Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

tư tưởng yêu nước và tinh thần nhân đạo của Nguyễn TRãi qua tác phẩm Bình Ngô Đại cáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.57 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Trang
A. DẪN NHẬP
Người ta chọn Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ và Cáo bình Ngô là ba dấu mốc đánh dấu
những chặng đường phát triển của chủ nghĩa yêu nước trong văn học thượng kỳ trung đại. Ðặc
biệt, phải đến cáo bình Ngô, ý thức độc lập chủ quyền, quan hệ gắn bó giữa nước và dân, vấn đề
nhân nghĩa, mới thực sự phát triển rực rỡ. Tác phẩm có giá trị tư tưởng, văn học thể hiện triết lý
sống của dân tộc trong mọi hoàn cảnh, trong việc đấu tranh cũng như trong hòa bình độc lập.
Đây là tác phẩm được xem là án thiên cổ hùng văn, vô tiền khoán hậu. Về thời gian khoảng đầu
1428, khi kháng chiến chống Minh thắng lợi. Đây là tác phẩm Nguyễn Trãi viết cho Lê Lợi thay
mặt quốc gia để đọc tuyên cáo về cuộc chiến của dân tộc ta trải qua nhiều mất mát nhưng điểm
cuối cùng cũng tạo nên bản thiên hùng ca kết thúc thắng lợi. Tinh thần yêu nước và nhân đạo
của Nguyễn Trãi được thể hiện hết sức sâu sắc xuyên suốt chiều dài của tác phẩm. Chính đặc
điểm này đã khiến cho tác phẩm” Bình Ngô đại cáo” trở thành một án "thiên cổ hùng văn", một
thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc.
B. NỘI DUNG
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ
1. Tình hình đất nước
Lê Thái Tổ , húy Lê Lợi , là người khởi xướng khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân
Minh trở thành vị hoàng đế đầu tiên của nhà Hậu Lê, triều đại lâu dài nhất trong lịch sử Việt
Nam. Sau khi bức vua Trần dời đô từ Thăng Long vào Tây Đô (Thanh Hóa) và giết hàng loạt
quần thần trung thành với nhà Trần, tháng 2 năm Canh Thìn 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi của
Trần Thiếu Đế, tự lên làm vua lấy quốc hiệu là Đại Ngu, lập nên nhà Hồ. Triều đình nhà Minh
(Trung Quốc), vốn rất muốn xâm lăng Đại Ngu, đã nhân cơ hội Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần
để đưa quân tràn vào đất Việt năm 1407. Hồ Quý Ly liên tục thất bại và đến tháng 6 năm 1407,
thì bị bắt cùng các con trai là Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương. Vương triều Hồ và nước
1
Đại Ngu sụp đổ. Nhà Minh thực hiện chính sách xóa bỏ nền Văn minh sông Hồng bằng các cách
như đốt, phá và chở về Yên Kinh tất cả các loại sách, văn bia có nói về dân Việt, của dân Việt tạo
lập, thiến hoạn đàn ông người Việt, khiến cư dân Việt rất uất ức và căm giận. Hơn 1.000 năm,
các triều đình Trung Quốc không đồng hóa được văn hóa Việt, nên việc làm của nhà Minh đã


đem lại một kết cục xấu cho sự đô hộ của họ. Mùa xuân năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi đã cùng
những hào kiệt đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Sát, Lưu
Nhân Chú,… tất cả 50 tướng văn và tướng võ (trong đó có 19 người đã từng kết nghĩa anh em
nguyện cùng chí hướng với nhau ở hội thề Lũng Nhai, năm 1416), chính thức phất cờ khởi nghĩa
(khởi nghĩa Lam Sơn). Đồng thời ông tự xưng là Bình Định Vương và kêu gọi dân Việt đồng
lòng đứng lên đánh đuổi quân xâm lược Minh cứu nước.
2. Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa
Khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) là cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược về
nước do Lê Lợi lãnh đạo và kết thúc bằng việc giành lại độc lập cho nước Đại Việt và sự thành
lập nhà Hậu Lê. Khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra trong bối cảnh rất khó khăn. Nhiều cuộc nổi dậy
chống Minh, điển hình là nhà Hậu Trần, đã bị dẹp một cách tàn khốc. Liên tiếp 2 vua nhà Hồ,
một vua nhà Hậu Trần bị bắt về bắc, vua Trùng Quang và các tướng đều tử tiết. Trương Phụ tàn
sát những người lính theo quân khởi nghĩa và cả dân thường rất tàn bạo (chặt đầu, đốt xác, cuốn
ruột vào cây ) để khủng bố tinh thần người Việt. Mặt khác, các tướng nhà Minh như Hoàng
Phúc, Trương Phụ đã thiết lập bộ máy cai trị và huy động được một lực lượng người Việt giúp
việc khá đắc lực như Mạc Thúy, Lương Nhữ Hốt, Trần Phong Tinh thần chống đối của người
Việt lúc đó đã lắng xuống khá nhiều so với thời nhà Hồ mới mất. Một lớp nhân tài nổi lên chống
đối trước đây đã bị tiêu diệt hoặc vô hiệu hoá. Một số cuộc khởi nghĩa chống Minh vẫn hoạt
động nhưng lẻ tẻ và không có khả năng mở rộng.Trong bối cảnh đó, Lê Lợi đã đứng lên khởi
nghĩa ở Lam Sơn, đúng như Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô đại cáo:
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên
Chính lúc quân thù đang mạnh
Tuấn kiệt như sao buổi sớm
Nhân tài như lá mùa thu
2
3. Khởi nghĩa Lam Sơn
Khởi nghĩa Lam Sơn gồm ba giai đoạn lớn: hoạt động ở vùng núi Thanh Hoá
(1418-1423), tiến vào phía nam (1424-1425) và giải phóng Đông Quan (1426-1427). Trong thời
gian đầu, lực lượng của quân Lam Sơn chỉ có vài ngàn người, lương thực thiếu thốn, thường chỉ
thắng được vài trận nhỏ và hay bị quân Minh đánh bại. Hoạt động trong thời này chủ yếu ở vùng

núi Thanh Hóa. Có những lúc Lê Lợi chỉ còn một mình trốn chạy. Trước tình thế hiểm nghèo, Lê
Lợi phải xin giảng hòa với quân Minh năm 1422. Đến năm 1423, khi thực lực được củng cố, lại
thấy quân Minh bắt giữ sứ giả, Lê Lợi liền tuyệt giao cắt đứt giảng hoà. Theo kế của Nguyễn
Chích, năm 1424 Lê Lợi quyết định đưa quân vào đồng bằng Nghệ An. Đến cuối năm 1425, Lê
Lợi làm chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào, các thành của đối phương đều bị bao vây.
Tháng 8 năm 1426, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí,
Trịnh Khả, Lê Triện ra phía Tây bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông bắc; Đinh Lễ, Nguyễn
Xí ra đánh Đông Quan, và đầu năm 1927 giành thắng lợi. Cuối năm 1927, chiến thắng trận Chi
Lăng-Xương Giang. Đến đây, cuộc khởi Lam Sơn đã dành thắng lợi hoàn toàn, Nguyễn Trãi thay
mặt Lê Lợi viết Bình ngô đại cáo để thông báo trước toàn dân sự ngiệp bình Ngô phục quốc đã
thành công.
II. TÁC GIẢ - TÁC PHẨM
1. Tác giả :
Nguyễn Trãi (1380–1442), hiệu là Ức Trai, là đại thần nhà Hậu Lê, một nhà văn chữ Nôm.
Ông được xem là một anh hùng dân tộc, một ngôi sao Khuê của văn hóa Việt Nam, đồng thời
cũng là một danh nhân văn hóa của thế giới. Nguyễn Trãi, sinh ở Thăng Long trong gia đình ông
ngoại là quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Cha ông là Nguyễn ứng Long, hiệu ức Trai (tức là
Nguyễn Phi Khanh). Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán. Quê gốc Nguyễn Trãi
là làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, về sau dời về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị
Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Năm Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ ông mất. Ông về ở với
cha tại quê nội ở làng Nhị Khê. Năm 1400, Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) ,
lúc này ông chỉ mới 20 tuổi. Vua Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Năm
1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ mang quân sang xâm lược Việt Nam. Nhà Hồ đem quân ra
chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi
Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc. Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi
3
Hùng khóc theo lên tận cửa Nam Quan với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha già trong
lúc bị cầm tù. Nhưng Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi:
“ Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là
đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao?”

Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu nước. Về đến Thăng
Long, ông bị quân Minh bắt. Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc biết Nguyễn Trãi là một
nhân vật có tài, tìm cách dụ dỗ, nhưng ông kiên quyết không theo giặc. Sau một thời gian bị
giam lỏng ở Đông Quan (tức Thăng Long), Nguyễn Trãi vượt được vòng vây của giặc vào
Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông gặp vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn ở Lỗi Giang. Ông trao cho Lê
Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình Ngô sách. Lê Lợi
khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến lược này để đánh quân
Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân
Minh. Trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc,
cứu được nước. Khi kháng chiến đã thắng lợi, ông cũng thấy rằng phải lo đến dân, thì mới xây
dựng được đất nước. Trong tờ biểu tạ ơn được cử giữ chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư,
ông đã viết: "Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn: để tâm dân chúng, mình lo trước điều
thiên hạ phải lo". Do luôn luôn "lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ",
Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nhà của ông ở Đông
Kinh (Thăng Long) chỉ là một túp nhà tranh (góc thành Nam lều một gian). Năm 1442, cả gia
đình ông bị hãm hại (tru di tam tộc) khiến cho người đương thời vô cùng thương tiếc. Nguyễn
Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà
thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê
Thánh Tông truy tặng là: “ Ức trai thượng quan khuê tảo”. Nguyễn Trãi - khai quốc công thần
của nhà Hậu Lê, ông tuy không tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu, nhưng cũng
theo phò Bình định Vương Lê Lợi từ khi nghĩa quân Lam Sơn còn ở thế yếu trước sự đàn áp của
quân Minh, đã vạch ra nhiều kế sách giúp cho nghĩa quân Lam Sơn thu phục nhân tâm và giành
được ưu thế trên chiến trường. Tương truyền, ông là người nghĩ ra kế sách viết dòng chữ “Lê
Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” (Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi thần) trên lá cây, tạo ra
như một điềm trời, khẳng định về yếu tố "thiên mệnh" cho Lê Lợi, làm lòng người nhanh chóng
hướng về nghĩa quân Lam Sơn. Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ đã phong thưởng cho Nguyễn Trãi
là bậc cao trọng nhất bên văn quan, ông được ban quốc tính (tức được mang họ vua, họ Lê),
4
tước Hầu (Quan Phục Hầu) chỉ kém tước Công một bậc. Trên thực tế ông vừa là cố vấn, vừa là
quân sư, nhà chính trị, tài kiêm văn võ rất thân với vua.

2. Tác phẩm “ Bình Ngô Đại Cáo “
2.1 Hoàn cảnh ra đời:
Cuối năm 1427, Vương Thông, tên tổng chỉ huy quân đội nhà Minh ở Việt Nam, đã phải mở
cửa thành Ðông Quan đầu hàng. Cuộc kháng chiến 10 năm đã kết thúc vẻ vang. Thay mặt vua
Lê, Nguyễn Trãi viết bài cáo nhằm tổng kết quá trình kháng chiến và tuyên cáo thành lập triều
đại mới.
2.2 Về thể loại Cáo:
Nếu văn học động viên mọi người chiến đấu thì văn Cáo lại có ý nghĩa tuyên ngôn nhằm
công bố cho mọi người biết những chủ trương chính trị trọng đại của toàn dân tộc như việc xác
lập hòa bình, đánh đuổi giặc ngoại xâm và xây dựng vương triều mới. Cáo viết bằng thể văn
biền ngẫu, số câu chữ không hạn chế, văn phong mang tính chính luận nên trang trọng, sắc bén,
lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục. Kết cấu của bài đại cáo bình Ngô tuân thủ đúng kết cấu
của các tác phẩm Thang cáo (được chép trong chương Thương Thư của sách Kinh Thư) và Vũ
cáo hay đại cáo Vũ Thành (được chép trong chương Chu thư của sách Kinh Thư).

2.3 Về tựa đề bài Cáo:
Những quan niệm khác nhau về ý nghĩa của chữ Ngô trong Bình Ngô đại cáo
- Ngô: Một cách gọi theo thói quen của người Việt Nam thời đó để chỉ chung người trung
Quốc.
- Ngô: tên vùng đất xuất thân của Chu Nguyên Chương (tức Minh Thành tổ).
- Ngô: Một cách gọi của nhân dân để chỉ những tên giặc gian ác, tàn bạo.
Ý nghĩa nhan đề : Bình Ngô đại cáo được viết để bố cáo việc hoàn tất một chiến công vệ
quốc vĩ đại.
2.4 Khái quát tác phẩm :
Bình ngô đại cáo, văn kiện lịch sử đồng thời là tác phẩm văn học theo thể văn biền ngẫu,
do Nguyễn Trãi viết năm 1428, sau đại thắng quân Minh ,được các thế hệ sĩ phu đánh giá là một
áng "thiên cổ hùng văn" có một không hai trong lịch sử dân tộc. "BNĐC" trình bày tóm tắt lịch
sử mười năm kháng chiến gian khổ, những thành tích của cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn, tổng kết
5
kinh nghiệm cuộc chiến tranh chống Minh, rút ra những bài học về đường lối đánh giặc cứu

nước, có giá trị lâu dài cho sự nghiệp bảo vệ nền độc lập tự chủ. Đặc điểm lớn nhất của
"BNĐC" là hơn bao giờ hết, ý thức quốc gia độc lập và lòng tự hào dân tộc được đề cao. Ngọn
cờ "nhân nghĩa" cứu nước cứu dân, dựa vào dân mà cứu nước là nguồn gốc sâu xa của chiến
thắng vĩ đại. "BNĐC" đã nêu bật sách lược kiên trì chiến đấu, lấy ít thắng nhiều, đánh vào quân
địch đồng thời đánh vào lòng người, làm tan rã ý chí bán nước, cầu vinh của nguỵ quân, giải
thích cho quan quân giặc nhận thấy tính chất phi nghĩa và sự thất bại tất yếu của cuộc xâm lược.
"BNĐC" truyền đạt những tư tưởng quân sự, chính trị và triết lí của dân tộc Việt nam. Lời lẽ
chính xác, cô đúc, chứa đựng nhiều hình tượng gợi cảm, vừa là văn chương chính luận, vừa là
văn chương trữ tình. “Bình Ngô đại cáo” thắm đậm tư tưởng nhân nghĩa, là cội nguồn sức mạnh
của cuộc kháng chiến. Được xem là tuyên ngôn độc lập lần thứ hai trong lịch sử dân tộc Việt
Nam.
2.5 Bố cục : gồm 4 đoạn.
• Đoạn đầu ( 10 câu đầu) : nêu cao luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đó là tư
tưởng nhân nghĩa kết hợp với độc lập dân tộc: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân-Quân
điếu phạt trước lo trừ bạo” và “Như nước Đại Việt ta từ trước-Vốn xưng nền văn hiến
đã lâu”.
• Đoạn thứ hai (từ câu 11 đến câu 44): Vạch trần, tố cáo tội ác dã man của giặc Minh
xâm lược. Đoạn văn là bản cáo trạng đanh thép, tố cáo giặc Minh ở các điểm: âm mưu
cướp nước, chủ trương cai trị phản nhân đạo, hành động tàn sát tàn bạo. Đồng thời,
đoạn văn cũng nêu bật nỗi thống khổ, khốn cùng của nhân dân, dân tộc ta dưới ách
thống trị của kẻ thù: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn-Vùi con đỏ xuống dưới
hầm tai vạ”; “Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế-Gây binh kết oán, trải hai mươi
năm”. Đoạn văn ngùn ngụt Ý chí căm thù giặc và thống thiết nỗi thương dân lầm than.

• Đoạn văn thứ ban (từ câu 45 đến câu 351) là đoạn dài nhất của bài cáo, có Ý nghĩa
như bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn văn đã tổng kết lại quá trình
khởi nghĩa. Ban đầu cuộc khởi nghĩa gặp nhiều khó khăn, lương thảo, quân sĩ, người tài
đều thiếu, nghĩa quân ở vào thế yếu “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần-Khi Khôi
Huyện quân không một đội”, “Tuấn kiệt như sao buổi sớm-Nhân tài như lá mùa thu”,
“lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều”…Nhưng nghĩa quân có người lãnh tụ Lê Lợi

6
sáng suốt, bền chí, yêu nước “Ngẫm thù lớn há đội trời chung-Căm giặc nước thề
không cùng sống”, biết đoàn kết lòng dân “Sĩ tốt một lòng phụ tử-Hòa nước sông chén
rượu ngọt ngào”, dùng chiến thuật phù hợp nên nghĩa quân Lam Sơn ngày một trưởng
thành “Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh”và ngày càng chiến thắng giòn giã, vang
dội “Đánh một trận sạch không kình ngạc-Đánh hai trận tan tác chim muông”, giặc
Minh thì liên tiếp thất bại, thất bại sau lại càng thảm hại hơn thất bại trước, mỗi tên
tướng giặc bại trận lại có vết nhục nhã riêng: kẻ treo cổ tự vẫn, kẻ quỳ gối dâng tờ tạ
tội, kẻ bị bêu đầu…Đoạn văn thứ ba của bài cáo cũng ca ngợi lòng nhân đạo, chuộng
hòa bình của nhân dân, dân tộc ta, tha sống cho quân giặc đã đầu hàng, lại cấp cho
chúng phương tiện, lương thảo về nước.
• Đoạn cuối của bài cáo đã tuyên bố trịnh trọng về việc kết thúc chiến tranh, khẳng định
nền độc lập, hòa bình vững bền của đất nước, thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng
của dân
III. PHÂN TÍCH GIÁ TRỊ NỘI DUNG – TƯ TƯỞNG
1. Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi
Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là yêu nước, thương dân, phải đánh giặc để cứu
nước, cứu dân; "triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chẳng qua là lòng yêu nước thương
dân: Cái nhân nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng, chống ngoại xâm, diệt tàn bạo, vì độc
lập của đất nước, hạnh phúc của nhân dân" (Phạm Văn Đồng ).Nhân nghĩa vốn là học
thuyết của Nho giáo đề cao đạo đức, tình nhân ái giữa con người với nhau. Nguyễn Trãi
đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo theo hướng lấy lợi ích của nhân dân và của
dân tộc làm gốc. Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của "Bình Ngô đại cáo", là mục tiêu
chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đồng thời là tư
tưởng của dân tộc được hình thành và phát triển xuyên suốt chiều dài lịch sử. Mục đích
của nhân nghĩa đã được khẳng định là “cốt để yên dân”, là bảo vệ hạnh phúc của nhân
dân. Hạnh phúc lớn nhất của dân là được sống trong môi trường hoà bình, yên ổn làm ăn,
không lâm vào chết chóc ,đau thương.
“Từng nghe:Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

7
Dấy quân khởi nghĩa vì thương dân, trừng phạt kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt bọn
giặc tàn bạo, đem lại cuộc sống yên vui cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa.
Tư tưởng yêu nước là tinh thần vì dân, là chính nghĩa của nhân dân, mang bản sắc dân
tộc. Thương dân ở đây không phải là lòng thương người một cách chung chung, mà nhân
nghĩa là để an dân, trừ bạo ngược để cứu nước,cứu dân. Muốn yên dân thì khi có giặc
ngoại xâm trước tiên phải đứng lên chống giặc “trước lo trừ bạo”.Tư tưởng yêu nước gắn
liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc
lập dân tộc. Trên lập trường nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định nền văn hoá Việt Nam,
nền văn hiến Đại Việt và con người Việt Nam, một dân tộc văn minh,anh hùng. Lần đầu tiên
trong lịch sử tư tưởng, Nguyễn Trãi đại diện cho đất nước chiến thắng đã nêu cao giá trị lớn
lao của truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta:
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần, bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên,
mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có".
Nền văn hiến Đại Việt, nền "văn hoá Thăng Long" được hình thành, xây dựng và phát
triển qua một quá trình lịch sử "đã lâu", đã có "từ trước" đằng đẵng mây nghìn năm. Đại Việt
không chỉ có lãnh thổ chủ quyền "núi sông bờ cõi", mà còn thuần phong mĩ tục mang bản sắc
riêng, có lịch sử riêng, chế độ riêng "bao đời gây nền độc lập", đã từng "xưng đế một
phương", có nhiều nhân tài, hào kiệt. Phải có mấy trăm năm độc lập dưới các triều đại Đinh,
Lê, Lý, Trần , phải có những trang sử vàng chói lọi (Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong,
8
Toa Đô, Ô Mã Nhi bị giết tươi, bị bắt sống ) phải có những con người "trí mưu tài thức" đã
làm nên "thi thư" của Đại Việt, của nền văn minh sông Hồng, thì Nguyễn Trãi mới có thể viết

nên những lời tuyên ngôn đĩnh đạc hào hùng như vậy. Nếu như bốn trăm năm về trước, trong
"Nam Quốc sơn hà", Lý Thường Kiệt chỉ mới xác định được hai nhân tố về lãnh thổ và chủ
quyền trên ý thức quốc gia và lập trường dân tộc, thì trong “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi
đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, đó là: văn hiến, phong tục, lịch sử và nhân tài. Điều đó cho
thấy ý thức dân tộc của nhân dân ta đã phát triển trên một tầm cao mới trong thế kỉ 15, đó
cũng là tinh anh, tinh hoa của tư tưởng Nguyễn Trãi, phải thật sự là một con người có tâm với
nước với dân thì mới có thể viết nên những trang sử hào hung như vậy. Nguyễn Trãi đã căm
giận lên án tội ác vô cùng dã man của quân "cuồng Minh” trước cảnh đất nước bị đô hộ, chia
cắt thành quận huyện, và bị thi hành một chính sách cai trị vô cùng độc ác :
"Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh".
Yêu nước thương dân, Nguyễn Trãi thông cảm và chia sẻ những nỗi khổ đau của nhân dân
ta gánh chịu trong chiến tranh. Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” ông đã tố cáo bao tội ác chồng
chất của giặc Minh trong suốt một thời gian dài hơn hai mươi năm "dối trời lừa dân, đủ muôn
nghìn kế": rán mỡ người lấy dầu, rút ruột người treo lên cây, thui người trên giàn lửa, phanh thây
đàn bà có thai… Chúng bắt nhân dân ta phải xuống biển mò ngọc trai, lên rừng sâu đãi cát, tìm
vàng, cống nạp ngà voi, hươu đen, trả biếc, Sưu thuế chồng chất, phu phen lao dịch nặng nề.
Chúng đã tàn phá môi sinh, môi trường, dồn nhân dân ta vào bước đường cùng, vào hố diệt
vong:
"Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi
( ) Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng "
9
Đằng sau những hành động dã man, mưu mô xảo quyệt, là bộ mặt ghê tởm lũ ác ôn, bầy
quỷ sứ phương Bắc đang hoành hành trên xương máu, nước mắt, trên tính mạng và tài sản nhân
dân ta: "Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán". Tội ác của giặc Minh đối
với nhân dân ta, không thể ghi hết tội, không thể rửa hết mùi dơ bẩn, trời đất không thể dung tha,

người người đều căm giận. Câu văn cảm thán của Nguyễn Trãi cất lên như một lời nguyền, chất
chứa căm hờn, oán giận, xúc động lay tỉnh hồn người:
"Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi!".
Lấy trúc Nam Sơn, nước Đông Hải, cái vô hạn để nói về tội ác và sự nhơ bẩn của quân
"cuồng Minh", cái cùng cực, cái vô cùng, