Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tiềm năng và vai trò của định mức tín nhiệm đối với NHTM việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.6 KB, 24 trang )

Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
1
SVTH: Thiều Bích Ngọc
I/ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM
1/ Một số khái niệm
1.1/ Định mức tín nhiệm (ĐMTN)
ĐMTN được dùng để đo lường mức độ rủi ro gắn liền với một khoảng đầu tư nào đó.
ĐMTN là việc đánh giá về khả năng của một đơn vị phát hành trong việc thực hiện thanh toán
đúng hạn một nghĩa vụ tài chính.
Nghĩa vụ tài chính gồm trái phiếu, thương phiếu, cổ phiếu, các khoảng nợ và các khoảng tiền
vay ngân hang.
Có nhiều loại ĐMTN khác nhau. ĐMTN đợt phát hành trái phiếu và ĐMTN của đơn
vị phát hành. Thông thường, người ta quan tâm nhiều đến đợt phát hành vì nó không chỉ tính
tới độ tín nhiệm của đơn vị phát hành mà còn tính tới độ tín nhiệm của những tài sản thế chấp.
Ngoài ra còn có ĐMTN trong nước hay toàn cầu. Các tổ chức ĐMTN trong nước sẽ
ĐMTN các DN trong nước. Trong khi đó, các tổ chức ĐMTN quốc tế sẽ định mức những đơn
vị phát hành trên toàn cầu phục vụ cho các nhà đầu tư lớn.
1.2/ Tín nhiệm DN
Tín nhiệm DN là ý kiến về khả năng của DN trong việc thực hiện các nghĩa vụ tài
chính được đưa ra bởi một tổ chức . Ý kiến này tập trung vào việc đánh giá khả năng và mong
muốn của DN trong việc thực hiện cam kết tài chính khi chúng tới hạn. Ý kiến này không
nhằm cung cấp đảm bảo khả năng trả nợ của DN được xếp hạng với bất cứ một nghĩa vụ tài
chính cụ thể nào. Tín nhiệm DN có thể tăng hoặc giảm theo khả năng mà DN có đáp ứng
được nghĩa vụ tài chính của mình hay không.
2/ Công ty ĐMTN (CRA)
2.1/ Khái niệm
Công ty ĐMTN hay một tổ chức ĐMTN (còn được gọi là CRA) là công ty chuyên
cung cấp quan điểm của họ về độ tín thác của một DN trong nghĩa vụ thanh toán tài chính.
CRA là một tổ chức đánh giá trung gian, độc lập nhằm xem xét, phân tích và đưa ra
mức định hạng tín nhiệm đối với cácư công ty đang tìm kiếm nguồn vốn đầu tư. Nó cung cấp


ý kiến về mức độ tin cậy của một thể nhân cũng như khả năng hoàn thành những nghĩa vụ tài
chính của thể nhân đó.
Sản phẩm của CRA là việc cung cấp cho thị trường một hệ thống xếp hạng các công
cụ tài chính, đặc biệt là các chứng khoán nợ… Giúp các nhà đầu tư có cơ sở để tham khảo và
so sánh trước khi đưa ra quyết định nên đầu tư vào những công cụ nào.
Ngoài ra còn có những dịch vụ khác của CRA như đánh giá các tổ chức tài chính, bảo
hiểm, tính toán mức rủi ro tín dụng một khoảng cho vay của NH, đánh giá xếp hạng quản trị
DN, cung cấp thông tin tài chính,
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
2
SVTH: Thiều Bích Ngọc
CRA là một định chế tài chính cao cấp nhất của thị trường tài chính. Vì thế, hoạt động
của CRA đòi hỏi tính độc lập, tính tin cậy và chuyên nghiệp rất cao. Có như vậy mới có thể
hướng dẫn đầu tư đồng thời tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư.
2.2/ Sự khác biệt giữa một CRA và một số tổ chức khác như tư vấn tài chính, dịch
vụ thông tin, các công ty kiểm tóan, ISO,…
Thực chất, chức năng của các loại hình dịch vụ này là như nhau vì chúng đều nhằm
hướng đến việc phân tích, đánh giá để đưa ra các thôngtin tư vấn kịp thời cho các DN.
Tuy nhiên, khi tiến hành đánh giá một DN, ngoài việc phân tích theo góc độ tài chính
như các tổ chức khác, CRA còn quan tâm đến các chỉ tiêu phi tài chính. Các chỉ tiêu đó là
năng lực cạnh tranh của DN, triển vọng phát triển của sản phẩm, xu hướng thị trường, ý kiến
và phản ứng của người tiêu dung về các sản phẩm và dịch vụ của DN,…
Kết quả đánh giá sẽ là sự kết hợp giữa kết quả phân tích các chỉ tiêu tài chính và phi
tài chính có tính khác biệt về nghành và qui mô.
2.3/ Các mô hình của CRA
Trên thế giới, hiện có ba loại hình CRA:
● Thứ nhất: Mô hình CRA 100% vốn nước ngoài.
Đây là loại hình do các CRA nước ngoài thành lập và hoạt động dưới dạng mở chi
nhánh tại nước sở tại hoặc đăng ký thành lập công ty. Mô hình này thường chỉ có một pháp

nhân đứng ra thành lập hoặc có hai pháp nhân nước ngoài.
Để mô hình này có thể đi vào hoạt động đòi hỏi phải có một thị trường trái phiếu phát triển
nhất định và có sự đầu tư lớn từ trong nước cũng như quốc tế.
● Thứ hai: Mô hình công ty liên doanh với nhà đầu tư nươc ngoài
Mô hình này do các CRA nội địa và CRA nước ngoài cùng thiết lập liên doanh để khai
thác một số dịch vụ của ĐMTN. Để xây dựng mô hình thì đối tác trong nước phải là một tổ
chức tài chính hoặc một DN đã rất am hiểu về hoạt động của CRA mới phát huy được vai trò
của nó và tránh không bị đối tác nước ngoài chi phối.
● Thứ ba: Mô hình công ty cổ phần có sự tham gia của các cổ đông chiến lược nước
ngoài.
Với mô hình loại này thì CRA đóng vai trò là một công ty cổ phần, trong đó ngoài các
cổ đông trong nước còn có sự tham gia của các cổ đông chiến lược nước ngoài. Họ là những
nhà đầu tư lớn, có vai trò đặc biệt quan trong trong việc chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân
sự và cử người điều hành DN. Trong mô hình này không có sự phân biệt đối xử giữa cổ đông
trong nước và nước ngoài về tỷ lệ sở hữu. Nguyên tắc phan bổ tỷ lệ sở hữu là tùy thuộc vào
vai trò của từng nhà đầu tư trong việc hình thành sự ra đời và hoạt động của CRA.
3/ Các hình thức của ĐMTN
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
3
SVTH: Thiều Bích Ngọc
Kinh doanh thông tin tín nhiệm từ lâu đã không còn xa lạ trên thế giới. Hoạt động của
các tổ chức ĐMTN rất đa dạng với nhiều hình thức và dịch vụ khác nhau.
3.1/ Cung cấp thông tin tín nhiệm DN
● Thông tin tín nhiệm DN :
Thông tin tín nhiệm là những thông tin ngắn gọn, chính xác được kiểm chứng bởi một
tổ chức ĐMTN có uy tín. Thông tin tín nhiệm nhằm đánh giá khả năng thanh toán, mức độ tín
nhiệm của một cá nhân, một DN, một nghành hoặc một quốc gia. Thông tin tín nhiệm DN
giúp các nhà quản lý ra quyết định nhanh hơn và chính xác hơn nhằm hạn chế rủi ro trong
kinh doanh.

● Cung cấp thông tin tín nhiệm DN:
Đây là một dịch vụ mà các CRA có nghĩa vụ sẽ thường xuyên ĐMTN các công ty có
yêu cầu được định mức xếp hạng nhằm phục vụ cho nhà đầu tư của công ty. Trong suốt thời
gian hiệu lực của hợp đồng, CRA sẽ luôn cập nhật thông tin, theo sát các công ty và nghành
những sự kiện có ý nghĩa hoặc những sự phát triển có ảnh hưởng tới kết quả định mức nhằm
đảm bảo quá trình ĐMTN một cách chính xác. Ít nhất một năm một lần, CRA sẽ đánh giá lại
mỗi công ty. Bất cứ lúc nào trong suốt quá trình giám sát, CRA cũng có thể ban hành hai loại
công bố:
 Cảnh bảo tín nhiệm:
Là lời cảnh báo cho công chúng rằng, đã xảy ra một sự kiện gì đó hoặc là về điều kiện
kinh doanh hoặc là một sự kiện trong công ty mà có thể ảnh hưởng đến ĐMTN. Cảnh báo tín
nhiệm có nghĩa là CRA sẽ đánh giá các sự kiện và các sự kiện này có thể được cho rằng “tích
cực”, “tiêu cực”, hoặc “đang phát triển” phụ thuộc vào các tình huống cụ thể. ĐMTN hiện
thời vẫn còn hiệu lực cho đến khi CRA hoàn thành đánh giá đầy đủ.
 Cập nhật tín nhiệm:
Là việc xem xét lại ĐMTN đã ban hành trước đó. Bản mới được công bố sau khi CRA
đánh giá được ảnh hưởng của một sự kiện có ý nghĩa và nó bao gồm những thông tin bổ sung
cho ĐMTN đã công bố trước đó. Cập nhật ĐMTN và công bố ĐMTN sẽ “thăng hạng”,
“xuống hạng” hoặc bị hủy bỏ.
3.2/ Đánh giá tín nhiệm và xếp hạng DN
Đây là một trong những dịch vụ chính của loại hình kinh doanh tín nhiệm DN. Đánh
giá tín nhiệm là một dịch vụ rất phổ biến trên thế giới. Ở hầu hết các nước phát triển và nhiều
nước trong khu vực Đông Nam Á đã có các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này. Đây là một
dịch vụ hết sức cần thiết đối với nền kinh tế thị trường, đặc biệt là đối với các NH.
Đánh giá tín nhiệm hay xếp hạng tín nhiệm DN là việc đánh giá khả năng đáp ứng các
nghĩa vụ nợ của một công ty, hay đánh giá mức độ rủi ro gắn liền với các loại đầu tư khác
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
4
SVTH: Thiều Bích Ngọc

nhau. Các loại đầu tư này có thể dưới dạng các công cụ cho vay như vay và gửi tiền tại NH,
hay có thể dưới dạng các chứng khoán như trái phiếu, cổ phiếu, thương phiếu…
Xếp hạng DNlà một phần của quá trình cung cấp thông tin tín nhiệm DN thôngqua các
khâu thu thập, sàng lọc, chia nhóm, phân tích, đánh giá, so sánh và cho điểm các thông tin tín
nhiệm để xếp hạng các DN theo các cấp độ khác nhau. Mục đích của việc xếp hạng DN là đưa
ra ý kiến về khả năng thực hiện một nghĩa vụ tài chính của DN ví các DN thường sử dụng vốn
kinh doanh từ nhiều nguồn khác nhau, từ các nhà đầu tư, các NH hay từ nguồn vốn của các
nhà cung cấp. Vì vậy mà nó rất cần thiết cho nền kinh tế, đặc biệt là đối với hoạt động của NH.
Khi tham gia đánh giá tín nhiệm, DN sẽ được nhận những thông tin đánh giá độc lập,
khách quan về tình hình tài chính, khả năng thanh toán nợ. Mặt khác, các DN còn nhận được
dich vụ tư vấn tài chính, quản lý, quan hệ công chúng (PR)… Tuy nhiên, để có thể đánh giá
tín nhiệm của một DN, các CRA phải dựa trên hai chỉ tiêu là tài chính và phi tài chính. Có
hơn 100 chỉ tiêu tính điểm và các phương pháp kiểm tra chéo phức tạp để có thể đưa tới việc
xếp hạng từ AAA, AA, BB… cho mức độ tín nhiệm của DN .
Chỉ tiêu tài chính bao gồm các con số về vốn, vòng vay, khả năng thanh toán, tín dụng,
thua lỗ, các chỉ số tài chính…
Các chỉ tiêu phi tài chính bao gồm những thôngtin liên quan tới giám đốc, ISO,
thương hiệu hoặc nhân sự, những tai tiếng, uy tín trên thương trường…
Những chỉ tiêu tài chính sẽ được lượng hóa, những chỉ tiêu phi tài chính sẽ qua sự
đánh giá của các chuyên gia trong ngành. Và nhiệm vụ của các DN là phải có trách nhiệm
cung cấp đầy đủ, chính xác những tài liệu, thong tin về tình hình tài chính và phi tài chính
trong phạm vi của mình theo yêu cầu của các tổ chức đánh giá. Ngoài ra còn phải tạo điều
kiện cho cán bộ đánh giá trong quá trình kiểm tra, thẩm định lại các thông tin một cách chính
xác.
4. Tiêu chuẩn của một tổ chức ĐMTN
Các tiêu chí tối thiểu của một CRA cần phải đạt được gồm: Khách quan, độc lập, minh
bạch, công khai và chuyên nghiệp. Những tiêu chuẩn này do NH Thanh toán quốc tế đề ra và
đã được các nhà đầu tư trên thế giới thừa nhận.
Điều cần lưu ý ở đây là, tuy nhiệm vụ chính của các CRA là đánh giá mức độ tín
nhiệm của các DN, nhưng khách hàng chủ chốt của các CRA là các nhà đầu tư chứ không

pahỉ các DNhay các nhà phát hành mặc dù họ là người trả phí dịch vụ ĐMTN. Vì vậy mà yêu
cầu đối với tổ chức này là khá khắt khe.
Đó phải là một tổ chức hoạt động với tư cách độc lập. Độc lập là mình không chịu sức
ép của bất cứ quyền lực nào, không chịu sự chi phối trong các qui định được đưa ra bởi bất cứ
một cơ quan nào, không xung đột hay có mối quan hệ lợi ích với các tổ chức được ĐMTN.
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
5
SVTH: Thiều Bích Ngọc
Có như vậy các đánh giá tín nhiệm mới mang tính khách quan và đáng tin cậy. Đó cũng là
nhu cầu tồn tại của bản thân các CRA.
Trong điều kiện hiện nay, con người là vấn đề quan trọng hàng đầu. Các CRA phải có
một đội ngũ chuyên gia thực sự giỏi cùng với việc xây dựng một qui trình đánh giá khoa học,
khách quan và chính xác, phù hợp với từng điều kiện của mỗi nền kinh tế. Kết quả xếp hạng
phải được thực hiện bởi một đội ngũ chuyên gia về các lĩnh vự tài chính và phi tài chính. Từ
việc thu thập thông tin đến việc kiểm tra, thẩm định phải được tiến hành một cách đầy đủ,
chính xác và được đánh giá theo đúng tiêu chuẩn quốc tế. Cuối cùng các chuyên gia đầu
ngành sẽ họp và đưa ra kết quả cuối cùng, đó là sự tổng hợp của tất cả các bước trên.
Một điều kiện cũng rất quan trọng đối với một CRA là công tác quảng bá ra công
chúng. Một tổ chức muốn đánh giá DN và muốn khẳng định mình thì trước hết phải tạo dựng
được vị thế và uy tín trong cộng đồng DN.
Tóm lại, điều kiện để một tổ chức định mức tín nhiệm hoạt động thành công là được
tin cậy, độc lập, không thiên vị, có năng lực về kỹ thuật - nhân lực, đầy đủ về cả số lượng lẫn
chất lượng, tiếp cận được với những thông tin đáng tin cậy về tổ chức được định mức và tạo
dựng được hình ảnh của mình trong cộng đồng DN .
II/ TIỀM NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐMTN DOANH NGHIỆP
1/ Tổng quan về hoạt động của NHTM Việt Nam
Qua gần 15 năm hình thành và chuyển đổi từ tập trung bao cấp sang kinh doanh thị
trường, hệ thống NHTM Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và có nhiều đóng góp to lớn cho sự
phát triển của nền kinh tế. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới nhưng cho đến nay,

thực trạng về hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam vẫn còn có rất nhiều bất cập và hạn chế,
gây khó khăn cho việc phát triển của hệ thống NHTM nói riêng và của cả nền kinh tế nói
chung.
1.1/ Về khả năng huy động vốn
Trong vài năm trở lại đây, cùng với sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, nhu cầu về
vốn của nền kinh tế luôn ở mức cao đã buộc các NHTM phải tăng cường huy động vốn và tăng
khối lượng tín dụng cho các DN. Tuy nhiên, sự có mặt của các ngân hang nước ngoài với khả
năng tài chính dồi dào, loại hình dịch vụ ngân hang đa dạng, nhất là các dịch vụ NH hiện đại
dựa trên công nghệ cao đã buộc các NHTM Việt Nam phải quan tâm đầu tư hiện đại hóa
nghiệp vụ NH, hệ thống hạ tầng kỹ thuật để cung cấp các dịch vụ NH hiện đại, tiện ích hơn.
Nhưng quan trọng nhất vẫn là phải tăng cường nguồn vốn tự có của chính bản thâm NH mới có
thể đáp ứng các nhu cầu về đầu tư và mở rộng cho vay. Vì vậy, trước khi đề cập đến khả năng
huy động vốn, chúng ta cần quan tâm đến tình hình vốn điều lệ và vốn tự có của các NHTM
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
6
SVTH: Thiều Bích Ngọc
Việt Nam vì nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của NH– là loai hình
DN kinh doanh tiền tệ nhằm thu hút vốn của các DN và dân cư.
1.1.1/ Vốn điều lệ và vốn tự có
1.1.2/ Tình hình huy động vốn
1.2/ Về hoạt động cho vay
Để có thể cung cấp đủ vốn cho nền kinh tế, hoạt động cho vay trong các NHTM luôn
đóng một vai trò rất quan trọng. Trong những năm qua, thị phần cho vay của các NHTM không
ngừng tăng lên và đang ngày càng được mở rộng. Mục đích là nhằm phục vụ cho nhiều thành
phần kinh tế trong nhiều lĩnh vực khác nhau chứ không tập trung cho vay vào các thành phần
kinh tế nhà nước như trước đây. Đó là một dấu hiệu tốt của nền kinh tế và cũng giúp cho hoạt
động của NHTM có nhiều đổi mới tốt hơn.
Bảng : Dư nợ cho vay của hệ thống NHTM Việt Nam
ĐVT: Tỷ đồng

Chỉ tiêu
2000 2001 2002
Cho vay Tỷ lệ
(%)
Cho vay Tỷ lệ
(%)
Cho vay Tỷ lệ
(%)
NHTM VN
NH Cổ phần
NH Nước
ngoài
123.840
18.920
29.240
72
11
17
156.950
27.950
30.100
73
13
14
206.535
40.745
33.720
73,5
14,5
12

Tổng cộng 172.000 100 215.000 100 281.000 100
Nguồn: NHnhà nước
Như vậy, với gần 75% thị phần cho vay là của hệ thống NHTM Việt Nam đã cho ta
thấy, NHTM Việt Nam đang giữ vai trò chủ đạo trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Thế
nhưng, trong hoạt động tín dụng của ngân hang nói chung và tình hình cho vay nói riêng,
không phải bao giờ tín dụng cũng mang lại kết quả tốt. Quan trọng nhất là phải cho vay một
cách có hiệu quả các chương trình, dự án với một mức độ rủi ro thấp nhất. Do đó, để đảm bảo
ngân hang hoạt động có hiệu quả thì các NH phải cho vay với doanh số lớn và đặc biệt là phải
an toàn. Có như vậy mới có thể đạt được lợi nhuận cao nhất và tránh không để cho nguồn vốn
huy động được bị sử dụng một cách lãng phí.
1.3/ Về khả năng thu hồi nợ
Bảng : Tỷ lệ Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ của hệ thống NHTM Việt Nam
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
7
SVTH: Thiều Bích Ngọc
ĐVT: %
Chỉ tiêu 1998 1999 2000 T8/2001
Cả hệ thống NH 12 12,1 9,7 9,4
NHTM Nhà nước 11 10,8 10 5,5
Nguồn: IMF, Vietnam: Statistical Appendix and Background Notes, IMF Staff Courtry Report
_ 10/5/2002, trang 75
Nợ quá hạn / Tổng dư nợ là chỉ số thể hiện tỷ lệ an toàn của một NH. Chỉ số này để đo
lường chất lượng nghiệp vụ NH. Những NHcó chỉ số này thấp cũng có nghĩa là chất lượng tín
dụng của NHnày cao. Theo qui định, nó phải đạt từ 5% trở xuống. Nhưng qua bảng số liệu ta
có thể thấy, mặc dù tỷ lệ này đang dần được cải thiện, song nó vẫn đang ở mức khá cao. Trong
khi đó, tỷ lệ này qua các năm ở các khối NHnước ngoài là khá thấp. Xét trên cả hệ thống
NHcao nhất là vào năm 1999 với 12,1%, thấp nhất vào tháng 8/2001 với 9,4%.
Từ năm 1998 đến 1999, do tình hình hoạt động không tốt nên đã làm tỷ lệ này tăng từ
12% lên 12,1%. Trong những năm sau đó, tỷ lệ này đã được giảm dần, từ 12,1% chỉ còn 9,7%

và đến tháng 8 /2001 chỉ còn 9,4%. Nhưng nhìn chung, tỷ lệ này giảm không nhiều, từ năm
1999 đến tháng 8/2001 chỉ giảm có 2,7%. Tuy nhiên, đây cũng là một dấu hiệu tốt của hệ
thống NH.
Riêng đối với các NHTM Việt Nam trong giai đoạn này, ta có thể thấy rõ chênh lệch về
tỷ lệ Nợ quá hạn / Tổng dư nợ từ năm 1998 là 11% đến tháng 8/2001 chỉ còn là 5,5%, tức là số
nợ quá hạn đã giảm được đến 50%, nhưng vẫn còn lớn hơn rất nhiều so với tỷ lệ an toàn là 5%.
Một trong những nguyên nhân chính gây ra sự kém hiệu quả của hoạt động NHTM Việt
Nam chính là quyền tự chủ của các NH chưa được tôn trọng. Việc cho vay của các NH này
chịu ảnh hưởng của những yếu tố kinh tế, đặc biệt là các khoảng cho vay đối với các DNnhà
nước (DNNN). Chẳng hạn như cho phép cung ứng các khoản vay mà không phải thế chấp các
tài sản cũng như gia hạn thêm đối với một số khoản nợ, chuyển các khoản nợ NH thành vốn
ngân sách cấp. Tình hình trên là một trong những tồn tại còn hạn chế của hệ thống NHTM Việt
Nam.
Bảng : Dư nợ cho vay của 4 NHTM Việt Nam với các DNNN
ĐVT: Tỷ đồng
DNNN (Theo các ngành sản xuất) Tổng dư nợ NH
Mía đường
Sắt thép
Phân bón
3.881
896
858
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
8
SVTH: Thiều Bích Ngọc
Xi măng
Giấy
2.900
746

TỔNG CỘNG
Nguồn: Tạp chí NH, số 9/2004 – trang 14
Từ bảng số liệu cho thấy, số dư nợ mà các NHTM dành cho các DNNN là rất lớn. Lớn
nhất là ngành mía đường với 3.881 tỷ đồng; hai ngành sắt thép và phân bón gần như tương
đương nhau với 896 và 858 tỷ đồng. Thấp nhất là ngành công nghiệp giấy với 746 tỷ. Dù được
cho vay với số dư nợ lớn như vậy nhưng hoạt động ở các DNNN là khá yếu kém. Thực tế trong
thời gian qua, các DNNN trên hoạt động hầu như không có lãi. Tình hình này đã đặt các
NHTM Việt Nam trong tình trạng rủi ro rất lớn. Chính điều đó là nguyên nhân khiến cho tiềm
lực tài chính của các NHTM tăng rất chậm, nguồn tài chính để tái đầu tư bị suy kiệt theo chu
kỳ xử lý nợ.
Ngoài ra, hoạt động cho vay của các NHTM Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu dựa vào
các tài sản dùng làm đảm bảo, thế chấp. Khi rủi ro xảy ra, việc xử lý hoặc phát mãi những tài
sản này là rất phức tạp. Về mặt pháp lý phải qua nhiều khâu, gây mất nhiều thời gian và chi phí.
Nhưng quan trọng nhất vẫn là khâu xem xét, thẩm định dự án. Khâu này cần đòi hỏi trình độ và
tính chuyên nghiệp của bản thân NH trong việc quản lý rủi ro. Mặc dù là khâu quan trọng và
quyết định nhất, nhưng cho đến nay, hoạt động của các bộ phận quản lý rủi ro, thẩm định dự án
trong hệ thống các NHTM Việt Nam vẫn còn rất yếu kém. Trình độ nghiệp vụ, chuyên môn
vẫn còn có sự chênh lệch rất lớn so với các nước trong khu vực và quốc tế. Trong khi đó,
những khoảng cho vay lại thu hồi không đủ dẫn đến tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn vẫn còn rất cao
trong các NH. Đó là một sự lãng phí rất lớn, vừa là một gánh nặng không chỉ đối với hệ thống
NH mà đối với cả nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Ngoài ra, sự yếu kém còn được biểu hiện cụ thể trong các kế hoạch hoạt động kinh
doanh của các NHTM. Ở Việt Nam cho đến nay, các NHTM phần lớn vẫn thường tập trung
vào các chỉ tiêu số lượng mà chưa thực sự quan tâm đến chỉ tiêu chất lượng. Thậm chí, các chỉ
tiêu số lượng và chất lượng còn chưa phù hợp theo chuẩn quốc tế. Một điểm hạn chế rất lớn
trong hệ thống NHTM Việt Nam đó là sự thiếu minh bạch trong hoạt động tài chính của các
NH. Điều đó gây khó khăn không nhỏ trong việc xác minh chắc chắn điều kiện và tình trạng
thật sự của chất lượng tín dụng NH. Hậu quả là lợi nhuận báo cáo của các NHdường như bị
thổi phồng nhưng không thể xác định chắc chắn là đến mức nào.
2/ Vai trò của ĐMTN đối với hoạt động của hệ thống NHTM Việt nam

2.1/ Sự cần thiết:
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
9
SVTH: Thiều Bích Ngọc
Hiểu biết và quản lý rủi ro là chìa khóa để dẫn đến thành công của NH. Đối với một
khoảng lợi tức tiềm năng đều có sự rủi ro tương ứng. Cho đến nay, rủi ro tín dụng là rủi ro
chính yếu nhất, nó chiếm đến 80% tổng rủi ro mà NH phải gánh chịu. Lịch sử đã cho thấy
nhiều NH thất bại vì không hiểu chính chắn về khách hàng của mình. Vì vậy, việc phân tích
hoạt động kinh doanh và đánh giá, xếp loại DN được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu của các
NHTM Việt Nam hiện nay.
Ở các nước trên thế giới, một trong những kỹ thuật quản lý rủi ro tín dụng của NH là
phương thức sử dụng kỹ thuật phân tích để xét duyệt khả năng và mặt uy tín về mặt tín dụng
của khách hàng một cách thường xuyên. Nếu khách hàng được sự tín nhiệm tín dụng cao thì
được vay nhiều hơn. Đó là tiến trình xét duyệt tín dụng. Các NH sẽ đưa ra các chỉ tiêu và kèm
theo các thang điểm cơ bản để đánh giá, xếp loại tín dụng theo A, B, C… Các thông tin tín
dụng của NHTW để cho các NH tham khảo.
Ở Việt Nam hiện nay, trong xu thế cạnh tranh và hội nhập tạo nên thời cơ và thách thức
mới, đối với hệ thống NHTM Việt Nam cần phải có sự đột phá vững mạnh, đởi mới công nghệ,
đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro, giảm bơt tỷ
lệ nợ quá hạn hiện nay tại các NH còn khá cao, khoảng ( … ), các NH cần thận trọng, am hiểu
rõ khách hàng của mình là người đang kinh doanh như thế nào. Vì vậy, việc phân tích tài chính,
xếp loại DN là kỹ thuật nghiệp vụ không thể thiếu được trong hoạt động tín dụng NH và đóng
vai trò trong việc quyết định chất lượng tín dụng NH, cho phép NH chủ động lựa chọn tín dụng
NH và xây dựng chính sách tín dụng hợp lý hơn.
2.2/ Vai trò của ĐMTN đối với hoạt động của NHTM Việt Nam:
Trong một nền kinh tế, nếu vốn luôn được coi là điều kiện vật chất để duy trì các hoạt
động kinh tế thì sự tồn tại của các NH lại được coi là điều kiện cần thiết cho việc lưu thông các
nguồn vốn trong xã hội. Vì thế, việc tổ chức và đảm bảo sự an toàn cho các hoạt động của
NHluôn được xem là vấn đề quan trọng, có ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình phát triển của một

đất nước. Đối với nước ta, kể từ khi Đảng và Nhà nước chủ trương chuyển đổi nền kinh tế từ
kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước thì hoạt
động NH là một trong những lĩnh vực chịu sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc nhất bởi các yếu tố
mới phát sinh trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Với số nhu cầu vốn ngày càng tăng cho
các hoạt động kinh tế thị trường thì khả năng huy động vốn trong các NH lại trở thành vấn đề
cần thiết và cấp bách.
Ngày nay hầu hết những TTCK của các nước trên thế giới đều tồn tại ít nhất một tổ
chức ĐMTN, một phần là do xu thế của thời đại, nhưng phần lớn là do vai trò quan trọng của
nó trên thị trường tài chính.
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
10
SVTH: Thiều Bích Ngọc
► Thứ nhất, nó thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn, là động lực gián tiếp cho sự
phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam. Các nhà phát hành cũng thường dùng “xếp hạng tín
nhiệm” như là một chiến lược để huy động vốn. Cho đến thời điểm này, các tổ chức ĐMTN
đóng vai trò như là một cầu nối giữa nhà đầu tư và thị trường. Khi thị trường tài chính và việc
toàn cầu hóa ngày càng phát triển thì việc xếp hạng tín nhiệm được dùng như một công cụ để
giám sát thị trường tài chính, nhằm làm giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư và cho cả hệ thống
nói chung.
Hiện nay, Việt Nam đang nổ lực để xây dựng một nền kinh tế thị trường trong đó sự
minh bạch là điều kiện thiết yếu để chủ động hội nhập và phát triển. TTCK là một kênh huy
động vốn rất quan trọng nhưng hiện nay vẫn phát triển một cách chậm chạp với quá nhiều biến
động và rủi ro. Một trong những nguyên nhân của sự trì trệ này là chưa có một tổ chức đánh
giá tín nhiệm. Như vậy, để TTCK phát triển, việc thành lập một tổ chức đánh giá tín nhiệm là
vấn đề hết sức cần thiết. Việc xúc tiến hình thành CRA tại Việt Nam đồng nghĩa với việc xây
dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng của thị trường vốn ở Việt Nam mà trên thực tế đang đòi hỏi
phải có nhiều loại định chế trung gian có uy tín và hoạt động độc lập.
► Tầm quan trọng thứ hai của các CRA chính là sự toàn cầu hoá. Các quỹ đầu tư giờ
đây vươn ra khắp thế giới, các quan hệ tín dụng theo đó cũng bị ảnh hưởng bởi các CRA. Họ

không chỉ xếp hạng các tổ chức phát hành mà còn xếp hạng cả các quốc gia. Bởi vì sản phẩm
của các CRA chính là việc cung cấp cho thị trường một hệ thống xếp hạng các công cụ tài
chính, đặc biệt là các chứng khoán nợ, từ đó giúp cho các nhà đầu tư có cơ sở để tham khảo, so
sánh đối chiếu kỹ càng trước khi đưa ra quyết định đầu tư cuối cùng của mình, đó là nên đầu tư
vào những công cụ nào? Điều này có nghĩa là chính hệ thống xếp hạng mà các CRA đưa ra
đóng vai trò làm người bảo vệ các nhà đầu tư giảm bớt rất nhiều rủi ro khi đầu tư vào chứng
khoán. Bảng xếp hạng của các CRA cũng chính là một trong những phương tiện báo hiệu sự
vận động của TTCK bên cạnh những chỉ báo khác.
Hệ thống xếp hạng của các CRA không chỉ có lợi về phía các nhà đầu tư, mà còn mang
lại lợi ích to lớn cho các công ty chứng khoán. Chính hệ thống xếp hạng đã làm nền tảng vững
chắc cho việc lựa chọn một danh mục đầu tư lý tưởng đối với các công ty quản lý, các công ty
chứng khoán cho nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư và nghiệp vụ tự doanh. Các CRA còn là
nhân tố kích hoạt TTCK thêm sôi động, tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao và chuẩn hoá
kiến thức về phân tích kinh tế, tài chính, kế toán Hệ quả của những nhân tố kể trên sẽ mang
lại luồng sinh khí cho sự phát triển mạnh mẽ và hoàn thiện TTCK. Điều này đặc biệt có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với TTCK Việt Nam vốn còn rất non trẻ và sơ khai.
► Thứ ba, nó là cơ sở giúp các NH nâng cao hiệu quả trong hoạt động cho vay tín
dụng, góp phần làm giảm tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn trong các NH. Vì sự ra đời của các CRA có
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
11
SVTH: Thiều Bích Ngọc
nhiệm vụ là đánh giá tín nhiệm của các DN. Nó cũng giống như việc phân tích tài chính và
đánh giá rủi ro tín dụng trong các NH. Nhưng các CRA lại là các tổ chức chuyên nghiệp hơn
với các nghiệp vụ chuyên môn và bài bản hơn. Do đó, các thông tin mà CRA đưa ra sẽ cung
cấp chính xác tình hình và tài chính thực tế của các DN cũng như các thông tin phi tài chính
khác. Những thông tin đó sẽ là những cơ sở rất tốt giúp cho NH cho vay một cách hiệu quả
nhất. Bởi chỉ có những DN có mức xếp hạng cao, độ tín nhiệm tốt mới được phép vay để đầu
tư, sản xuất. Bản thân các DN này khi được đánh giá tín nhiệm cao cũng có nghĩa là họ làm ăn
rất hiệu quả. Như vậy, rủi ro từ những khoản vay của các DN này là rất thấp. Và khi NH cho

vay hiệu quả nghĩa là tỷ lệ của những khoản nợ quá hạn, nợ xấu sẽ được giảm xuống. Điều đó
sẽ góp phần nâng cao hoạt động và chất lượng tín dụng trong các NH.
► Thứ tư, nó sẽ là yếu tố có tác động tích cực đến khả năng huy động vốn trong các
NH. Các CRA không chỉ đánh giá tín nhiệm các DN mà còn phân tích, xếp hạng đối với cả các
tổ chức tài chính, các công ty bảo hiểm và các NH…
Như vậy, trong bối cảnh cạnh tranh như hiện nay, muốn được đánh giá cao thì bản thân
các NH phải hoạt động thật tốt. Không chỉ tốt từ khâu hoạt động cho đến việc quản lý hành
chính, rủi ro tín dụng và cả về mặt nhân sự. Khi một NH được CRA đánh giá tốt, có mức độ
tín nhiệm cao nghĩa là NH đã làm tốt các khâu trên. Điều đó không chỉ giúp cho NH thấy được
những mặt mạnh, mặt yếu cảu mình để có những hướng điều chỉnh đúng đắn và hợp lý hơn.
Mặt khác, nó còn làm cho các nhà đầu tư cảm thấy yên tâm hơn khi gửi tiền hay đầu tư vào các
cổ phiếu hoặc dự án của NH. Lúc này, việc huy động vốn đối với các NH sẽ không còn quá
khó khăn như trước đây. Và khi vốn được huy động càng ngày càng nhiều, nghĩa là nó đã cung
cấp cho nhu cầu của thị trường vốn Việt Nam đang ngày càng tăng, qua đó góp phần thúc đẩy
sự phát triển chung của cả nền kinh tế.
► Thứ năm, trong bối cảnh chung như hiện nay, khi mà các NHTM Việt Nam đang
được cổ phần hóa ngày càng nhiều và chuẩn bị được đưa lên các sàn giao dịch chứng khoán,
thì đây có thể sẽ là một kênh huy động vốn rất lớn của các NH trong tương lai, không chỉ có
các nhà đầu tư trong nước mà còn có sự tham gia của cả các tập đoàn đầu tư tài chính nước
ngoài. Tuy nhiên, TTCK Việt Nam hiện nay vẫn còn rất non trẻ. Vấn đề thông tin luôn là một
nhu cầu không bao giờ đáp ứng đủ cho các nhà đầu tư. Vì vậy, việc nắm giữ thông tin sẽ là một
yếu tố rất quan trọng giữ vai trò quyết định đối với các nhà đầu tư Việt Nam. Trong điều kiện
mức độ hiểu biết của công chúng đầu tư còn hạn chế, các kênh cung cấp thông tin và đánh giá
đúng rủi ro còn rất ít hoặc chưa có, sự xuất hiện của các CRA sẽ cung cấp thêm nhiều thông tin
cho cộng đồng đầu tư, và chính bảng xếp hạng của các CRA sẽ làm cho nhà đầu tư yên tâm
hơn khi tiếp cận với thị trường (nghĩa là giúp họ có cơ sở và tự tin hơn khi thực hiện quyết định
đầu tư vào một loại chứng khoán nợ nào đó). Việt Nam đã có TTCK, song hoạt động của các
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
12

SVTH: Thiều Bích Ngọc
tổ chức định mức tín nhiệm vẫn chưa xuất hiện. Nhưng vì vai trò của tổ chức này là rất quan
trọng, trong khi đó Việt Nam lại đang trong quá trình hội nhập quốc tế, tự do hoá tài chính và
phát triển triển TTCK, nên việc thành lập và đưa tổ chức ĐMTN vào hoạt động tại Việt Nam là
vấn đề hết sức cấp thiết.
Tóm lại, hiệu quả hoạt động và chất lượng tín dụng của một NH được chứng minh bằng
khả năng huy động vốn, hoạt động cho vay và tình hình dư nợ của bản than NH. Vì vậy, vai trò
cảu các CRA đối với hệ thống NHTM Việt Nam là rất lớn. Nhất là trong giai đoạn hiện nay,
khi Việt Nam đang chuẩn bị bước vào giai đoạn hội nhập và phát triển. Tuy nhiên, hoạt động
của các NHTM Việt Nam vẫn còn rất yếu và có nhiều hạn chế. Sự xuất hiện của các CRA sẽ là
động lực to lớn giúp cho hoạt động của các NHTM được tốt hơn, tạo điều kiện cho các NH
phát triển mạnh mẽ và ổn định.
3/ Hoạt động của ĐMTN ở Việt Nam
Kinh doanh thông tin tín nhiệm từ lâu đã không còn xa lạ trên thế giới. Hầu hết các
nước phát triển và trong khu vực Đông Nam Á đã có các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên tại VN, khái niệm trên vẫn còn rất mới mẻ và loại hình kinh doanh này mới chỉ ở
bước khởi đầu.
Từ năm 1996, một nhóm các cán bộ chuyên nghiệp từng công tác trong các cơ quan
thông tin tín dụng, dự án đánh giá tín nhiệm của Nhà nước đã tập hợp nhau lại và hoạt động
thông tin tín nhiệm. 5 năm sau, Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam chính thức thành lập đầu
năm 2001 tại Hà Nội. Công ty tập trung vào ba mảng hoạt động chính là: Thông tin tín nhiệm,
tư vấn luật và dịch vụ đại diện cho các hãng của nước ngoài. Sau 4 năm hoạt động, năm 2004
Công ty C&R (Credit and Ratings) chính thức được tách riêng, đánh dấu một bước phát triển
lớn của Giải Pháp Việt Nam. C&R chỉ tập trung vào hoạt động trong lĩnh vực Thông tin tín
nhiệm và xếp hạng DN . Công ty được tổ chức dưới hính thức các nhóm hạt nhân làm việc độc
lập, sáng tạo và linh hoạt. Bên cạnh đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, công ty còn có một mạng
lưới cộng tác viên, và các đại diện trên khắp đất nước. Sự tích cóp liên tục và bền bỉ những
thông tin nhỏ nhất đã đem đến cho C&R một kho dữ liệu đồ sộ và chính xác về hoạt động của
các DN Việt Nam. Công ty thường cung cấp thông tin tín nhiệm ở 3 dạng:
 Báo cáo cơ bản.

 Báo cáo chuẩn .
 Báo cáo tổng hợp chi tiết.
Hiện nay, hoạt động của C&R cũng đã được mở rộng thông qua cổng thông tin của
trang web “Doanh nhân Việt Nam” (www.doanhnhanvietnam.com). Khi là thành viên của
website này, các DN có quyền cung cấp thông tin về mình và cũng có quyền tiếp cận các thông
tin tín nhiệm về các DN khác trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam và trên thế giới.
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
13
SVTH: Thiều Bích Ngọc
Cho đến nay, VN mới có hai DN hoạt động trong lĩnh vực ĐMTN. Một là Công ty
Thông tin tín nhiệm và Xếp hạng DN (C&R) - được tách ra từ Công ty Giải pháp VN năm
2004. Hai là Trung tâm đánh giá tín nhiệm Vietnamnet (Credit Ratings Vietnamnet Center -
CRVC) thuộc công ty phần mềm truyền thông VASC, vừa đi vào hoạt động trong gần một năm
qua. (Bắt đầu hoạt động chính thức từ ngày 4/6/2005)
Những dịch vụ chủ yếu của C&R là cung cấp thông tin tín nhiệm, xếp hạng tín nhiệm
DN và điều tra thị trường theo ngành kinh tế. Trong khi đó, dù mới ra đời, CRVC cũng đã
cung cấp khá nhiều dịch vụ đa dạng liên quan đến loại hình ĐMTN. CRVC sẽ là tổ chức
chuyên cung cấp cho DN các dịch vụ thu thập thông tin, đánh giá xếp hạng, ĐMTN các tổ
chức tài chính, xếp hạng DN .
Đồng thời, đơn vị này cũng nhận tư vấn, hỗ trợ DN trong việc tạo dựng uy tín trên thị
trường, xây dựng thương hiệu có sức cạnh tranh; thẩm định lại các thông tin; xây dựng cơ sở
dữ liệu về các DN, doanh nhân, từ đó phát triển dịch vụ tư vấn tài chính, môi giới đầu tư
Đối tượng phục vụ chính của C&R và CRVC là các nhà đầu tư, các DN hay hệ thống
các NHtrong nước và quốc tế. Thông tin tín nhiệm và đánh giá tín nhiệm DN là một loại hình
kinh doanh đặc biệt, liên quan mật thiết đến hình ảnh và uy tín của các DN . "Nguyên tắc hoạt
động của C&R là những thông tin đưa ra phải hoàn toàn mang tính khách quan và được điều
tra trực tiếp trên nguyên tắc ý thức trách nhiệm như của chính mình. Trong quá trình xây dựng
các chỉ tiêu, cả C&R và CRV đều tham khảo đánh giá của các tổ chức định giá tín nhiệm lớn
nhất trên thế giới là Standard & Poor's, Moody's và Equifax…và xây dựng được hệ thống đánh

giá riêng, phù hợp với điều kiện của VN. Theo đó, hơn 100 chỉ tiêu tính điểm và các phương
pháp kiểm tra chéo phức tạp để có thể đưa tới việc xếp hạng từ AAA, AA, BB cho mức độ
tín nhiệm của DN .
Sau một thời gian hoạt động, dù số lượng không nhiều nhưng những hợp đồng mà C&R
nhận được cũng cho thấy các DNVN cũng bắt đầu có sự quan tâm tới lĩnh vực này. Tính đến
nay, C&R đã cung cấp rất nhiều báo cáo tín nhiệm cho các DN trong và ngoài nước. Còn CRV
dù chỉ mới thành lập chưa được một năm nhưng cho đến nay cũng đã nhận được rất nhiều hợp
đồng yêu cầu cung cấp thông tin đánh giá tín nhiệm của các khách hàng khắp cả nước.
Với số lượng khoảng 15.000 DN và nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, hệ
thống pháp luật ngày càng đổi mới và cởi mở thì việc thành lập các DN mới sẽ ngày càng tăng
lên. Khi đó, sự ra đời của một tổ chức có thể đánh giá khả năng hoạt động và độ tín nhiệm của
một DN là rất cần thiết. Hiện nay, loại hình hoạt động của ĐMTN đang rất được nhà nước và
các DN Việt Nam quan tâm. Tuy nhiên, việc lựa chọn một mô hình hoạt động của CRA sao
cho thích hợp với những đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam hiện nay không phải là dễ. Mô
hình công ty cổ phần có các cổ đông chiến lược nước ngoài đang được xem là một lựa chọn
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
14
SVTH: Thiều Bích Ngọc
mang tính khả thi cao. Việc lựa chọn đúng các cổ đông chiến lược nước ngoài và vận động họ
tham gia thành lập công ty định mức tín nhiệm đầu tiên của Việt Nam là con đường nhanh nhất
để hình thành một tổ chức ĐMTN đủ uy tín và đảm bảo vai trò độc lập của DN trong thị trường
tài chính Việt Nam.
Đã có rất nhiều hội thảo được tổ chức nhằm tìm ra hướng đi cho loịa hình này sao cho
phù hợp với điều kiện của nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra, chúng ta còn mời cả các tập đoàn
đánh giá tín nhiệm lớn, có uy tín trên thế giới như Standard & Poor’s, Moody’s… nhằm học
hỏi kinh nghiệm và phương thức làm việc, hoạt động của các tổ chức này.
Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam (VAFI) hiện nay cũng đang xúc tiến việc thành lập
một cơ quan ĐMTN nhằm đóng góp vào sự phát triển của thị trường vốn và đặc biệt là thị
trường trái phiếu, thông qua đó góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam.

Tóm lại, việc thành lập và phát triển ĐMTN ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với xu
hướng và nhu cầu thị trường. Vì thế, kinh doanh thông tin tín nhiệm được xem là rất có triển
vọng phát triển ở Vệt Nam, nhất là thời điểm Việt Nam gia nhập WTO đang đến gần. Hiện nay,
các ngành chức năng có liên quan, Bộ Tài chính cũng như các DN đang bắt đầu quan tâm và
tìm kiếm những bước đi phù hợp cho loại hình này ở Việt Nam.
Tuy nhiên, hoạt động ĐMTN ở Việt Nam vẫn còn rất mới mẻ. Vì thế, trong những năm
đầu mới được hình thành và đi vào phát triển, bên cạnh những thuận lợi, còn có rất nhiều
những khó khăn đòi hỏi các DN, các nhà đầu tư phải chủ động để vượt qua. Dù có trải qua một
thời gian dài hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thông tin tín nhiệm, các CRA Việt Nam vẫn
cò phải cần 20 năm nữa để thử nghiệm với môi trường của kinh tế Việt Nam mới có thể có
được những tiêu chuẩn xếp hạng ngang tầm khu vực và thế giới.
III/ MỘT SỐ THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP
1/ Thuận lợi:
Dù chỉ mới được ra đời trong vài năm gần đây, nhưng có thể nói, việc hình thành và
phát triển ĐMTN ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với xu hướng và nhu cầu của thị trường.
Một nền kinh tế minh bạch và phát triển ổn định đang trở thành vấn đề cấp thiết. Vì thế mà
hoạt động của ĐMTN ở Việt Nam hiện nay đang rất được Nhà nước và các DN quan tâm đúng
đắn, sự ủng hộ từ các tập đoàn đầu tư tài chính nước ngoài, hệ thống các ngân hang trong nước.
Hiện nay, Nhà nước ta và các tổ chức có liên quan như Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Bộ Tài
chính, các ngành chức năng có liên quan như NHNN, UBCKNN… đã và đang lên một kế
hoạch cụ thể, trong đó có việc ban hành một khung pháp lý, các qui định nhằm hỗ trợ cho việc
xây dựng một CRA phù hợp với nền kinh tế VIệt Nam nhưng vẫn không quá lệch lạc so với
các tiêu chuẩn quốc tế.
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
15
SVTH: Thiều Bích Ngọc
Ngoài ra, còn có rất nhiều cuộc hội thảo bàn về các vấn đề liên quan đến việc hình
thành các CRA tại Việt Nam, trong đó có sự tham gia của các chuyên gia kinh tế nước ngoài,
các tập đoàn CRA quốc tế để trao đổi kinh nghiệm hoạt động và làm việc.

Một thuận lợi lớn nữa là Việt Nam đã nhận được sự tài trợ và giúp đỡ kỹ thuật thông
qua dự án “Hỗ trợ kỹ thuật” do Ban thư ký ASEAN và Bộ Tài chính Nhật Bản tài trợ về việc
xúc tiến thành lập công ty CRA tại Việt Nam. Chương trình này do viện nghiên cứu Normura
thực hiện với sự tham gia tài trợ của Tổ chức phát triển kinh tế tư nhân (MPDF) cho các hội
thảo xây dựng các giải pháp hình thành CRA tại Việt Nam. Vì thế, kinh doanh thông tin tín
nhiệm được xem là có rất nhiều triển vọng phát triển ở Việt Nam, nhất là trong thời điểm Việt
Nam gia nhập WTO đang đến gần.
2/ Khó khăn:
Sự cần thiết của ĐMTN đối với nền kinh tế Việt Nam là đã quá rõ ràng. Thế nhưng, trong quá
trình hoạt động, nó vẫn chưa thực sự thu hút được đa số các DN và các nhà đầu tư tham gia.
Nguyên nhân là do đâu? Thực tế, đã có nhiều khó khăn gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt
động và sự phát triển của dịch vụ này tại Việt Nam.
2.1/ Những khó khăn khách quan
2.1.1/ Khó khăn về mặt pháp lý
Khi một DN, một tổ chức được thành lập nó phải chịu sự chi phối bởi các tiêu chuẩn
pháp lý cụ thể,sự quản lý bởi một cơ quan chủ quản nào đó. Hơn nữa, vì đánh giá tín nhiệm
DNlà một lĩnh vực rất nhạy cảm. Khi các ý kiến của một CRA được đưa ra có thể gây ảnh
hưởng lớn đến hoạt động của một DN. Đồng thời, do đây là một lĩnh vực đặc thù nên nó cần
được điều chỉnh bởi một điều luật riêng. Vì vậy, việc ban hành những điều luật, những qui định
cho hoạt động kinh doanh tín nhiệm là rất quan trọng, cần được chuẩn bị và cân nhắc kỹ sao
cho phù hợp với thực tế và đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam.
2.1.2/ Khó khăn về cơ sở hạ tầng
Là một loại hình hoạt động kinh doanh chỉ mới được manh nha ở Việt Nam. Vì vậy,
chúng ta vẫn chưa có đủ điều kiện về cơ sở hạ tầng cho sự phát triển của nó. Nhưng đây là một
khó khăn không thể tránh khỏi và hầu như ở bất kỳ thị trường nào cũng gặp phải trong giai
đoạn đầu, khi ĐMTN mới bắt đầu đi vào hoạt động. Để các CRA có thể hoạt động tốt và tạo
được sự tin tưởng cho các DN , đòi hỏi những CRA này phải có một kho dữ liệu khổng lồ, tập
hợp toàn bộ lịch sử của các DN mà nó nghiên cứu, trên cơ sở đó để đưa ra các thôngtin đáng
tin cậy cho các nhà đầu tư. Từ việc thiếu các qui định về pháp lý, về những tiêu chuẩn cụ thể,
chúng ta còn thiếu cả một đôi ngũ nhân lực có đủ trình độ, có chuyên môn nghiệp vụ để có thể

hoạt động trong lĩnh vực này.
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
16
SVTH: Thiều Bích Ngọc
Với năng lực của các công ty tư vấn tài chính Việt Nam còn rất hạn hẹp, hơn nữa chúng
ta còn rất thiếu kinh nghiệm, không có đủ dữ liệu và thời gian hoạt động. Khi đó, các CRA
không thể đưa ra các “nghiên cứu về những trường hợp mất khả năng thanh toán”. Nhưng
không có các nghiên cứu về những trường hợp mất khả năng thanh toán”, thì không thể tạo
được niềm tin ở các nhà đầu tư. Nếu không được sự ủng hộ ở các nhà đầu tư, các CRA cũng
không thể tích lỹu được số liệu. Đó là một vòng lẩn quẩn đòi hỏi cần phải có sự cố gắng rất
nhiều của nhà nước ta, các Bộ - Ngành cũng như các DN .
2.2/ Khó khăn chủ quan
2.2.1/ Khó khăn xuất phát từ thị trường
Công ty ĐMTN là một định chế cao cấp nhất của thị trường tài chính. Nhiệm vụ của nó
là hướng dẫn cho các nhà đầu tư có được những quyết định đúng đắ nhất , qua đó góp phần
thúc đẩy sự phát triển của các thành phần khác có liên quan như TTCK, hệ thống NH… và sự
phát triển chung của cả nền kinh tế. Do đó, hoạt động của CRA đòi hỏi tính độc lập, tin cậy và
tính chuyên nghiệp. Chính vì những đặc tính này mà việc thành lập các CRA ở Việt Nam là rất
khó khăn trong điều kiện của Việt Nam.
Khó khăn nhất là ở chỗ thị trường vốn và thị trường trái phiếu ở Việt Nam còn rất nhỏ
bé. Mà sự ra đời của các CRA cần phải gắn liền với một TTCK đã phát triển tương đối ởn định.
Còn TTCK Việt Nam ra đời chỉ khoảng 5 năm. Đó là khoảng thời gian quá ngắn so với lịch sử
lâu đời của TTCK các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Hoạt động củanó lại khá
thăng trầm. Hàng hóa quá ít, dường như không đáp ứng đủ nhu cầu cho các nhà đầu tư và DN .
Giá cả cổ phiếu luôn trong tình trạng không ổn định. Có khi tăng quá cao, có khi lại giảm đột
biến. Nhất là trong thời gian gần đây, hoạt động của nó dường như quá nóng và quá sức chịu
đựng của thị trường. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành các tổ chức
ĐMTN ở Việt Nam.
2.2.2/ Khó khăn xuất phát từ phía các DN

Dù biết rõ sự cần thiết của ĐMTN đối với nền kinh tế, nhưng tại sao nó lại chưa thực
sự thu hút các DNtham gia và ủng hộ?
Kinh nghiệm ở các nước cho thấy, các tổ chức ĐMTN phải là tổ chức hoạt động với tư
cách độc lập, không chịu sự chi phối trong các quy định đưa ra bởi bất cứ một cơ quan nào,
không xung đột lợi ích hay có mối quan hệ với tổ chức được định mức tín nhiệm. Có như vậy,
các đánh giá định mức tín nhiệm mới mang tính khách quan và đáng tin cậy.
Ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng các CRA, vẫn có nhiều ý kiến thắc mắc ai sẽ
đánh giá tín nhiệm chính công ty định mức tín nhiệm. Hơn nữa, muốn hoạt động được ở Việt
Nam thì cần phải có một cơ quan Nhà nước can thiệp vào hoạt động của loại công ty này. Đó
là một thói quen bao cấp đã quá ăn sâu vào tư duy của nhiều DN. Theo các chuyên gia trong
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
17
SVTH: Thiều Bích Ngọc
lĩnh vực này thì yêu cầu trên là phi lý và thể hiện rõ nét tư tưởng bao cấp. Thực tế các công ty,
tổ chức đánh giá tín nhiệm DN trên thế giới và trong khu vực hầu hết là những tổ chức độc lập
hoạt động bằng uy tín, không phụ thuộc vào Nhà nước.
Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển, vừa được chuyển từ bao cấp sang của loại
công ty này có thể còn gặp nhiều khó khăn nhưng đây là nhu cầu tất yếu của một nền kinh tế
minh bạch và hội nhập. Tuy việc đánh giá ĐMTN là cần thiết với những lợi ích đã trình bày,
nhưng do vấn đề chi phí nên thông thường, các DNchỉ cần đến đánh giá ĐMTN khi muốn huy
động vốn trên thị trường để tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, hiện vẫn
có không ít ý kiến còn hoài nghi về độ tin cậy của loại hình kinh doanh trên. Bởi vì khi nói đến
vấn đề minh bạch hoá thông tin tức là đã liên quan đến quyền của DNmà vì lý do kinh doanh
nên nhiều DNchưa muốn tiết lộ một thông tin nào đó. Không phải họ làm ăn không chính đáng
mà họ dự định sẽ công bố vào một thời điểm nào đó thích hợp hơn.
Ngoài ra, những chỉ tiêu và năng lực đánh giá tín nhiệm còn rất mới mẻ và cần thời
gian kiểm chứng xem có phù hợp với VN hay không. Nếu không cẩn trọng, việc đánh giá hay
cung cấp thông tin tín nhiệm có thể khiến cho các DNtrở nên hoang mang và đẩy họ vào thế
bất lợi trước các đối tác khác.

Không những thế, việc đánh giá tín nhiệm đòi hỏi các DNphải có trách nhiệm cung cấp
đầy đủ, chính xác những tài liệu, thông tin về tình hình tài chính và phi tài chính trong phạm vi
của mình theo yêu cầu của tổ chức đánh giá. Ngoài ra còn phải tạo điều kiện cho cán bộ đánh
giá trong quá trình kiểm tra, thẩm định lại thông tin một cách chính xác. Song, các DNVN
phần lớn đều có xu hướng che giấu sự thật về bản thân mình, khuếch trương những điểm tốt,
mặt mạnh, che giấu thông tin tài chính thực và những hạn chế của mình. Đây cũng là một khó
khăn lớn của các công ty kinh doanh thông tin tín nhiệm.
Tóm lại, hoạt động ĐMTN là một nhu cầu tất yếu của nền kinh tế. Song, do nhiều
nguyên nhân mà việc xây dựng và thúc đẩy cho hoạt động của nó ở Việt Nam vẫn còn rất
nhiều khó khăn. Thiếu cơ sở hại tầng, hoạt động của thị trường nội địa còn quá yếu, trong đó tư
tưởng bao cấp vẫn là nguyên nhân lớn nhất cản trở sự phát triển của loại hình dịch vụ này. Dù
vậy, nhưng kế hoạch chuẩn bị cho việc hình thành và phát triển các CRA ở Việt Nam vẫn đang
được Nhà nước ta xúc tiến thực hiện, nhất là trong vài năm gần đây. Trên thực tế, các thành
phần ủng hộ cho ĐMTN đang ngày càng tăng lên, các DNđã quan tâm đến các CRA nhiều hơn,
đặc biệt là đối với lĩnh vực NH. Các NHhầu như tất cả đều sớm mong muốn sẽ có một tổ chức
ĐMTN ở Việt Nam. Vì vậy, dù những tiền đề cho hoạt động của ĐMTN còn gặp phải rất nhiều
khó khăn nhưng vẫn cần phải được hình thành bởi vai trò và tầm quan trọng của nó.
3/ Một số giải pháp
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
18
SVTH: Thiều Bích Ngọc
Hiện nay, tất cả tất cả các nước trong khu vực (trừ Lào, Campuchia) đều đã thiết lập
CRA trên dưới 15 năm. Khối ASEAN cũng đã thành lập Diễn đàn các DN CRA như một tổ
chức DN ngành nghề của các nước Đông Nam Á. Hiệp hội các CRA của châu Á đã được thiết
lập với sự trợ giúp của NH Phát triển châu Á (ADB). Còn ở Việt Nam, việc hình thành các
CRA mới đang ở giai đoạn đề cương.
Sự tồn tại và phát triển của các CRA tại Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào Nhà nước,
vào mong muốn của các DN . Dù còn nhiều khó khăn, thách thức, song việc thành lập các
CRA ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với nhu cầu thực tế. Vì vậy, nhiệm vụ của chúng ta bây

giờ là cần tìm một hướng đi thích hợp, những giải pháp nhằm giải quyết những khó khăn trên,
tạo điều kiện để thúc đẩy sự phát triển của ĐMTN ở Việt Nam.
3.1/ Tạo dựng khuôn khổ pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của công ty ĐMTN tại
Việt Nam:
Như đã nói trên, hiện nay Việt Nam ta vẫn chưa có một bộ luật nào qui định về loại
hình kinh doanh này. Đây là một cản trở tâm lý rất lớn cho những ai có nhu cầu muốn kinh
doanh với loại hình dịch vụ này. Đã có rất nhiều các tập đoàn tài chính quốc tế có ý định hợp
tác với các tổ chức quốc tế, các DNViệt Nam thành lập các CRA. Tuy nhiên, các DNViệt Nam
luôn có tư tưởng e ngại vì họ không biết dựa vào đâu để định hướng hoạt động. Và khi không
có những qui định cụ thể hướng dẫn cho họ, các DNsẽ không dám bỏ vốn để đầu tư vào. Đó là
cũng là một động thái hoàn toàn hợp lý. Vì vậy, trong giai đoạn đầu, Nhà nước ta cần tạo mọi
điều kiện tốt nhất cho loại hình kinh doanh thông tin tín nhiệm được hình thành một cách thuận
lợi. Nghĩa là, Nhà nước và các Bộ - Ngành có lien quan cần sớm tạo ra một khuôn khổ pháp lý
hoàn chỉnh, vừa phù hợp với thực tế, vừa phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế đất nước nhằm
đưa các CRA sớm đi vào hoạt động.
3.2/ Tiến hành phổ biến kiến thức đánh giá và xếp hạng DN. Tạo điều kiện cho các
DN, các nhà đầu tư thấy được sự cần thiết và vai trò của CRA
Cho đến nay, một trong những yếu tố quan trọng nhất cản trở sự phát triển của hoạt
động ĐMTN đso chính là tư tưởng bao cấp. Do thói quen, các DN hầu như đều nghĩ rằng các
CRA chỉ có thể hoạt động tốt và ổn định khi nó được một cơ quan nào đó quản lý. Nhưng trên
thực tế, điều đso sẽ cảm trở tính độc lập, khách quan mà mỗi CRA vốn cần phải có. Vì vậy,
chúng ta cần phải tiến hành việc phổ biến kiến thức đánh giá DN và xếp hạng DN. Đó là một
tổ chức có hoạt động như thế nào? Nó có thể mang đến lợi ích gì cho bản than DN? Ảnh hưởng
của nó như thế nào? Có tác động đến hoạt động sản xuất và kinh doanh hiện tại của DN hay
không?
Cần làm cho các nhà đầu tư hiểu được vai trò và bản chất của một CRA. Giúp họ thấy
được sự cần thiết của hoạt động ĐMTN trong nền kinh tế, những lợi ích mà họ có thể đạt được
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
19

SVTH: Thiều Bích Ngọc
từ laọi hình kinh doanh dịch vụ thông tin tín nhiệm này. Có như vậy mới tạo được sự tin tưởng
cho cộng đồng DN, làm tăng nhu cầu trong mỗi DN, mỗi nhà đầu tư. Khi đó, việc hình thành
và phát triển các CRA ở Việt Nam mới thực sự đạt được kết quả cao nhất.
3.3/ Vận động các nhà đầu tư tham gia thành lập các công ty ĐMTN
Một CRA khi muốn hoạt động tốt và tạo được sự tin tưởng trong cộng đồng DN thì
trước tiên nó phải bắt đầu từ nhu cầu thực tiễn, hoạt động của nó phải sâu sát với thực tế. Đó
phải là một tổ chức hiểu rõ đc điểm và bản chất của nền kinh tế Việt Nam, của các DN Việt
Nam. Vì vậy, để các CRA Việt Nam hoạt đông thực sự đạt hiệu quả, chúng ta cần vận động
chính các nhà đầu tư Việt Nam tham gia thành lập các công ty ĐMTN Việt Nam. Bởi vì chỉ có
họ, những DN đã hoạt đông trong chính môi trường kinh tế Việt Nam, là những người có một
trình độ chuyên môn nhất định mới có thể am hiểu về tình trạng thực tế của nền kinh tế. Hơn
nữa, việc thành lập các CRA sẽ cần một số vốn không nhỏ, pjải tập hợp được những chuyên
gia có trình độ nghiệp vụ cao. Một điều kiện cũng rất qua trọng là công tác quảng bá ra công
chúng. Tổ chức muốn đánh giá DN và muốn khẳng định mình thì trước hết phải tạo dựng được
vị thế và uy tín trong cộng đồng DN . Khi đó, không ai khác hơn, chính các DN Việt Nam sẽ là
người làm tố tất cả những khâu trên, sẽ là một đội ngũ các CRA hoạt động tốt nhất. Sự hợp tác,
đoàn kết của các DN Việt Nam trong môi trường hiện nay sẽ là động lực rất lớn thúc đẩy cho
các CRA được hình thành và phát triển, thúc đẩy sự phát triển chung của cả nền kinh tế Việt
Nam.
3.4/ Xây dựng và đào tạo đội ngũ nhân lực có trình độ, nghiệp vụ chuyên môn về
ĐMTN
Trong mọi DN , mọi tổ chức, con người luôn được xem là vấn đề quan trọng hàng đầu.
Với các CRA cũng vậy. Hơn nữa, nguồn nhân lực có thể hoạt đông được trong lĩnh vực ĐMTN
đòi hỏi phỉa là những người có trình độ chuyên môn cao, có những am hiểu về nền kinh tế của
đất nước, của các DN. Bởi vì kết quả xếp hạng phải được thực hiện bởi một đội ngũ chuyên gia
về các lĩnh vực tài chính và phi tài chính, từ việc thu thập thông tin đầy đủ, chính xác đến việc
kiểm tra, thẩm định và tiến hành đánh giá theo tiêu chuẩn quốc tế. Do đó, để phát triển loại
hình dịch vụ này ở Việt Nam, nhiệm vụ trước mắt là chúng ta cần pahỉ xây dựng và đạo tạo
cho được một đội ngũ nhân lực có trình độ, chuyên môn về ĐMTN. Ngoài ra, cần phải thường

xuyên tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm và phương thức hoạt động của các tập đoan CRA trong
khu vực và quốc tế. Có như vậy mới làm cho hoạt động của các CRA Việt Nam không chỉ
mang tính hình thức mà đó là một tổ chức thực sự hoạt động có hiệu quả, mang đến những lợi
ích thiết thực cho các DN, các nhà đầu tư Việt Nam.
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I/ KẾT LUẬN
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
20
SVTH: Thiều Bích Ngọc
Trong nền kinh tế tri thức mới hôm nay, với xu thế hội nhập và cùng phát triển, Việt
Nam vẫn còn là một nước có thứ hạng quá thấp so với quốc tế. Chúng ta chỉ mới vừa bắt kịp
những tư duy mới trong vài năm gần đay. Từ đó, nền kinh tế Việt Nam cũng đã bắt đầu có
nhiều chuyển đổi. Từ một nền kinh tế bao cấp và lạc hậu chuyển sang nền kinh tế thị trường,
đó là cả một quá trình và sự nổ lực rất nhiều. Tuy nhiên, để xóa bỏ bao cấp, để nền kinh tế thực
sự phát triển thì nhu cầu minh bạch trong nền kinh tế đang trở thành một nhu cầu cấp thiết.
Minh bạch sẽ là cách tốt nhất để không còn nạn tham nhũng, quan liêu, để tránh lãng phí
những luồng vốn trong nền kinh tế. Đó là phương thức hiệu quả nhất để các DNthấy được
những mặt “mạnh” – “yếu” của mình.
Với vai trò là một tổ chức chuyên về cung cấp thôngtin, đánh giá và xếp hạng doanh ngiệp, sự
ra đời của các CRA ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với nhu cầu và xu thế trên. Việc cung
cấp những thông tin và đánh giá tín nhiệm DN có vai trò rất quan trọng trong việc minh bạch
hoá nền kinh tế. Thực tế đã cho thấy, do không kiểm soát tốt quá trình phát triển, nhiều tập
đoàn lớn trên thế giới như Worldcom hay Enron đã phải phá sản sau hàng chục năm tồn tại. Ở
VN, cũng không ít trường hợp các DN được coi là hàng đầu như Dệt Long An, Epco, Minh
Phụng phải phá sản. Sự sụp đổ của các tập đoàn lớn đã để lại hậu quả kinh tế, xã hội rất nặng
nề và phải mất nhiều năm sau mới khắc phục hết. Đó là những lý do để những công ty kinh
doanh thông tin tín nhiệm ra đời.
Có thể nói, sự cần thiết của các CRA trong nền kinh tế Việt Nam là rất lớn. Nhưng
quan trọng nhất vẫn là vai trò của nó đối với hệ thống NHTM Việt Nam. Chúng ta có thể nhận

thấy rõ điều đó qua trường hợp của nền kinh tế Nhật Bản. Vào những năm 90, nhiều NH lớn,
công ty chứng khoán sụp đổ khiến các nhà đầu tư hoang mang không có cơ sở đánh giá khả
năng tài chính xem nên tiếp tục duy trì tài khoản hay không. Trước bối cảnh đó, Chính phủ
Nhật đã cấp phép cho các công ty ĐMTN hoạt động để đánh giá toàn bộ khả năng tài chính của
các DN. Những công ty này có kho dữ liệu khổng lồ, tập hợp toàn bộ lịch sử của các DN mà
nó nghiên cứu, trên cơ sở đó đưa ra các thông tin đáng tin cậy cho nhà đầu tư. Kết qủ là sự
phục hồi và phát triển mạnh mẽ cảu hệ thống NH và TTCK Nhật Bản. Cho đến nay, các NHv à
TTCK của Nhật Bản đang được xem là thị trường hoạt động hiệu quả vào hàng bậc nhất trên
thế giới.
Sự xuất hiện của các CRA một mặt giúp cho các NH thấy rõ thực trạng hoạt động của
các DN, mặt khác vừa giúp cho các NH nhìn nhận lại bản thân mình, thấy rõ thực lực của mình.
Từ đó có thể xây dựng những kế hoạch, những phương thức điều chỉnh hợp lý và an toàn. Cụ
thể qua việc huy động vốn và hoạt động cho vay đạt hiệu quả tốt hơn, góp phần làm giảm tỷ lệ
nợ xấu, nợ quá hạn trong các NH. Đó là đông lực rất quan trọng thúc đẩy hoạt động của các
NH ngày càng được tốt hơn. Vừa giảm được rủi ro cho hệ thống NH, vừa giảm được gánh
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
21
SVTH: Thiều Bích Ngọc
nặng cho cả nền kinh tế. Đó là yếu tố cần thiết giúp cho các NH hoạt động trong một môi
trường lành mạnh với mức đọ an toàn tốt hơn.
Tuy nhiên, ĐMTN không phải là lời khuyến nghị nên mua, bán hay nắm giữ loại chứng
khoán nào. Nó chỉ là một nhận xét hoặc một ý kiến của CRA đến khả năng có thể trả nợ được
của một công ty khi xem xét các công cụ nợ cụ thể dựa trên những yếu tố rủi ro tương ứng mà
thôi. Còn quyết định đầu tư phải dựa trên những nhận xét, đánh giá và yêu cầu của nhà đầu tư,
vì mức độ chấp nhận rủi ro của mỗi nhà đầu tư là khác nhau. Một nhà đầu tư này có thể không
bao giờ đếm xỉa tới những công cụ nợ xếp dưới mức “A”, trong khi nhà đầu tư khác lại có thể
mua công cụ nợ xếp hạng “BB+”, chấp nhận mức rủi ro cao hơn để có cơ hội nhận được lợi
nhuận cao hơn. Việc ĐMTN cũng giống như con dao hai lưỡi. Một mặt nó có thể giúp các
NHnâng cao uy tín, tạo lập thương hiệu trên thương trường. Nhưng nếu thông tin thu thập

không đầy đủ, đánh giá không khách quan thì có thể ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của NHvà
công việc kinh doanh của họ. Vì vậy, trong quá trình xây dựng các CRA tại Việt Nam, chúng
ta phải bảo đảm được những yêu cầu và bản chất vốn có của một CRA. Đó là độc lập, khách
quan, tin cậy và chuyên nghiệp. Ngoài ra, việc hình thành và phát triển các CRA ở Việt Nam
vẫn còn gặp phải rất nhiều khó khăn. Những khó khăn đó xuất phát từ chính tỏng nội lực của
nền kinh tế Việt Nam, từ bản thân các doanh nghiẹp và trong chính tư tưởng của họ. Cần phải
có thời gian và kinh phí thực hiện. Vì thế, trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng và phát triển
các CRA ở Việt Nam cần phải có sự quan tầm rất nhiều từ các cơ quan Nhà nước và các tổ
chức có liên quan, sự ủng hộ từ các DN, các nhà đầu tư Việt Nam. Và nhất là cần phải tạo điều
kiện cũng như cần có sự giúp đỡ tích cực hơn nhằm thúc đẩy cho các tổ chức ĐMTN thực sự
đi vào hoạt động.
Qua hơn 5 năm được đưa vào hoạt động thử nghiệm, ở giai đoạn đầu, các tổ chức
ĐMTN tại Việt Nam vẫn chưa thực sự tạo được sự thu hút lớn cho các nhà đầu tư mặc dù vai
trò của nó trong nền kinh tế là rất lớn. Thời gian gần đay, các DNViệt Nam đã bắt đầu quan
tâm đến loại hình kinh doanh thông tin tín nhiệm, đặc biệt là các ngân hang. Họ rất ủng hộ sự
ra đời của các CRA tại Việt Nam vì đó sẽ là “cú hích” tạo điều kiện cho hệ thống NHTM hoạt
động hiệu quả hơn. Tuy nhiên, để các CRA hình thành và phát triển đòi hỏi phải có một quá
trình lâu dài học hỏi kinh nghiệm, qua nhiều giai đoạn để có thể thích nghi với môi trường và
đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam. Nhiệm vụ trước mắt của chúng ta là cần tạo mọi điều kiện,
môi trường thích hợp nhằm thúc đẩy ĐMTN tham gia vào thị trường một cách thuận lợi nhất.
■ Thứ nhất, để phát triển loại hình dịch vụ này, Nhà nước cần phải là người tiên phong
đi đầu. Cụ thể, Bộ Tài chính và Ủy ban Chứng khoán cần ban hành khuôn khổ pháp lý cho
CRA. Tiêu chuẩn pháp lý gồm: vốn tối thiểu; hạn chế về cổ đông; công bố thông tin; phân bổ
nguồn nhân lực; ban hành các quy định về định mức tín nhiệm bắt buộc, kể cả chào bán ra
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
22
SVTH: Thiều Bích Ngọc
công chúng hoặc chào bán riêng lẻ; sửa đổi quy định đối với công ty bảo hiểm và công ty
chứng khoán. Về phía NHNN, cũng cần sửa đổi các quy định đối với các tổ chức tín dụng,

chẳng hạn như yêu cầu về vốn tối thiểu của các tổ chức tín dụng dựa trên xếp hạng ĐMTN.
Tất nhiên, muốn thiết lập một CRA trong nước thì bước đầu cần thiết phải có sự
khuyến khích nhất định từ phía Nhà nước. Nhưng theo thời gian, vai trò của cơ quan quản lý
Nhà nước nên giảm dần khi các nhà đầu tư tích luỹ được nhiều kiến thức, họ sẽ tự xác định
xem định mức tín nhiệm nào có độ tin cậy cao hơn và CRA có uy tín hơn. Cần phải luôn đảm
bảo tiêu chí của một CRA: Minh bạch, công khai, độc lập, khách quan, tin cậy và chuyên
nghiệp. Hiện có 3 phương án mà Chính phủ VN có thể cân nhắc để tạo lập hành lang pháp lý
cho CRA:
1) Quản lý CRA bằng việc cấp giấy phép hoặc giấy chứng nhận dựa trên các tiêu chuẩn
rõ ràng và khách quan.
2) Quy định đối với đơn vị phát hành: sẽ áp dụng chính sách định mức tín nhiệm bắt
buộc đối với tất cả các trái phiếu phát hành hay định mức tín nhiệm tự nguyện.
3) Thông qua chính sách quy định đối với NH, các Cty chứng khoán và các Cty bảo
hiểm.
■ Thứ hai, bên cạnh việc tạo những điều kiện thuận lợi, Nhà nước cũng cần tạo môi
trường tiếp xúc giữa các CRA và các DN, giúp họ hiểu rõ hoạt động của các CRA. Nên mời
các chuyên gia của các tập đoàn CRA lớn và có uy tín trên thế giới để trao đổi kinh nghiệm
làm việc, phương thức hoạt động cho các CRA Việt Nam tiếp thu và học hỏi.Ngược lại, Nhà
nước cũng cần tạo điều kiện cho nguồn nhân lực Việt Nam có điều kiện tiếp xúc với quốc tế.
Nên cử những cán bộ, chuyên gia đi học tập ở nước ngoài về lĩnh vực ĐMTN, các chuyên gia
này khi về nước có thể truyền đạt lại cho các cán bộ trong nước. Đây là một trong những công
tác rất quan trọng nhằm xây dựng và đào tạo nguồn nhân lực trong nước, góp phần nâng cao
trình độ cho các cán bộ, các chuyên gia của chúng ta. Khi đó, những tiêu chuẩn ĐMTN mà
chúng ta đưa ra sẽ không quá lệch lạc so với những tiêu chuẩn quốc tế mà vẫn phù hợp với đặc
điểm của nền kinh tế.
■ Thứ ba, về phía bản thân các DN cũng cần tạo điều kiện cho các CRA có thể hoạt
động thuận lợi. Trước tiên là sự ủng hộ của các DN Việt Nam. Đây là một động lực rất lớn
giúp cho các CRA Việt Nam hoạt động tốt hơn, bởi vì các DN này chính là những khách hàng
chính của các CRA.
Bên cạnh đó, DN này cũng cần phải thay đổi tư tưởng “chạy theo thành tích”. Từ trước

đến nay, các DN thường khi báo cáo chỉ nêu ra những điểm tốt, những mặt mạnh. Còn những
mặt xấu thường không được nói đến hoặc dù có nói thì cũng rất ít. Điều này là nguyên nhân
dẫn đến hậu quả hoạt động trì trệ và yếu kém của các DN Việt Nam trong thời gian qua. Sự ra
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
23
SVTH: Thiều Bích Ngọc
đời của các CRA sẽ dần tháo bỏ được những tư tưởng trên nhưng nó cần phải có sự hợp tác của
bản thân các DN.
Ngoài ra, khi tham gia ĐMTN DN, các DN phải có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính
xác những tài liệu, thông tin về tình hình tài chính và phi tài chính trong phạm vi của mình theo
yêu cầu của tổ chức đánh giá. Ngoài ra còn phải tạo điều kiện cho cán bộ đánh giá trong quá
trình kiểm tra, thẩm định lại thông tin một cách chính xác.Và khi tất cả các khâu trên được thực
hiện một cách đầy đủ, được phối hợp chặt chẽ, đồng bộ sẽ tạo thành động lực rất lớn nhằm đẩy
nhanh quá trình hình thành chính thức các CRA ở Việt Nam, atọ điều kiện cho ĐMTN có thể
phát triển được ổn định lâu dài, ổn định và bền vững.
5/ Vai trò của ĐMTN trong nền kinh tế
● Đối với thị trường vốn
Ngày nay hầu hết những thị trường chứng khoán của các nước trên thế giới đều tồn tại ít nhất
một tổ chức ĐMTN, một phần là do xu thế của thời đại, nhưng phần lớn là do vai trò quan
trọng của tổ chức ĐMTN trên thị trường tài chính. Các nhà phát hành cũng dùng “xếp hạng tín
nhiệm” như là một chiến lược để huy động vốn. Cho đến thời điểm này, các tổ chức ĐMTN
đóng vai trò như một cầu nối giữa nhà đầu tư và thị trường. Khi thị trường tài chính và việc
toàn cầu hoá ngày càng phát triển, vai trò quan trọng của việc xếp hạng tín nhiệm là được dùng
như một công cụ để giám sát thị trường tài chính, nhằm giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư và
rủi ro hệ thống nói chung.
Hiện nay, Việt Nam đang nổ lực dể xây dựng một nền kinh tế thị trường trong đó sự
minh bạch là điều kiện thiết yếu để chủ động hội nhập và phát triển. Thị trường chứng khoán là
một kênh huy động vốn quan trọng những hiện vẫn phát triển một cách chậm chạp. Một trong
những nguyên nhân của sự trì trệ này là chưa có một tổ chức đánh giá tín nhiệm.

Như vậy, để thị trường trái phiếu và thị trường tiền tệ phát triển, việc thành lập tổ chức
đánh giá tín nhiệm là vấn đề hết sức cần thiết. Việc xúc tiến hình thành CRA tại Việt Nam
cũng đồng nghĩa với việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng của thị trường vốn ở Việt Nam
mà trên thực tế đang đòi hỏi phải có nhiều định chế trung gian có uy tín và hoạt động độc lập.
Tầm quan trọng thứ hai của các CRA chính là sự toàn cầu hoá. Các quỹ đầu tư giờ đây
vươn ra khắp thế giới, các quan hệ tín dụng theo đó cũng bị ảnh hưởng bởi các tổ chức ĐMTN.
Họ không chỉ xếp hạng các tổ chức phát hành mà còn xếp hạng cả các quốc gia. Và bảng xếp
hạng mà các CRA đưa ra cũng chính là một trong những phương tiện báo hiệu sự vận động của
thị trường chứng khoán bên cạnh những chỉ báo khác.
Hệ thống xếp hạng của các CRA không chỉ có lợi về phía các nhà đầu tư, mà còn mang
lại lợi ích to lớn cho các công ty chứng khoán. Chính hệ thống xếp hạng đã làm nền tảng vững
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa Trang
24
SVTH: Thiều Bích Ngọc
chắc cho việc lựa chọn một danh mục đầu tư lý tưởng đối với các công ty quản lý, các công ty
chứng khoán cho nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư và nghiệp vụ tự doanh.
Bản thân nghiệp vụ xếp hạng không hề kìm hãm nghiệp vụ tư vấn đầu tư của các công
ty chứng khoán, trái lại nó chính là nền tảng mà dựa vào đó nhà tư vấn đưa ra được ý kiến
đúng đắn cho khách hàng, và bảng xếp hạng của CRA chính là động lực thúc đẩy cho nghiệp
vụ tư vấn đầu tư của công ty chứng khoán phát triển.
Các CRA còn là nhân tố kích hoạt thị trường chứng khoán thêm sôi động, tạo thêm
công ăn việc làm, nâng cao và chuẩn hoá kiến thức về phân tích kinh tế, tài chính, kế toán
Hệ quả của những nhân tố kể trên sẽ mang lại luồng sinh khí cho sự phát triển mạnh mẽ và
hoàn thiện thị trường chứng khoán. Điều này đặc biệt có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với thị
trường chứng khoán Việt Nam vốn còn rất non trẻ và sơ khai.

×