Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

tìm hiểu thị trường chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.94 KB, 49 trang )

LờI NóI ĐầU
Lịch sử phát triển thị trờng chứng khoán (TTCK) đã khẳng định vai trò cơ
bản và rất quan trọng của thị trờng chứng khoán là khai thác và nâng cao hiệu
quả luân chuyển mọi nguồn vốn trong nền kinh tế. Thứ nhất, thị trờng chứng
khoán cung cấp kênh huy động mọi nguồn vốn trong nền kinh tế thông qua hàng
loạt các công cụ tài chính với các mức độ rủi ro khác nhau từ thấp đến cao.Thứ
hai, thị trờng chứng khoán giải quyết cơ bản mâu thuẫn giữa ngời cung cấp vốn
(chỉ muốn cung cấp vốn trong thời gian ngắn hoặc có thể rút vốn đầu t bất cứ lúc
nào nhằm tránh rủi ro) và ngời sử dụng vốn (muốn đợc sử dụng vốn lâu dài cho
các mục đích đầu t dài hạn theo chiều sâu để thu lợi nhuận lớn và bền vững hơn).
Sớm nhận thức đợc vai trò trên của TTCK, ngay từ những năm đầu của
công cuộc cải tổ nền kinh tế, Đảng và nhà nớc ta đã chủ trơng phải xây dựng và
phát triển TTCK Việt Nam có trật tự, dới sự quản lý của nhà nớc trên cơ sở đạt đ-
ợc sự chín muồi về các điều kiện cần thiết nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả
nhất nguồn vốn hạn hẹp của nền kinh tế, đảm bảo đợc mục tiêu vốn trong nớc là
quyết định trong chiến lợc huy động và sử dụng các nguồn vốn. Trên cơ sở chủ
trơng này, ngay từ đầu những năm 1990 chúng ta đã rất tích cực học hỏi kinh
nghiệm từ các nớc đi trớc, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc
hình thành và phát triển TTCK Việt Nam.
Ngày 20/7/2000 vừa qua, Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Tp
Hồ Chí Minh đã chính thức khai trơng đi vào hoạt động, đây là cột mốc quan
trọng trong tiến trình hình thành và phát triển thị trờng chứng khoán Việt Nam,
đồng thời là một bớc đột phá quan trọng trong chiến lợc khai thác và sử dụng
hiệu quả các nguồn lực tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nớc trong thế kỷ 21.Tuy nhiên cần nhận thức rõ rằng sự hiện diện của
1
một thể chế kinh tế bậc cao nh thị trờng chứng khoán dù là dới hình thức sơ khai,
trong một nền kinh tế mà trình độ phát triển nói chung còn thấp, cấu trúc thể chế
cơ bản của nền kinh tế này vẫn còn cha hoàn thiện thì tự nó chứa đựng hàng loạt
vấn đề lý luận và thực tiễn cần suy xét kỹ càng.Với đề tài này chúng ta sẽ nghiên
cứu tiến trình hoạt động của TTCK Việt Nam trong giai đoạn vừa qua nhằm tìm


ra đợc những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động.
NộI DUNG
2
I.Tìm hiểu về thị tr ờng chứng khoán:
1.Lịch sử phát triển thị trờng chứng khoán(TTCK):
Giữa thế kỷ 15 ở Tây phơng, tại những thành phố trung tâm buôn bán, các
thơng gia thờng tụ tập tại một "khu chợ riêng" để thực hiện việc mua bán trao đổi
các loại hàng hoá (chủ yếu là nông sản, khoáng sản), ngoại tệ và giá khoán động
sản.Phiên "chợ riêng" đợc diễn ra đầu tiên vào năm 1453 tại một lữ điểm của gia
đình Vanber ở Bruges (Bỉ). Bảng hiệu của lữ điểm này là "Mậu dịch trờng" hay
còn gọi là "Sở giao dịch". "Mậu dịch trờng" bao gồm ba nội dung chính: mậu
dịch trờng hàng hoá, mậu dịch trờng ngoại tệ và mậu dịch trờng giá khoán động
sản. Mậu dịch trờng Auvers phát triển rất nhanh. Giữa thế kỷ 16, viên quan đại
thần tài chính Anh quốc Theomes Gresham đến đây thị sát và sau đó đã thiết lập
một mậu dịch trờng tại London, nơi mà sau này đợc gọi là Sở giao dịch chứng
khoán London. Các mậu dịch trờng khác cũng lần lợt đợc thành lập tại Pháp,
Đức và Bắc Âu.Sau đó một thời gian khi mà một Mậu dịch trờng không còn đủ
sức cho các giao dịch với ba nội dung khác nhau thì giao dịch hàng hoá đã đợc
tách thành các khu thơng mại và giao dịch ngoại tệ đợc tách ra thành thị trờng
hối đoái, giao dịch giá khoán động sản tách ra thành thị trờng chứng khoán.
Vậy là thị trờng chứng khoán đã xuất hiện từ thế kỷ XV. Sự hình thành thị
trờng chứng khoán cũng đồng thời với thị trờng hối đoái và các loại thị trờng
khác.Quá trình các giao dịch chứng khoán đợc diễn ra và hình thành TTCK một
cách tự phát cũng tơng tự tại Pháp, Hà Lan, các nớc Tây, Bắc Âu và Bắc Mỹ. Cho
đến nay, trên thế giới đã có gần 200 TTCK, nằm ở hầu hết các châu lục, trong đó
có nhiều thị trờng đợc thành lập cách đây vài trăm năm nh Hà Lan, Pháp, Anh
vào thế kỷ 17; ở Mỹ, Tây Đức, Nhật vào thế kỷ 18, 19; ở các nớc trong khu vực
Đông Nam á vào những năm 60-70 của thế kỷ 20; ở các nớc xã hội chủ nghĩa cũ
nh Ba Lan, Hungari, Cộng hoà Séc, Cộng hoà liên bang Nga vào đầu những năm
1990 và Việt Nam vào ngày 1/7/2000 vừa qua Sở giao dịch chứng khoán đã đợc

3
thành lập tại thành phố Hồ Chí Minh đánh dấu một bớc phát triển mới cho nền
kinh tế nớc nhà.
Lịch sử phát triển các thị trờng chứng khoán thế giới trải qua một sự phát
triển lúc lên lúc xuống theo kiểu răng ca. Thời kỳ huy hoàng nhất là vào những
năm1875-1913, TTCK phát triển mạnh cùng với sự tăng trởng mạnh của nền
kinh tế. Nhng rồi đến "ngày thứ năm đen tối" 29/10/1929 đã làm TTCK New
York và các TTCK Tây, Bắc Âu và Nhật Bản khủng hoảng, mất lòng tin. Sau thế
chiến thứ II các TTCK phục hồi, và phát triển mạnh mẽ. Nhng cuộc "khủng
hoảng tài chính" năm 1987 một lần nữa đã làm cho TTCK thế giới điên đảo. Hậu
quả của nó còn nặng nề hơn cuộc khủng hoảng 1929. Cũng nh quy luật của tự
nhiên "hết ma là nắng lên". Sau gần 2 năm mất lòng tin TTCK thế giới lại đi vào
giai đoạn ổn định và phát triển.
Theo tạp chí The Economic 14/5/1994 ( UBS ) đã thống kê lãi thực hiện
trong đầu t, mức trung bình hàng năm từ 1984 đến 1993 ( % tính theo đồng đô la
Mỹ) của một số nớc nh sau:
Nớc Cổ phần Trái phiếu Tiền mặt
Pháp 18,0 14,0 10,0
Hà Lan 17,0 11,0 8,0
Anh 14,5 9,5 7,5
Đức 13,0 9,5 7,5
Thụy Sĩ 12,0 6,5 5,5
ý
12,0 14,0 9,3
Nhật 11,3 11,4 9,5
Mỹ 10,5 9,0 3,0
úc
9,0 9,5 5,5
Canada 3,0 9,4 4,5
Đến nay, hầu hết các quốc gia có nền kinh tế phát triển đều có TTCK.

TTCK đã trở thành một định chế tài chính không thể thiếu đợc trong đời sống
kinh tế của những nớc theo cơ chế thị trờng. Phơng thức tổ chức, giao dịch của
4
TTCK đã đợc cải tiến không ngừng. Đặc biệt khi ngành điện tử, tin học phát
triển, tin học đợc ứng dụng vào TTCK, thì TTCK đã trở thành một ngành công
nghệ có kỹ thuật riêng (công nghệ chứng khoán).
TTCK đã có kỹ thuật công nghệ riêng. Nhng điều đó không có nghĩa là tất
cả các TTCK trên thế giới ngày nay đều giống nhau. Tùy theo đặc điểm kinh tế,
xã hội và tâm lý dân chúng của mỗi nớc, họ có cách tổ chức và giao dịch riêng.
Nhng dù tổ chức theo phơng cách nào, thì đại cơng các thị trờng chứng khoán
cũng đều dựa trên những nguyên tắc cơ bản liên quan đến chứng khoán, tổ chức
thị trờng, giao dịch và sự kiểm soát của nhà nớc.
2.Hoạt động trên thị trờng chứng khoán:
2.1.Thị trờng chứng khoán đặc điểm và cơ cấu của TTCK:
Thị trờng chứng khoán là một thị trờng có tổ chức và hoạt động có điều
kiện, ở đó thực hiện mua bán các chứng khoán, là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về
chứng khoán, và qua đó giá chứng khoán đợc hình thành qua cung cầu thị trờng.
Nh vậy TTCK là chiếc cầu nối giữa hoạt động của các nhà kinh doanh với nhau,
tức là giữa ngời cần vốn (phát hành phiếu vay nợ - chứng khoán ) và ngời có vốn
( chủ nợ - nhà đầu t ). Việc mua bán chứng khoán đợc tiến hành tự do nhất định
trong quan hệ thị trờng, giá các chứng khoán phản ánh các quan hệ cung - cầu.
Đặc điểm của TTCK :
TTCK có những tính chất nội tại trong cơ chế hoạt động của mình nh tính
gián tiếp của loại hình đầu t, tính trung gian của hoạt động mua bán chứng
khoán, tính tơng đối trong việc đánh giá chất lợng hàng hoá ( chứng khoán ),
tính phong phú đa dạng của các hình thức mua bán (hiện tại, tơng lai, thanh toán
ngay, thanh toán chậm ). Đáng lu ý là tính dễ thoát ly giữa cung cầu về chứng
khoán và ngay giữa "cầu thực" và "cầu ảo", tính nhanh chóng tức thì của các giao
dịch chứng khoán, tính nhạy cảm và dễ lan toả của các xu hớng và tâm lý mua
bán. Đồng thời, TTCK còn mang tính đa chiều, khi lên khi xuống của thị giá

5
chứng khoán, khác với tính chất một chiều của các thị trờng hàng hoá dịch vụ
thông thờng chỉ có đi lên hoặc đi xuống kéo dài. Do vậy, kinh doanh trên TTCK
có đặc trng nổi bật là tính chất may rủi và tính đầu cơ cao bên cạnh tính đột biến
của lợi nhuận thu đợc trên TTCK.
Cơ cấu của thị trờng chứng khoán:
Thị trờng chứng khoán thờng đợc phân chia thành hai cấp:cấp I và cấp hai
( còn gọi là thị trờng sơ cấp và thị trờng thứ cấp ).
-Thị trờng cấp I (thị trờng sơ cấp) là nơi chứng khoán phát hành lần đầu
khi tạo lập doanh nghiệp, hoặc doanh nghiệp huy động thêm vốn, hoặc khi chính
phủ các cấp phát hành trái phiếu, công trái Đó là giai đoạ động viên vốn tài
chính, là giai đoạn phức tạp nhất, vì nếu xác định không đúng các điều kiện phát
hành có thể làm cho chứng khoán không tiêu thụ đợc và gây mất uy tín cho ngời
phát hành. Do vậy, trong phần lớn các trờng hợp, tổ chức phát hành chứng khoán
đều có sự tham gia của ngân hàng và các công ty chuyên doanh. Tuỳ thuộc tình
hình cung - cầu, giá chứng khoán ở thị trờng cấp I có thể thấp hoặc cao hơn giá
danh nghĩa. Với các loại chứng khoán thanh toán thu nhập bình thờng thì giá
chứng khoán phụ thuộc vào thời gian gần lúc thanh toán.
- Thị trờng cấp II ( thị trờng thứ cấp ) là nơi mua bán lại chứng khoán đã
phát hành ở thị trờng sơ cấp. Đây là nơi thu hút sự chú ý của công chúng, là nơi
giao dịch hàng ngày giữa các nhà môi giới chứng khoán và các thân chủ của họ.
ở đây, các nhà đầu t có thể bán chứng khoán vào bất kỳ lúc nào. So với tín dụng
thông thờng, hình thức mua bán chứng khoán ở thị trờng cấp II linh hoạt hơn,
mềm dẻo hơn.
Thị trờng cấp II có một số dạng: Sở giao dịch chứng khoán thông thờng,
thị trờng ngoài sở giao dịch chứng khoán. Thị trờng này có cơ chế phức tạp, làm
môi giới cho sự biến động cung cầu, cho phép xác định đợc giá hiện thực của các
cổ phiếu, trái phiếu.
6
Giữa thị trờng cấp I và thị trờng cấp II có sự phụ thuộc lẫn nhau. Thị trờng

cấp hai không thể tồn tại nếu không có sự phát hành chứng khoán có thể chuyển
nhợng tại thị trờng cấp một. Mặt khác sự thành công của thị trờng cấp II tạo điều
kiện cho thị trờng cấp một thành công.
2.2.Nguyên tắc hoạt động của TTCK:
Thị trờng chứng khoán là một định chế tài chính phát triển cao trong cơ
chế thị trờng, hoạt động theo cơ chế riêng biệt, đợc tiêu chuẩn hoá và mang tính
quốc tế.TTCK hoạt động theo những nguyên tắc cơ bản sau:
- TTCK hoạt động thông qua những ngời môi giới trung gian. Nguyên tắc
này nhằm đảm bảo cho các loại chứng khoán đợc giao dịch là chứng khoán thực
và hợp pháp,nhằm bảo vệ lợi ích của ngời đầu t, tránh đợc sự lừa gạt hoặc sai lầm
do không có khả năng dự đoán. Những ngời làm công việc môi giới thực hiện
lệnh mua và bán của khách hàng, và họ đợc hởng tỷ lệ hoa hồng do khách hàng
trả.
-TTCK là thị trờng cạnh tranh hoàn hảo. Giá của chứng khoán đợc hình
thành trên cơ sở quan hệ cung-cầu chứng khoán trên thị trờng, và đợc thực hiện
giữa các nhà môi giới chứng khoán. Không một ai trong TTCK có thể định giá
một cách độc đoán.
-Tất cả mọi hoạt động trên TTCK đều đợc công khai hoá cho tất cả
thành viên tham gia và dân chúng biết. Đây là một trong những nguyên tắc cơ
bản của TTCK.
-TTCK hoạt động tuân theo hệ thống kế toán theo tiêu chuẩn quốc tế. Mọi
công ty đã đăng ký và có cổ phần niêm yết ở TTCK phải báo cáo định kỳ theo
đúng tiêu chuẩn, và các báo cáo chỉ có giá trị khi đã có sự kiểm tra và xác nhận
của cơ quan kiểm toán. Tất cả các tài liệu đã đợc kiểm toán đợc công bố công
khai trên thị trờng, làm chỗ dựa đáng tin cậy cho các thành viên tham gia thị tr-
ờng và gây niềm tin cho dân chúng. Hoạt động trên nhằm tạo ra môi trờng kinh
7
doanh trong TTCK "trong suốt nh pha lê".Mọi khách hàng đều có khả năng nhìn
thấu suốt thị trờng, và đợc thông báo đầy đủ về các sự việc đang xảy ra.
- Mọi hoạt động của TTCK đều đợc pháp chế hoá bằng các đạo luật, quy

