể sẽ
không cho phép các nhà quản lý thấy được vai trò quan trọng của môi trường
đối với sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp.
+ Vì coi Doanh nghiệp luôn biến chuyển như các dòng chảy hết thịnh lại suy,
hết suy lại thịnh; con người dễ nảy sinh tư tưởng hoài nghi sự vững bền tương
đối của các Doanh nghiệp mà mình đang sống và hoạt động trong đó.
Ngoài những quan điểm trên, còn tồn tại nhiều quan điểm khác nữa về
Doanh nghiệp. Những quan điểm khác nhau về Doanh nghiệp xuất phát từ việc
nghiên cứu Doanh nghiệp từ những góc độ khác nhau. Nếu chỉ đứng về phía bất
cứ một quan điểm nào, ta cũng chỉ có được cách nhìn phiến diện về Doanh
nghiệp. Để quản lý Doanh nghiệp, các nhà quản lý phải nghiên cứu Doanh
nghiệp từ nhiều góc độ và có được quan điểm toàn thể về Doanh nghiệp.

2. Khái niệm Văn hoá và vai trò của Văn hoá.
2.1. Khái niệm Văn hoá:
Tại phương Tây, văn hoá-culture (trong tiếng Anh, Pháp) hay kultur (tiếng Đức)
… đều xuất xứ từ chữ Latinh cultus có nghĩa là khai hoang, trồng trọt, trông
14 | P a g e
14
15
Luận văn tốt nghiệp
nom cây lương thực; nói ngắn gọn là sự vun trồng. Sau đó từ cultus được mở
rộng nghĩa, dùng trong lĩnh vực xã hội chỉ sự vun trồng, giáo dục, đào tạo và
phát triển mọi khả năng của con người.
Ở phương Đông, trong tiếng Hán cổ, từ văn hoá bao hàm ý nghĩa: văn là
vẻ đẹp của nhân tính, cái đẹp của tri thức, trí tuệ con người có thể đạt được bằng
sự tu dưỡng của bản thân và cách thức cai trị đúng đắn của nhà cầm quyền. Còn

chữ hoá trong văn hoá là việc đem cái văn (cái đẹp, cái tốt, cái đúng) để cảm
hoá, giáo dục và hiện thực hoá trong thực tiễn đời sống. Vậy văn hoá chính là
nhân hoá hay nhân văn hoá. Đường lối văn trị hay đức trị của Khổng Tử là từ
quan điểm cơ bản này về văn hóa (văn hóa là văn trị giáo hoá, là giáo dục, cảm
hoá bằng điển chương, lễ nhạc, không dùng hình phạt tàn bạo và sự cưỡng bức).
Như vậy, văn hoá trong từ nguyên của cả Phương Đông và Phương Tây
đều có một nghĩa chung căn bản là sự giáo hoá, vun trồng nhân cách con người
(bao gồm cá nhân, cộng đồng và xã hội loài người), cũng có nghĩa là làm cho
con người và cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.
Theo phạm vi nghiên cứu rộng nhất, văn hoá là tổng thể nói chung những
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.
Loài người là một bộ phận của tự nhiên nhưng khác với các sinh vật khác,
loài người có một khoảng trời riêng, một thiên nhiên thứ hai do loài người tạo ra
bằng lao động và tri thức - đó chính là văn hoá.
15 | P a g e
15
16
Luận văn tốt nghiệp
2.2. Vai trò của Văn hoá đối với sự phát triển của xã hội:
a. Văn hoá là mục tiêu của sự phát triển xã hội:
Có quan điểm cho rằng: Sự phát triển của các quốc gia chính là sự tăng trưởng
cao về mặt kinh tế. Quan điểm này có nguồn gốc từ lí luận “quyết định luật kinh
tế” cho rằng kinh tế quy định, quyết định mọi mặt của đời sống xã hội và vì vậy,
phát triển kinh tế bằng mọi hình thức và với bất kì giá nào là mục đích tối cao
của các quốc gia.
Nhưng thực tế cũng cho thấy rằng việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng
kinh tế bằng mọi giá có những thành tựu là nhu cầu vật chất của dân cư được
đáp ứng, các thành tựu về khoa học công nghệ đã giúp con người thám hiểm
được vũ trụ, đại dương…, nhưng kèm theo đó là biết bao hậu quả nghiêm trọng
đe doạ cuộc sống con người như ô nhiễm môi trường, thiên tai, bệnh tật…

Để lập lại sự cân bằng giữa tự nhiên và con người, giữa tăng trưởng kinh
tế với ổn định và phát triển hài hoà trình độ phát triển của các quốc gia không
chỉ căn cứ vào sự tăng trưởng hay phát triển kinh tế của nó, mà thước đo sự phát
triển quốc gia căn cứ vào mức độ phát triển con người (HDI-Human
development index). Đó là một hệ thống gồm ba chỉ tiêu cơ bản: (1) mức độ
phát triển kinh tế đo bằng mức sống bình quân của người dân (GDP/ người); (2)
Tiến bộ về y tế đo bằng tuổi thọ trung bình của người dân; (3) trình độ hay tiến
bộ về giáo dục căn cứ vào tỷ lệ người biết chữ và số năm đi học trung bình của
người dân.
16 | P a g e
16
17
Luận văn tốt nghiệp
Như vậy, mục đích hay mục tiêu cao cả nhất của các quốc gia phải là sự
phát triển con người toàn diện, là việc nâng cao chất lượng sống cho nhân dân
chứ không phải là mục tiêu phát triển kinh tế hay phát triển một số bộ phận, một
số mặt nào đó của đời sống xã hội. Và văn hoá theo nghĩa rộng nhất, nghĩa được
sử dụng phổ biến, với tư cách là phương thức sống và sự phát triển con người
toàn diện, chính là mục tiêu tối thượng cho sự phát triển của các quốc gia.
Đó cũng là những quan điểm của Liên Hiệp Quốc trong hơn hai thập kỷ
qua. Cựu tổng thư ký LHQ (J. Cuellar-1996) đã khẳng định: “Dù văn hoá là yếu
tố quan trọng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển, nó không thể bị hạ thấp
thành một nhân tố tích cực hoặc tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế. Trái lại
văn hoá là mục đích cuối cùng của sự phát triển đầy đủ, nghĩa là văn hoá được
coi là mục đích phát triển con người một cách toàn diện”. Trong dịp phát động
Thập kỷ Quốc tế phát triển văn hoá của Liên Hiệp Quốc (1988-1997), ông Tổng
Giám đốc UNESCO đã tuyên bố: “…Tóm lại, động cơ và mục đích của sự phát
triển phải được tìm trong văn hoá. Từng Doanh nghiệp, các địa phương, mọi
người, các nhà chức trách phải kịp thời nắm lấy bài học này”.
b. Văn hóa là động lực của sự phát triển xã hội:

Động lực của sự phát triển là cái thúc đẩy sự phát triển khi bản thân sự phát triển
đó đã có, đã nảy sinh. Muốn biết những động lực của sự phát triển xã hội cần
phải tìm ra những yếu tố gây nên, kích thích, thúc đẩy sự hoạt động của con
người và trước hết là của khối đông người.
17 | P a g e
17
18
Luận văn tốt nghiệp
Động lực của sự phát triển xã hội hay của một quốc gia là một hệ thống
động lực mà trong đó văn hoá có vị trí trung tâm là cốt lõi của nó. Một số lý do
chính để văn hoá có vai trò tạo ra sự kích thích, thúc đẩy và phát triển của các
quốc gia và sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung như sau:
+ Thứ nhất: Văn hoá với hệ thống các thành tố của nó, bao gồm các giá trị
vật chất như máy móc dây chuyền công nghệ, công trình kiến trúc, sản phẩm
hàng hoá và dịch vụ… và các giá trị tinh thần như các phát minh sáng kiến, lối
sống, tín ngưỡng, phong tục tập quán, nghệ thuật âm thanh, lễ hội, sân khấu
tuồng chèo kịch, nghề thủ công ngôn ngữ, văn chương, nhiếp ảnh, điện ảnh…
chính là “kiểu” sống của một dân tộc nhất định; nó là lối sống đặc thù và rất ổn
định của dân tộc ấy. Trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nếu
kiểu sống của dân tộc phù hợp với các yếu tố của văn minh (thường có nguồn
gốc ngoại sinh); phù hợp giữa hiện đại và truyền thống thì văn hoá sẽ cổ vũ,
tăng cường cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Trái lại, khi truyền thống không
phù hợp và chống lại hiện đại, khi đó văn hoá sẽ trở thành lực lượng kìm hãm
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kìm hãm sự phát triển.
+ Thứ hai: Văn hoá có thể trở thành một nguồn lực, sức mạnh tinh thần vô
hình nhưng vô cùng mạnh mẽ đối với sự phát triển của xã hội. Đây là nguồn lực
tồn tại tiềm ẩn trong mỗi cá nhân cũng như cộng đồng dân tộc. Nhưng tại thời
điểm đặc biệt - khi xuất hiện nguy cơ đối với sự tồn vong của quốc gia dân tộc -
nếu Nhà nước có một ý chí lớn và sự khôn ngoan biết đánh thức, khơi dậy và
18 | P a g e

18
19
Luận văn tốt nghiệp
phát huy sức mạnh văn hóa thì sẽ tạo ra được một động lực rất mạnh mẽ thúc cả
đất nước đi lên.
+ Thứ ba: Các loại hình văn hoá nghệ thuật, các sản phẩm văn hoá hữu
hình và vô hình nếu được khai thác và phát triển hợp lý sẽ tạo ra sự giàu có về
đời sống vật chất và tinh thần của quốc gia, tạo động lực phát triển xã hội.
c. Văn hoá là linh hồn và hệ điều tiết của sự phát triển:
Vai trò của các Nhà nước là lãnh đạo và quản lý sự phát triển kinh tế- xã hội của
quốc gia. Để thực hiện vai trò này, Nhà nước phải định ra đường lối, kế hoạch,
mô hình và các chiến lược phát triển của quốc gia. Trong các công việc và quá
trình này, văn hoá đóng vai trò là “tính quy định” của sự phát triển, là nhân tố cơ
bản mà Nhà nước cần phải dựa vào để tạo lập và vận hành một mô hình phát
triển, một kiểu phát triển quốc gia mà nó cho là tốt nhất hay tối ưu nhất.
Nhân tố văn hóa có mặt trong mọi công tác, hoạt động xã hội và thường
tác động tới con người một cách gián tiếp, vô hình tạo ra các khuôn mẫu xã hội.
Do đó, văn hoá đóng vai trò điều tiết, dẫn đắt sự phát triển thể hiện ở mọi mặt
của đời sống xã hội: Chính trị, hành chính Nhà nước, phát triển kinh tế, giáo
dục, ngoại giao…sự định hướng và tác động của văn hoá sẽ mạnh mẽ hơn,hiệu
quả hơn nếu Nhà nước tổ chức nghiên cứu tìm ra hệ thống các giá trị văn hoá
của dân tộc và chính thức phát huy, phát triển bản sắc của dân tộc trong mọi mặt
và quá trình phát triển xã hội.
19 | P a g e
19
20
Luận văn tốt nghiệp
Như vậy, có hai quyền lực khác nhau cùng lãnh đạo quá trình phát triển
xã hội:
- Thứ nhất: Quyền lực chính trị của Nhà nước được tập chung trong sức mạnh của

pháp luật có tính cưỡng chế, trực tiếp, hiệu lực nhanh…
- Thứ hai: Quyền lực của văn hoá dân tộc được tập chung trong một hệ thống các
giá trị, có tính tự giác, gián tiếp, truyền thống, hiệu lực của nó thường chậm
nhưng được duy trì lâu dài.
Trong thực tế, mối quan hệ giữa hai lực lượng lãnh đạo - lực hướng dẫn
xã hội này thường diễn ra theo ba trường hợp chính sau đây;
- - Thứ nhất: Với những nền chính trị phi nhân tính, tàn bạo; với
những sự lãnh đạo bất hợp lý, thổi phồng, bóp méo và chà đạp lên nền văn hóa
dân tộc, hoặc trái với các giá trị văn hoá phổ quát của loài người thì sự tồn tại
của Nhà nước đó sẽ rất ngắn ngủi, nhưng đồng thời, hậu quả và thảm kịch mà nó
gây ra cho xã hội thường hết sức to lớn và lâu dài. Điển hình cho trường hợp này
là chế độ phát xít Hítle ở Đức, nhà nước của bọn Khơme đỏ ở Campuchia…
- Thứ hai: Khi sự lãnh đạo có thể hợp lý về mặt kinh tế hay chính trị nhưng đi
ngược với văn hoá thì lợi ích mà xã hội thu được có thể không bù đắp được cho
những thiệt hại về văn hoá - chính là về chất lượng sống và sự phát triển của
nhân dân. Ví dụ: Chính sách công nghiệp hoá, chính sách phát triển kinh tế bằng
mọi giá mà không chú trọng tới việc bảo vệ môi trường sinh thái của một số Nhà
nước Phương Tây đã đảm bảo được nhu cầu vật chất trước mắt nhưng ô nhiễm
20 | P a g e
20
21
Luận văn tốt nghiệp
môi trường càng ngày càng nghiêm trọng, các truyền thống xã hội tốt đẹp không
duy trì, từ đó sẽ dẫn đến không đạt được các lợi ích lâu dài.
- Thứ ba: Sự lãnh đạo chính trị hoà hợp với nguồn lực văn hoá thì sẽ tạo ra một
văn hóa chính trị tốt đẹp, sự phát triển kinh tế phù hợp với các giá trị chân -
thiện- mỹ của văn hóa. Trong trường hợp này văn hoá sẽ có vai trò vừa là động
lực vừa là hệ điều tiết xã hội. Hiệu quả điều tiết xã hội của văn hoá sẽ cao khi
các giá trị văn hoá thấm sâu vào chính trị, khi sự lãnh đạo của Nhà nước không
đi chệch khỏi quỹ đạo của văn hoá; nói cách khác, khi kiểu lãnh đạo của Nhà

nước hoà hợp và cộng hưởng với kiểu sống và các giá trị của nhân dân được kết
tinh trong văn hoá.
Có thể nói, văn hóa đóng vai trò điều tiết và dẫn dắt sự phát triển của toàn
xã hội, điều này được thể hiện ở mọi mặt của đời sống như chính trị, hành chính
Nhà nước, phát triển kinh tế, giáo dục, ngoại giao… Do đó, văn hoá thường tác
động tới con người một cách gián tiếp thông qua các khuôn mẫu xã hội. Đồng
thời, sự định hướng và tác động của văn hóa sẽ mạnh mẽ và đạt hiệu quả cao
hơn nếu Nhà nước tổ chức nghiên cứu tìm ra các hệ thống giá trị của dân tộc,
chính thức phát huy các bản sắc dân tộc trong quá trình phát triển xã hội.
3. Khái niệm VHDN.
3.1. Khái niệm VHDN:
21 | P a g e
21
22
Luận văn tốt nghiệp
Trong một xã hội rộng lớn, mỗi Doanh nghiệp được coi là một xã hội thu
nhỏ. Xã hội lớn có nền văn hoá lớn, xã hội nhỏ (Doanh nghiệp) cũng cần xây
dựng cho mình một nền văn hoá riêng biệt. Nền văn hoá ấy chịu ảnh hưởng và
đồng thời cũng là một bộ phận cấu thành nền văn hoá lớn. Như Edgar Schein,
một nhà quản trị nổi tiếng người Mỹ đã nói: “ Văn hoá Doanh nghiệp gắn với
văn hoá xã hội, là một bước tiến của văn hoá xã hội, là tầng sâu của văn hoá xã
hội. Văn hoá Doanh nghiệp đòi hỏi vừa chú ý tới năng suất và hiệu quả sản xuất,
vừa chú ý quan hệ chủ thợ, quan hệ giữa người với người. Nói rộng ra nếu toàn
bộ nền sản xuất đều được xây dựng trên một nền văn hoá Doanh nghiệp có trình
độ cao, nền sản xuất sẽ vừa mang bản sắc dân tộc, vừa thích ứng với thời đại
hiện nay”.
Vào đầu những năm 70, sau sự thành công rực rỡ của các công ty Nhật
Bản, các công ty Mỹ chú ý tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến thành công đó. Cụm
từ Corporate culture (Văn hoá Doanh nghiệp) đã được các chuyên gia nghiên
cứu về tổ chức và các nhà quản lý sử dụng để chỉ một trong những tác nhânchủ

yếu dẫn tới sự thành công của các công ty Nhật trên khắp thế giới.
Đầu thập kỷ 90, người ta bắt đầu đi sâu nghiên cứu tìm hiểu về những
nhân tố cấu thành cũng như những tác động to lớn của văn hoá đối với sự phát
triển của một Doanh nghiệp. Đã có rất nhiều khái niệm văn hoá Doanh nghiệp
được đưa ra nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chuẩn nào được
chính thức công nhận.
22 | P a g e
22
23
Luận văn tốt nghiệp
Ông Saite Marie, chuyên gia người Pháp về doanh nghiệp vừa và nhỏ đưa
ra định nghĩa như sau: “ Văn hoá Doanh nghiệp là tổng hợp các giá trị, các biểu
tượng, huyền thoại, nghi thức, các điều cấm kỵ, các quan điểm triết học, đạo đức
tạo thành nền móng sâu xa của Doanh nghiệp”.
Một định nghĩa khác của tổ chức lao động quốc tế (ILO): “Văn hoá Doanh
nghiệp là sự trộn lẫn đặc biệt các giá trị, các tiêu chuẩn, thói quen và truyền
thống, những thái độ ứng xử và lễ nghi mà toàn bộ chúng là duy nhất đối với
một tổ chức đã biết”.
Tuy nhiên, định nghĩa phổ biến và được chấp nhận rộng rãi nhất là định
nghĩa của chuyên gia nghiên cứu các tổ chức Edgar Schein: “ Văn hoá công ty là
tổng hợp những quan niệm chung mà các thành viên trong công ty học được
trong quá trình giải quyết các vấn đề nội bộ và sử lý các vấn đề với môi trường
xung quanh”
Các khái niệm trên đều đã đề cập đến những nhân tố tinh thần của văn hoá
Doanh nghiệp như: Các quan niệm chung, các giá trị, các huyền thoại, nghi
thức… của Doanh nghiệp nhưng chưa đề cập đến nhân tố vật chất- nhân tố quan
trọng của văn hoá Doanh nghiệp.
Do đó, trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu của các học giả và hệ thống
nghiên cứu logic về văn hoá và văn hoá kinh doanh, văn hoá Doanh nghiệp được
định nghĩa như sau: “Văn hoá Doanh nghiệp là toàn bộ những nhân tố văn hoá

23 | P a g e
23
24
Luận văn tốt nghiệp
được Doanh nghiệp chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động kinh
doanh tạo nên bản sắc kinh doanh của Doanh nghiệp đó”.
3.2. Các cấp độ VHDN:
Theo Edgar H. Schein, văn hoá Doanh nghiệp có thể chia thành ba cấp độ
khác nhau. Thuật ngữ “cấp độ” dùng để chỉ mức độ có thể cảm nhận được của
các giá trị văn hoá Doanh nghiệp hay nói cách khác là tính hữu hình của các giá
trị văn hoá đó . Đây là cách tiếp cận độc đáo, đi từ hiện tượng đến bản chất của
một nền văn hoá, giúp cho chúng ta hiểu một cách đầy đủ và sâu sắc những bộ
phận cấu thành của nền văn hoá đó.
a. Cấp độ thứ nhất: Những quá trình và cấu trúc hữu hình của Doanh nghiệp:
Bao gồm tất cả những hiện tượng và sự vật mà một người có thể nhìn,
nghe và cảm thấy khi tiếp xúc với một tổ chức có nền văn hoá xa lạ như:
- Kiến trúc, cách bài trí; công nghệ, sản phẩm.
- Cơ cấu tổ chức, các phòng ban của Doanh nghiệp.
- Các văn bản quy định nguyên tắc hoạt động của Doanh nghiệp.
- Lễ nghi và lễ hội hàng năm.
- Các biểu tượng, logo, khẩu hiệu, tài liệu quảng cáo của Doanh nghiệp.
- Ngôn ngữ, cách ăn mặc, xe cộ, chức danh, cách biểu lộ cảm xúc, hành vi ứng xử
thường thấy của các thành viên và các nhóm làm việc trong Doanh nghiệp.
- Những câu chuyện và những huyền thoại về tổ chức.
- Hình thức, mẫu mã của sản phẩm.
24 | P a g e
24
25
Luận văn tốt nghiệp
- Thái độ và cung cách ứng xử của các thành viên Doanh nghiệp.

Đây là cấp độ văn hoá có thể nhận thấy ngay khi trong lần tiếp xúc đầu
tiên, nhất là với những yếu tố vật chất như: Kiến trúc, bài trí, đồng phục… Cấp
độ văn hoá này có đặc điểm chung là chịu ảnh hưởng nhiều của tính chất công
việc kinh doanh của công ty, quan điểm của người lãnh đạo…Tuy nhiên, cấp độ
văn hoá này dễ thay đổi và ít khi thể hiện được những giá trị thực sự trong
VHDN.
b. Cấp độ thứ hai: Những giá trị được tuyên bố (bao gồm các chiến lược, mục tiêu,
triết lý của Doanh nghiệp):
Doanh nghiệp nào cũng có những quy định, nguyên tắc, triết lý, chiến
lược và mục tiêu riêng, là kim chỉ nam cho hoạt động của toàn bộ nhân viên và
thường được công bố rộng rãi ra công chúng. Đây cũng chính là những giá trị
được công bố, một bộ phận của nền VHDN.
“Những giá trị tuyên bố” cũng có tính hữu hình vì người ta có thể nhận
biết và diễn đạt chúng một cách rõ ràng, chính xác. Chúng thực hiện chức năng
hướng dẫn cho các thành viên trong Doanh nghiệp cách thức đối phó với một số
tình thế cơ bản và rèn luyện cách ứng xử cho các thành viên mới trong môi
trường Doanh nghiệp.
c. Cấp độ thứ ba: Những quan niệm chung (những niềm tin, nhận thức, suy nghĩ
và tình cảm có tính vô thức, mặc nhiên được công nhận trong Doanh nghiệp):
25 | P a g e
25

×