chế, điều lệ của TTCK nhằm bảo vệ cho các nhà đầu t. Nhiệm vụ chính của việc
pháp chế hoá TTCK là tạo ra một thị trờng trung thực, trật tự và có hiệu quả,
đồng thời tạo ra một sân chơi bằng phẳng cho các nhà đầu t, bảo vệ các nhà đầu
t tránh khỏi sự lừa đảo, bảo vệ vốn đầu t.
Thị trờng chứng khoán thờng đợc thể hiện chủ yếu tại sở giao dịch chứng
khoán và một phần ở những ngân hàng lớn. Phần lớn các sở giao dịch chứng
khoán thuộc sở hữu của các thành viên tham gia, có thể do t nhân hoặc một
nhóm các công ty cổ phần, tuy nhiên trong một số ít trờng hợp cho chính phủ
nắm giữ.
Lịch sử phát triển TTCK trải qua 100 năm cho thấy nếu không hoàn thiện
bộ khung pháp chế cho TTCK để hạn chế các tiêu cực, có thể dẫn đến sự sụp đổ
của nền tài chính quốc gia.
2.3 Các công cụ chủ yếu của thị trờng chứng khoán:
Công cụ chủ yếu của thị trờng chứng khoán đó là các loại chứng khoán.
Chứng khoán là chứng từ xác nhận quyền về tài sản, vốn, lợi nhuận và thu
nhập của ngời chủ sở hữu chứng từ đó đối với ngời phát hành. Chứng khoán bao
gồm : cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng từ khác do hội đồng chứng khoán
của từng quốc gia quy định.
Căn cứ vào lợi tức ngời ta phân chia chứng khoán thành hai loại:
-Chứng khoán có lợi tức cố định: chủ sở hữu của các loại chứng khoán này
đợc hởng một lợi tức cố định, lĩnh vào kỳ hạn đã đợc ấn định trớc khi phát hành.
Lợi tức đợc hởng và kỳ hạn nhận lãi không thay đổi, không phụ thuộc vào tình
trạng tài chính của các cơ quan phát hành. Loại này bao gồm: Công trái, trái
phiếu và kỳ phiếu.
8
-Chứng khoán có lợi tức không cố định: tuỳ hoàn cảnh của các công ty
phát hành, đến cuối mỗi niên khoá, các công ty sẽ ấn định lợi tức chia cho các
chủ sở hữu của các chứng khoán này, và ấn định ngày trả các lợi tức đó. Nh vậy
cổ tức có thể nhiều, ít, hay không có. Loại này bao gồm các cổ phần.
Căn cứ vào hình thức, chứng khoán phân thành ba loại:

-Chứng khoán không ghi tên: trên đó không ghi tên chủ sở hữu, vì vậy bất
kỳ ngời nào cầm chứng khoán đó đợc coi là chủ hợp pháp. Các chứng khoán
khong ghi tên gồm có hai phần: Phần chính có ghi các điều liên quan đến chứng
khoán (cổ phần, trái phiếu ), cơ quan phát hành(tên, trụ sở, số vốn ) mệnh
giá, nơi và ngày phát hành. Phần phụ chia thành nhiều ô, gọi là tức phiếu, trên
mỗi tức phiếu có ghi số thứ tự (trờng hợp các cổ phần) hay ghi kỳ hạn (trờng hợp
các trái phiếu).
-Chứng khoán có ghi tên: Trên đó có ghi rõ cơ quan phát hành loại chứng
khoán, mệnh giá, nơi và ngày phát hành, và nhất là tên và địa chỉ của ngời chủ sở
hữu. ở mặt đằng sau có bảng chia ra làm nhiều khung. Tên và địa chỉ của ngời
chủ sở hữu chứng khoán có ghi tên đợc ghi trong một quyển sổ đăng ký.
-Chứng khoán hỗn hợp: Trên chứng khoán loại này có ghi tên và địa chỉ
của ngời chủ sở hữu, và chỉ có thể chuyển nhợng theo đúng nh thủ tục của chứng
khoán có ghi tên( nghĩa là phải sửa tên của ngời chủ sở hữu trên sổ đăng ký và
trên chứng khoán ). Những chứng khoán hỗn hợp có kèm theo các tức phiếu, có
thể xé rời ra để lĩnh lợi tức nh các chứng khoán không ghi tên. Tóm lại các
chứng khoán hỗn hợp chỉ ghi tên đối với vốn, chứ không ghi tên đối với tiền lời.
Đặc biệt trong các trờng hợp sau đây bắt buộc chứng khoán phải là hình
thức có ghi tên:
+Các cổ phần cha hoàn toàn giải phóng(cổ phần cha góp đủ vốn ghi ở
mệnh giá)
9
+Các cổ phần hiện vật(trờng hợp hùn vốn bằng hiện vật)trong thời gian hai
năm kể từ ngày phát hành.
+Các cổ phần để đảm bảo của các hội viên hội đồng quản trị.
+Các cổ phần của các công ty có vốn bất định.
+Các cổ phần của các xí nghiệp mà điều lệ đã quy định buộc phải ở hình
thức có ghi tên.
Các chứng khoán không ghi tên có thể chuyển nhợng nhanh chóng hơn
các chứng khoán có ghi tên.

a,Cổ phiếu:
Cổ phiếu là các chứng từ do các công ty hay tổ chức tài chính cổ phần
phát hành xác nhận quyền sở hữu của những ngời có cổ phiếu đối với công ty
hay tổ chức đó. Cổ phiếu không có kỳ hạn tồn tại cùng với sự tồn tại của doanh
nghiệp phát hành ra nó.
Việc ấn định giá phát hành cổ phiếu có thể có các trờng hợp sau :
-Phát hành bình giá, nghĩa là số tiền phải trả để mua cổ phiếu bằng mệnh
giá.
-Giá phát hành thấp, khi công ty đang gặp khó khăn trong hoạt động, cần
tăng thêm vốn, để thu hút ngời mua phải bán cổ phiếu với giá thấp hơn mệnh giá.
-Giá phát hành cao, khi công ty đang hoạt động thịnh vợng, cần tăng thêm
vốn, công ty có thể phát hành cổ phiếu cao hơn mệnh giá.
Trị giá và giá cả cổ phiếu thờng xoay quanh giá trị gốc của nó và lợi tức cổ
phần mà cổ phiếu đaị diện.
Thị giá cổ phiếu là giá cả của cổ phiếu bán trên thị trờng. Thị giá cổ phiếu phụ
thuộc trực tiếp vào lãi nhận đợc theo cổ phần, do vậy lãi cổ phần càng nhiều thì
ngời mua trả giá cổ phiếu càng cao. Mặt khác, thị giá cổ phiếu còn tỷ lệ nghịch
với lãi suất thị trờng tiền tệ, lãi suất thị trờng tiền tệ càng thấp thì thị giá cổ phiếu
càng cao. Nhà đầu t luôn so sánh lãi nhận đợc theo cổ phiếu với lợi tức nhận đợc
10
khi họ gửi tiền vào ngân hàng. Nếu lãi suất của ngân hàng trả thấp thì họ sẽ dồn
tiền để mua cổ phiếu, làm cho giá cổ phiếu lên cao.
Bên cạnh các cổ phiếu thông thờng(các cổ phiếu có quyền bỏ phiếu bầu
hội đồng điều hành ) còn có các loại cổ phiếu đặc biệt. Ai mua loại cổ phiếu này
thì không có quyền bầu hội đồng điều hành công ty, nhng đợc đảm bảo thu nhập
ổn định, có quyền u đãi hơn so với các loại cổ phiếu thông thờng khi trả lợi tức
hoặc giải thể công ty. Lợi tức của cổ phiếu này cũng khác so với các loại cổ
phiếu thờng. Đối với loại cổ phiếu thờng thì lợi tức thay đổi theo mức lợi nhuận
của công ty. Đối với các loại cổ phiếu u đãi lợi tức đợc quy định theo một tỷ lệ
phần trăm cố định, không thay đổi theo mức lợi nhuận của công ty.

b,Trái phiếu và các loại trái phiếu:
Trái phiếu là chứng từ xác nhận quyền chủ nợ của ngời có trái phiếu đối
với ngời phát hành về số tiền ghi trên chứng từ đó. Ngời phát hành trái phiếu cam
kết sau thời gian nhất định sẽ trả cho ngời sở hữu trái phiếu vốn đã vay và một
mức lãi đợc ấn định trớc.
Trái phiếu đợc phân loại nh sau:
Theo t cách ngời phát hành, chia ra :
-Công trái là trái phiếu do chính phủ trung ơng hoặc chính quyền địa ph-
ơng phát hành nhằm huy động nguồn vốn tài trợ các dự án đầu t hạ tầng nh xây
dựng trờng học, cầu cảng với kỳ hạn khác nhau tuỳ thuộc mục đích sử dụng vốn
của từng dự án, có kỳ hạn trên một năm hoặc dài hạn từ 10 năm đến 30 năm.
- Trái phiếu do các doanh nghiệp phát hành, gọi là trái phiếu công ty,đợc
dùng để tài trợ cho các dự án phát triển sản xuất của các xí nghiệp, hay nói cách
khác đó là một khoản cho vay với thời hạn dài do hai bên thoả thuận, có thể kéo
dài từ 10 năm đến 30 năm với lãi suất cố định.
Theo khu vực phát hành, chia ra:
- Trái phiếu trong nớc: Trái phiếu đợc phát hành và lu hành trong nớc.
11
- Trái phiếu quốc tế: do chính phủ một nớc hoặc xí nghiệp phát hành trái
phiếu trên thị trờng tiền tệ nớc ngoài.
Theo quy định lãi suất, chia ra:
- Trái phiếu lãi suất cố định: lãi suất đã quy định dứt khoát không thay đổi.
- Trái phiếu có lãi suất không cố định: căn cứ vào lãi suất của thị trờng.
Theo yêu cầu thanh toán, có các loại:
-Trái phiếu phổ thông; đến kỳ hạn thanh toán cả gốc lẫn lãi.
-Trái phiếu có thể chuyển đổi: là trái phiếu có mối liên hệ thanh toán giữa
trái phiếu với cổ phiếu.
-Trái phiếu có xổ số, mỗi lần trúng ngời chủ sở hữu đợc số tiền lớn, số
trúng rất ít ỏi.
-Trái phiếu đợc hoàn vốn bằng cách mỗi năm đợc nhận một phần vốn và

lãi.
Bất kỳ công ty nào lập ra theo đúng pháp luật cũng đợc quyền phát hành
trái phiếu. Toàn thể hội viên công ty phải đồng lòng chấp thuận thì công ty mới
phát hành trái phiếu đợc.
Về thời giá của công trái trên thị trờng cũng có thể có ba trờng hợp:Thời
giá của thị trờng bằng mệnh giá; Thời giá của thị trờng cao hơn hoặc thấp hơn
mệnh giá.
Ngời mua công trái đợc hởng tiền lãi theo tỷ lệ đã ấn định khi phát hành công
trái. Lợi tức này đợc nhận hàng năm hay 6 tháng một lần tuỳ theo quy định. Nếu
là công trái không ghi tên thì có thể cắt rời tức phiếu ra, đem tới kho bạc để nhận
lãi. Nếu là công trái có ghi tên thì phải đem công trái đó đến kho bạc, nhân viên
kho bạc trả lợi tức rồi đóng dấu vào khung tơng ứng. Để khuyến khích dân chúng
mua công trái, chính phủ thờng cho ngời mua công trái đợc hởng một số đặc lợi:
Lợi tức về công trái đợc miễn tính thếu thu nhập; Cũng có khi chính phủ ấn định
ngay khi phát hành rằng nếu sau này chính phủ phát hành công trái mới thì ngời
12
có công trái cũ sẽ đơng nhiên hởng lãi suất mới; Trong thời gian có lạm phát, để
ngời mua công trái không bị thiệt hại, chính phủ ấn định số vốn hoàn giảm sẽ đ-
ợc cải đổi theo một chỉ số nhất định để bù đắp vào sự mất giá của đồng tiền.
Bên cạnh trái phiếu nhà nớc còn phát hành thêm một loại công trái khác
đó là kỳ phiếu:
Kỳ phiếu là số tiền mà nhà nớc vay để bù đắp vào chỗ thiếu hụt tạm thời
của ngân sách, vì thế kỳ phiếu cũng còn đợc gọi là công trái ngắn hạn. Kỳ hạn
của kỳ phiếu thờng là 3, 6, 9 tháng đến 1 hay 2 năm.
Nhà nớc luôn phát hành các loại kỳ phiếu, hoặc để vay thêm tiền, hoặc có tiền
hoàn vốn cho các kỳ phiếu đến hạn. Nếu ngân sách d tiền, thì không phát hành
thêm kỳ phiếu mới nữa, chỉ hoàn giảm vốn các kỳ phiếu đến kỳ hạn. Nh vậy tổng
số kỳ phiếu biến đổi liên tục lúc tăng lúc giảm.
Kỳ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Tiền lãi đợc nhận cùng lúc với hoàn
giảm tiền vốn, cũng có khi tiền lãi đợc trả trớc ngay lúc mua kỳ phiếu, nh vậy

đến lúc hạn chỉ phải trả tiền vốn.Lãi suất của kỳ phiếu đợc ấn định khi phát
hành. Khi ấn định lãi suất đó, chính phủ thờng dựa vào thị trờng tiền tệ và nhất là
dựa vào lãi suất chiết khấu của ngân hàng trung ơng. Tiền lãi của kỳ phiếu thờng
đợc miễn thuế.Ngời có kỳ phiếu phải chờ kỳ hạn để xin hoàn lại vốn, hoặc đem
bán, hoặc đem chiết khấu tại các Ngân hàng trớc kỳ hạn.
2.4 Thị trờng chứng khoán Việt Nam và các tổ chức liên hệ:
Thị trờng chứng khoán - một định chế tài chính rất hữu hiệu trong việc thu
hút vốn đầu t và là tiền đề vật chất cho quá trình cổ phần hoá.Có thể nói Sở giao
dịch chứng khoán thành phố HCM là nơi diễn ra đồng thời hai loại cơ cấu thị tr-
ờng sơ cấp và thị trờng thứ cấp. Giai đoạn đầu chú trọng phát triển và hoàn thiện
thị trờng sơ cấp, nhằm thu hút vốn đầu t trong và ngoài nớc qua việc phát hành
cổ phiếu cổ phần hoá, và phát hành các loại trái phiếu công ty, trái phiếu chính
13
phủ và chính quyền địa phơng; đông thời từng bớc hình thành thị trờng thứ cấp
cho phép kinh doanh buôn bán.
Nh vậy thời kỳ đầu cả nớc chỉ có một sở giao dịch đặt tại TP.HCM( gọi là
sở giao dịch chứng khoán TP.HCM). Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM là thị tr-
ờng chứng khoán chính thức đầu tiên của cả nớc. Các doanh nghiệp dân chúng
và chính quyền các địa phơng đều có quyền tham gia mua bán phát hành chứng
khoán tại sở giao dịch chứng khoán TP.HCM. Mục đích chính của TTCK trong
thời kỳ này là để phát hành cổ phiếu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc và các
loại doanh nghiệp khác; để chính phủ và chính quyền địa phơng phát hành các
loại trái phiếu có mục đích nhằm huy động vốn xây dựng cơ sở hạ tầng; đồng
thời để các doanh nghiệp phát hành các loại trái phiếu công ty. Tuy nhiên để tạo
điều kiện và thúc đẩy thị trờng phát hành đạt kết quả, phải quan tâm đến việc
hình thành thị trờng thứ cấp, hoàn chỉnh cơ cấu một TTCK theo nguyên tắc và
thông lệ quốc tế. Và ngay từ đầu TTCK Việt Nam cũng không do dự, hoan
nghênh các nhà đầu t nớc ngoài tham gia, có thể tham gia đầu t trực tiếp, hoặc
gián tiếp qua các quỹ đầu t. Tất nhiên thời kỳ đầu kinh nghiệm cha có, khả năng
quản lý còn yếu, phải có sự khống chế tối đa mức tối đa của một loại chứng

khoán nhà đầu t nớc ngoài đợc mua. Sau đó tuỳ theo chính sách quản lý có thể sẽ
nâng dần để thu hút vốn.
Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM và các tổ chức liên hệ: TTCK là
một định chế tài chính rất phức tạp có tính chuyên môn và kỹ thuật cao. Để sở
giao dịch chứng khoán TP.HCM hoạt động có hiệu quả, đòi hỏi hệ thống hạ tầng
về tài chính, tín dụng và ngân hàng phải hoàn thiện. Có thể tóm lợc mô hình tổ
chức TTCK Việt Nam và các tổ chức liên hệ bằng sơ đồ:
14
Trung tâm
tin học
Uỷ ban chứng
khoán quốc gia VN
TT L u trữ
chứng khoán
và thanh toán
bù trừ
Sở giao dịch
chứng khoán
TP. HCM
TT L u trữ
chứng khoán
và thanh toán
bù trừ
Ngân hàng và
công ty tài
chính
Công ty môi
giới chứng
khoán
Công ty kiểm toán

Dân
chúng
Nhà
đầu t
Quỹ
đầu t
Quỹ
bảo
hiểm
Quỹ t
ơng trợ
xã hội
CP &
chính
quyền
địa ph
ơng
Doanh
nghiệp
15
II. Thị tr ờng chứng khoán Việt Nam, nhìn lại những b ớc đi ban đầu:
Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) đầu tiên của Việt Nam tại
thành phố Hồ Chí Minh đã đợc khai trơng và bắt đầu hoạt động vào cuối tháng
7/2000. Đây chính là kết quả của những chủ trơng đúng đắn và quyết tâm cao
của Đảng và nhà nớc, là kết quả của quá trình chuẩn bị các điều kiện cần thiết
cho việc thành lập thị trờng của uỷ ban chứng khoán nhà nớc (UBCKNN) với sự
phối hợp đầy trách nhiệm của các bộ các nghành, các địa phơng và các doanh
nghiệp, cùng sự giúp đỡ nhiệt tình, hiệu quả của bạn bè quốc tế. Có thể đánh giá
rằng việc khai trơng hoạt động của TTGDCK TP.HCM chính là sự kiện quan
trọng đánh dấu điểm khởi đầu cho quá trình phát triển ngành chứng khoán non

trẻ của Việt Nam với các ý nghĩa lớn lao về kinh tế cũng nh chính trị xã hội của
đất nớc.
Qua sáu tháng hoạt động, mặc dù số lợng chứng khoán niên yết cha nhiều,
khối lợng chứng khoán qua các phiên giao dịch cha lớn, song kết quả ban đầu là
rất quan trọng, khẳng định vị trí và vai trò của TTGDCK trong hệ thống tài
chính. Thị trờng chứng khoán Việt Nam mở cửa trong giai đoạn hiện nay cũng
có những khó khăn nhất định, khuôn khổ hoạt động và phạm vi còn nhỏ bé, song
cũng hứa hẹn một triển vọng trong tơng lai, mở đờng cho một kênh huy động
vốn trung và dài hạn mới cho nền kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nớc
-Đối với nền kinh tế quốc dân, thị trờng chứng khoán tạo điều kiện cung
cấp cho nền kinh tế nguồn vốn có thời hạn dài nhằm đáp ứng nhu cầu đầu t phát
triển, đồng thời định hớng việc phân bổ nguồn vốn sẵn có vào nhu cầu sử dụng
cần thiết cho nền kinh tế, nhờ vậy góp phần điều hoà, phân phối nguồn vốn trong
nền kinh tế đợc tốt hơn.
16
-Đối với chính phủ, do thu hút đợc nguồn vốn lớn của toàn nền kinh tế qua
việc phát hành trái phiếu, thị trờng chứng khoán giúp chính phủ giả quyết đợc
các vấn đề thiếu hụt ngân sách, có thêm vốn để thực hiện các dự án xây dựng cơ
sở hạ tầng mà không phải phát hành thêm tiền cho chi tiêu của ngân sách nhà n-
ớc.
-Các doanh nghiệp có thể đầu t trên thị trờng chứng khoán; các chứng
khoán đầu t là một tài sản kinh doanh và có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt
khi cần thiết thông qua thị trờng chứng khoán .
-Đối với công chúng đầu t, thị trờng chứng khoán là nơi chuyển nguồn vốn
tiết kiệm thành đầu t, một mặt huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi tài trợ cho nền
kinh tế, mặt khác giúp cho những ngời có tiền tiết kiệm không có khả năng tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh có thể thực hiện đầu t trên thị trờng chứng
khoán để cho các khoản tiền đó sinh sôi nảy nở. Với những công cụ đầu t đa
dạng phong phú, thị trờng chứng khoán sẽ góp phần nâng cao mức sinh lợi về

vốn cho các nhà đầu t cũng nh cho toàn xã hội.
- Trong giai đoạn hiện nay việc ra đời và hoạt động của thị trờng chứng
khoán sẽ góp phần thúc đẩy cải cách cơ chế quản lý tài chính đối với doanh
nghiệp theo hớng khinh tế thị trờng, hỗ trợ tích cực cho quá trình cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nớc. Sự hiện diện của trung tâm giao dịch chứng khoán đã góp
phần bổ sung hoàn chỉnh cho một cơ cấu thị trờng tài chính và thêm một lần nữa
khẳng định sự nhất quán đờng lối đổi mới của Đảng trong việc xây dựng nền
kinh tế của nớc ta theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng
XHCN.
- Thị trờng chứng khoán là sản phẩm của nền kinh tế thị trờng. Sự phát
triển kinh tế trờng đến một giai đoạn nhất định đòi hỏi phải có thị trờng chứng
khoán để hình thành nên một định chế tài chính bậc cao của nền kinh tế hiện đại.
Toàn cầu hoá đã và đang mang đến cơ hội phát triển cũng nh thách thức cho tất
cả, không loại trừ một quốc gia nào. Những thực tiễn và kinh nghiệm từ thị tr-
17
ờngmới nổi, từ các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu và đặc biệt là
thực tiễn và kinh nghiêm từ Trung Quốc và các nớc trong khu vực, là những minh
chứng thuyết phục nhất cho khả năng phát triển thị trờng chứng khoán Việt
Nam.
Chúng ta đã đạt đợc một số thành tựu và những khó khăn, phức tạp trong
thời gian hoạt động vừa qua:
Thành tựu
Với sự hoạt động của TTGDCK trong 6 tháng qua trớc hết đã giải toả đợc
những lo ngại về khả năng đứng vững của nó. Thực tế cho thấy công chúng có
nhu cầu thật sự đối với loại hình kinh doanh tiền tệ này. Dù còn thiếu những kinh
nghệm, những bất cập không thể tránh khỏi trong buổi đầu nhng chúng ta đã
thiết lập đợc bộ khung cho loại hình thị trờng này một cách có tổ chức. Không
những thế nhìn chung oạt động của nó khá suôn sẻ. Trong điều hành thể hiện đợc
tính nhanh nhạy (bằng chứng về việc này là việc quy định giá trần và khống chế
biên độ dao động. Thành tựu này rõ ràng là có sự cố gắng vợt bậc của UBCKNN.

Sự ra đời của TTGDCK đã tạo nên khu vực thị trờng chứng khoán có tổ chức, thị
trờng này đã làm tác động tích cực đến khu vực "thị trờng tự do" cả về giá cả lẫn
về việc làm làm cho thị trờng này sôi động hơn lên, tạo ra tâm lý đầu t trong
công chúng. Về lý thuyết nó đặt những viên gạch đầu tiên cho việc mở ra một
kênh mới thu hút tiền trong dân c vào thị trờng vốn.
Bên cạnh những mặt đạt đợc TTCK Việt Nam cũng đã bộc lộ một số yếu
kém sau: chủng loại hàng hoá còn nghèo nàn, khối lợng hàng hóa còn quá bé, số
công ty cổ phần còn quá ít, quy mô nhỏ, nhà nớc còn nắm nhiều cổ phần cha trải
rộng ra công chúng; và nhất là doanh nghiệp vẫn còn cha quen với một "luật
chơi" cực kỳ quan trọng củaTTCK đó là: phải công khai hoá thông tin. Rõ ràng
những điều này đã khiến cho việc khai trơng TTCK tuy đánh dấu một sự kiện có
ý nghĩa trong năm 2000 nhng cha phải đã có tác động sâu rộng trong đời sống
kinh tế xã hội. Điều đáng ghi nhận nữa là sự thận trọng của UBCKNN và những
18
quan chức điều hành TTGDCK đã thành công trong việc kiềm chế cơn sốt giá
chứng khoán trong những tuần đầu tiên bằng biện pháp hạ biên độ giá từ (+/-)5%
xuống còn (+/-) 2%. Điều này có thể cho phép chúng ta tin tởng vào khả năng
quản lý nhà nớc đối với TTCK, một thị trờng hãy còn mới lạ, một ngành kinh tế
hãy còn non trẻ tại Việt Nam. Tuy nhiên nó cũng là "con dao hai lỡi", thực tế cho
thấy biên độ giá đợc quy định là (+/-) 2% dờng nh ngày một kìm hãm sự năng
động của thị trờng. Vô hình chung chúng ta đang tự "gọt bớt gót chân" để đi vừa
giày. Sự kìm hãm, dù hợp pháp nhng không hợp lý, nếu kéo dài sẽ khiến thị trờng
vừa buồn tẻ, vừa thụ động.
Có thể nói sự bất ổn của TTCK phát sinh từ ba yếu tố cơ bản sau:
1. Khan hiếm hàng hoá trên thị tr ờng chứng khoán :
Mặc dù vừa có thêm công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long
An(Lafooco) đợc cấp giấy phép tham gia vào việc niên yết cổ phiếu trên thị trờng
chứng khoán nhng vẫn còn là quá ít so với số chứng khoán đủ tiêu chuẩn niên
yết, do đó các nhà đầu t rất ít có cơ hội lựa chọn để tham gia đầu t trên
TTGDCK. Mặt khác phần lớn số cổ phiếu niêm yết thuộc sở hữu nhà nớc không

đợc bán, cổ phiếu thuộc sở hữu của hội đồng quản trị, ban lãnh đạo và cán bộ
công nhân viên của công ty- những đối tợng này cũng không muốn bán phần sở
hữu của mình trong công ty, số cổ phiếu do các cổ đông bên ngoài nắm giữ
không nhiều, nên thực chất chỉ có một lợng rất nhỏ hàng hoá cho hoạt động giao
dịch của TTGDCK. Do đó đa phần trong các phiên giao dịch mặc dù số lợng cổ
phiếu đặt mua so với số lợng cổ phiếu niêm yết trên TTGDCK theo công bố
chính thức không cao (chỉ khoảng 2% - 5%) song chênh lệch về khối lợng giữa
lệnh mua và lệnh bán là rất lớn nên chỉ một số ít lệnh mua đợc thực hiện với khối
lợng giao dịch không lớn, hầu hết các lệnh mua không đợc thực hiện, hiệu quả
thu hút công chúng đầu t cha cao.
Cho đến nay thì cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần đợc xem là thứ
hàng hoá chính của TTCK. Trong thời gian qua, cổ phiếu của 4 doanh nghiệp
19
niêm yết là REE, SAM, HAP, TMS đã đợc giao dịch thờng xuyên và đóng vai trò
chính yếu. Cho đến hết tháng 10/2000 tổng giá trị cổ phiếu niêm yết tại trung
tâm giao dịch chứng khoán của 4 doanh nghiệp trên là trên 302 tỷ đồng. Riêng
trong tháng 10 đã có gần 669.000 cổ phiếu của các doanh nghiệp trên đợc giao
dịch với tổng giá trị 14,69 tỷ đồng, so với tháng 9 thì mức giao dịch trên tăng
15%.Hậu quả của vấn đề khan hiếm hàng hoá là tạo ra sức ép tăng giá một cách
giả tạo, giá giao dịch chứng khoán luôn đạt mức sát trần. Điều nguy hiểm hơn
đối với TTCK non trẻ của Việt Nam là đã nảy sinh hiện tợng đầu cơ giá chứng
khoán, cụ thể: đầu phiên giao dịch những ngời có cổ phiếu đa ra một số lệnh bán
với giá sát trần để kéo giá lệnh mua, đến thời điểm chuẩn bị khớp lệnh thì những
lệnh bán này đợc huỷ bỏ và đợc thay thế bằng một số ít lệnh bán với khối lợng
nhỏ nhằm tiếp tục nâng giá cổ phiếu trong các phiên giao dịch tiếp theo.Việc
tăng giá cổ phiếu đã làm chỉ số VN Index tăng liên tục qua các phiên giao
dịch.Từ phiên giao dịch ngày 29/9/2000 đến phiên ngày 17/11/2000 chỉ số VN
Index đã tăng từ 120,71 điểm lên thành162,36 điểm, trong phiên này tổng giá trị
giao dịch đã tăng mạnh lên đến 1,1 tỷ đồng so với 450 triệu đồng của phiên giao
dịch trớc. Các phiên giao dịch tiếp theo chỉ có một số ít biến động nhỏ còn nhìn

chung giá cổ phiếu liên tục tăng mạnh, đến phiên giao dịch thứ 80 chỉ số VN
Index đã đạt 260,15 tăng hơn 150 điểm , gấp 2,5 lần so với giá trị ban đầu của
nó.
Trong những năm vừa qua, trái phiếu chính phủ đợc phát hành chủ yếu
qua hệ thống kho bạc nhà nớc và đấu thầu qua ngân hàng nhà nớc. Từ tháng 7/00
sau khi chính phủ ban hành nghị định 01/2000/NĐ-CP về quy chế phát hành trái
phiếu chính phủ. Bộ tài chính đã cho thực hiện hai phơng thức phát hành mới:
đấu thầu qua TTGDCK và bảo lãnh phát hành.
Phát hành qua hệ thống kho bạc nhà nớc đợc thực hiện từ năm 1991. Mặc
dù đã có những cải tiến và thay đổi đáng kể về mặt nội dung, hình thức trái phiếu
và phơng thức quản lý song các loại trái phiếu kho bạc phát hành trong thơì gian
20
vừa qua về cơ bản vẫn cha đáp ứng đợc yêu cầu giao dịch và hoạt động của
TTCK. Nói cách khác khi TTCK cha phát triển, cơ sở vật chất và kỹ thuật lạc hậu
thì cha có điều kiện để thay đổi một cách cơ bản cơ chế phát hành, quản lý và
giao dịch trái phiếu. Điều này đợc chứng minh khá rõ nét từ thực tế của năm
1995: Xuất phát từ yêu cầu thúc đẩy sự ra đời của TTCK, Kho bạc nhà nớc đã
phát hành loại trái phiếu có in sẵn mệnh giá, không ghi tên ngời mua, đợc tự do
mua bán, chuyển nhợng và thanh toán vãng lai trong cả nớc. Sau một thời gian
phát hành, khi đã cảm thấy có những dấu hiệu thiếu an toàn trong quản lý, Kho
bạc nhà nớc TW đã xin phép bộ tài chính cho dừng phát hành, đồng thời thông
báo cho các đơn vị kho bạc Nhà nớc cấp tỉnh mới đợc phép thanh toán vãng lai,
vì lúc bấy giờ các đơn vị kho bạc cấp huyện cha đợc trang bị máy tính, cha thể
nối mạng với TW theo dõi thanh toán trái phiếu vãng lai. Năm 1999, Nhà nớc
phát hành công trái XDTQ, sử dụng loại chứng chỉ in sẵn mệnh giá và không ghi
tên ngời mua để tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua bán, giao dịch và tự do
chuyển nhợng công trái. Tuy vậy tất cả các loại trái phiếu phát hành trong thời
gian vừa qua đều cha thể niêm yết, giao dịch trên TTCK, bởi vì các loại trái phiếu
và công trái trong cùng một đợt phát hành cha đợc quy định một ngày đến hạn
thanh toán thống nhất, lãi suất trái phiếu không đợc thanh toán theo định kỳ và

đặc biệt là trờng hợp phải tính bù giá trị vào lãi suất công trái khi có biến động
mạnh mẽ về giá do nguyên nhân lạm phát.
Đấu thầu tín phiếu qua ngân hàng nhà nớc đợc thực hiện từ giữa những
năm 1995. Nhìn chung hoạt động của thị trờng đấu thầu tín phiếu tơng đối ổn
định(mặc dù còn ở mức độ thấp). Hình thức đấu thầu chủ yếu là cạnh tranh về lãi
suất trên cơ sở tín phiếu phát hành và lãi suất trần do Bộ Tài chính quy định. Các
thành viên tham gia tơng đối thờng xuyên là các ngân hàng thơng mại quốc
doanh và một số tổ chức tài chính có tiềm lực về vốn. Tín phiếu phát hành vẫn
theo hình thức ghi sổ và đến nay các đơn vị cũng cha có nhu cầu nhận chứng chỉ.
21
Tín phiếu trúng thầu chủ yếu vẫn đợc nắm giữ đến khi đáo hạn, cha đợc mua
bán, chiết khấu lại trên thị trờng tiền tệ.
Đấu thầu trái phiếu chính phủ qua TTGDCK lần đầu tiên đợc tổ chức vào
ngày 26/7/2000, tính đến nay đã qua 5 phiên. Khối lợng gọi thầu mỗi phiên từ
200-300 tỷ đồng, kỳ hạn trái phiếu là 5 năm. Kết quả đấu thầu từng phiên nh sau:
Ngày
đấu thầu
Thành viên
tham gia
Khối lợng
đặt thầu
Lãi suất đặt thầu
Max Min
Kết quả trúng thầu
Khốilợng Lãi suất
1 2 3 4 5 6 7
26/7/00 9 858 tỷ 5,8% 8,0% 300 tỷ 6,5%
15/8/00 9 548 tỷ 6,4% 7,8% 300 tỷ 6,6%
29/8/00 4 165 tỷ 6,7% 7,5% 0 -
12/9/00 0 0 - - 0 -

Trái phiếu đợc đấu thầu theo hình thức cạnh tranh lãi suất, trong phạm vi
lãi suất trần của Bộ Tài chính. Các đơn vị tham gia và trúng thầu với khối lợng
lớn chủ yếu là các ngân hàng thơng mại quốc doanh. Các công ty chứng khoán
do hạn chế về vốn nên tham gia cầm chừng với khối lợng không đáng kể. Trái
phiếu đợc phát hành dới hai hình thức chứng chỉ và ghi sổ, đợc niêm yết và giao
dịch tại TTGDCK. Tuy vậy các đơn vị trúng thầu chủ yếu là nắm giữ trái phiếu,
cha có nhu cầu bán lại trên thị trờng chứng khoán (trừ các công ty chứng
khoán ).
Bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ lần đầu tiên đợc tổ chức vào ngày
15/9/2000 với 5 đơn vị tham gia gồm 3 ngân hàng thơng mại quốc doanh và hai
công ty chứng khoán cùng tham gia đàm phán để thống nhất lãi suất và khối l-
ợng trái phiếu nhận bảo lãnh. Kết quả cụ thể nh sau:
-Khối lợng bảo lãnh trái phiếu phát hành: 500 tỷ đồng
-Thời hạn trái phiếu: 5 năm
-Lãi suất trái phiếu: 6,6%/năm (lãi suất thanh toán hàng năm)
22
-Các đơn vị tham gia và khối lợng nhận bảo lãnh:
+Ngân hàng công thơng Việt nam : 420 tỷ đồng
+Ngân hàng đầu t và phát triển Việt nam : 50 tỷ đồng
+Ngân hàng ngoại thơng Việt nam : 30 tỷ đồng
Qua 4 phơng thức phát hành trái phiếu chính phủ nói trên, cho đến nay khối lợng
trái phiếu chính phủ đăng ký, niêm yết và giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng
khoán vẫn không đáng kể. Mặc dù trái phiếu chính phủ phát hành theo cơ chế
mới có doanh số khá lớn, nhng lợng trái phiếu thực tế giao dịch là không đáng
kể. Liên tục nhiều phiên không khớp đợc lệnh mua bán.
Trái phiếu vô danh của Ngân hàng Đầu t và Phát triển tuy mới đợc phát
hành tại ba địa bàn là TP.HCM, Hà Nội và Bình Dơng nhng chỉ sau hai phiên
giao dịch kể từ khi đợc đa vào TTCK đã gia tăng một cách đáng kể về khối lợng.
Theo các chuyên gia chứng khoán, sở dĩ có tình trạng này là do khả năng rủi ro
của loại trái phiếu này nhỏ không kém trái phiếu chính phủ nhng lãi suất của nó

lại đợc thả nổi( đợc điều chỉnh từng năm theo thị trờng ). Sau hai phiên giao dịch
đã có 2.750 trái phiếu của Ngân hàng Đầu t và Phát triển đợc bán ra với tổng giá
trị giao dịch là 269,3 triệu đồng. Tuy nhiên đến các phiên giao dịch sau khối lợng
giao dịch trái phiếu này cũng có nhiều biến động- cơn khát hàng hoá của thị tr-
ờng chứng khoán vẫn cha đợc giải quyết triệt để.
Có thể nói một trong những nguyên nhân cơ bản hiện nay của tình trạng
khan hiếm hàng hoá trên thị trờng chứng khoán đó là do có quá ít doanh nghiệp
tham gia niêm yết trên TTCK. Hiện nay mặc dù số lợng công ty cổ phần cha thực
sự nhiều nhng với con số trên 50 doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết thì cũng
không thể coi đó là số lợng quá ít. Chỉ cần khoảng 1/4 trong số các doanh nghiệp
này niêm yết cổ phiếu trong giai đoạn đầu thì có lẽ TTCK cũng đã "hòm hòm"
đủ đạt đợc sự sôi động cần thiết. Thế nhng điều nan giải nhất là ở chỗ, bản thân
các công ty cổ phần đang có một thái độ rất thờ ơ với TTCK. Thậm chí nhiều
doanh nghiệp đã bày tỏ ý kiến rất thẳng thắn rằng, họ cha cảm thấy có lợi gì khi
23
đa cổ phiếu niêm yết trên TTCK và do đó họ cha có ý định niêm yết. Tâm lý này
đang thực sự là một rào cản rất lớn trong việc khuyến khích các công ty đủ điều
kiện niêm yết tạo thêm hàng hoá cho TTCK. Trớc sự thờ ơ của nhiều doanh
nghiệp không thể không nhìn nhận lại môi trờng vận hành hiện nay của TTCK.
Liệu TTCK đã có đầy đủ các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ các doanh nghiệp trên
thị trờng hay cha? Qua tìm hiểu trên thực tế có thể thấy rõ rằng, nhiều doanh
nghiệp vẫn có những lo ngại về hành lang an toàn trên TTCK, mà vấn đề thao
túng doanh nghiệp là nỗi lo lớn nhất. Nhiều giám đốc cho rằng, khi công ty niêm
yết cổ phiếu, có rất nhiều khả năng nhiều nhà đầu t bên ngoài doanh nghiệp có ý
đồ mua gom cổ phiếu qua các phiên giao dịch để đến khi có một số lợng cổ
phiếu nhất định sẽ nhẩy vào điều hành công ty, việc này bản thân công ty không
thể kiểm soát đợc.
Mặc dù pháp luật đã quy định khi một nhà đầu t thực hiện giao dịch làm
thay đổi việc nắm giữ 5% trở lên cổ phiếu có quyền biểu quyết của một công ty
niêm yết thì phải báo cáo với TTGDCK. Nhng trên thực tế việc quản lý và theo

dõi những nhà đầu t mua và nắm giữ cổ phiếu số lợng lớn không phải là dễ dàng.
Hơn nữa, ngay cả với các nhà đầu t đã nắm giữ trên 5% cổ phiếu thì việc mua
bán của họ cũng chỉ bị giám sát mà không thể bắt họ không đợc tiếp tục mua
thêm nữa. Có lẽ các công ty cổ phần từ trớc đến nay mới chỉ quen với những cổ
đông thuần tuý nhận cổ tức, chủ yếu là những cán bộ công nhân viên trong
doanh nghiệp, nên phần lớn mang tâm lý sợ bị thao túng khi bớc chân vào
TTCK- một thị trờng có tính cạnh tranh và đào thải gay gắt. Các công ty niêm
yết phải chấp nhận một thực tế là khi cổ phiếu đợc giao dịch rộng rãi thì cổ đông
của công ty không thể chỉ là những đối tợng ổn định và dễ quản lý.
2.Thiếu sự đồng bộ giữa TTCK và thị tr ờng tiền tệ
Có thể ví rằng thị trờng chứng khoán và hệ thống ngân hàng nh hai quả
tim để điều tiết nguồn vốn cho nền kinh tế. Trong khi hoạt động của các ngân
hàng thơng mại chủ yếu nhằm cung ứng các nguồn vốn ngắn hạn thì vai trò của
24
TTCK là chuyên cung cấp dòng vốn dài hạn. Chính vì thế đây là hai bộ phận
quan trọng cấu thành nên một hệ thống tài chính hoàn chỉnh và chúng có quan
hệ với nhau theo nguyên tắc "bình thông nhau". Mỗi động thái trên thị trờng tiền
tệ đều kéo theo một động thái mới trên TTCK và ngợc lại. Tuy nhiên thời gian
đầu hoạt động của TTCK Việt nam cho thấy rằng dờng nh vẫn còn một bức tờng
vô hình ngăn cách sự tơng quan trong hoạt động của hai dòng lu chuyển vốn này.
Điều này đợc thể hiện rất rõ trong thực tế hoạt động của thị trờng tài chính gần
nửa năm qua. Đặc biệt trong mấy tháng gần đây, thị trờng tiền tệ có nhiều biến
đổi mạnh nh những thay đổi nhanh chóng về lãi suất, tỷ giá , nhng những động
thái này vẫn hoàn toàn vô tác dụng đối với TTCK. TTCK vẫn cứ hoạt động theo
xu hớng riêng của nó và nhiều nhà đầu t thậm chí chẳng hề quan tâm đến những
yếu tố này. Chẳng hạn nh những biến chuyển về lãi suất đã đợc thể hiện rất rõ.
Vừa qua lãi suất đồng Việt Nam đã tăng khá mạnh, với mức tăng khoảng
0,02%/tháng so với thời gian cách đây hai tháng. Đáng lẽ theo quy luật thị trờng
việc tăng lãi suất tất yếu sẽ kéo theo sự rút lui của nhà đầu t khỏi thị trờng chứng
khoán để chuyển sang đầu t vào thị trờng tiền tệ dẫn đến sự giảm giá trên thị tr-

ờng chứng khoán.Thế nhng trên thực tế thì thị trờng chứng khoán lại vận động
theo xu hớng hoàn toàn ngợc lại . Giá cổ phiếu của các công ty niêm yết vẫn có
xu hớng tăng lên, chỉ số VN Index đều tăng trong hầu hết các phiên giao dịch.
Ngoài ra, tỷ giá đô la mỹ với đồng Việt nam cho dù tăng liên tục trong thời gian
qua cũng không có tác động gì tơí hoạt động trên thị trờng chứng khoán. Một số
chuyên gia của uỷ ban chứng khoán nhà nớc đã thừa nhận rằng, đúng là có sự
thiếu đồng bộ trong quan hệ giữa thị trờng chứng khoán và thị trờng tiền tệ, mối
quan hệ giữa thị trờng tiền tệ và TTCK cha phát huy đợc tác dụng nh mong
muốn. Theo một số chuyên gia, mấu chốt của vấn đề trên là do các công cụ của
chính sách tiền tệ thực tế vẫn còn "cập kênh" cha phát huy đợc u thế. Chẳng hạn
nh mặt bằng lãi suất: sự vận hành lãi suất của một loạt các công cụ tài chính nh
lãi suất đồng nội tệ, lãi suất đô la Mỹ, lãi suất tín phiếu trái phiếu còn mang
25

×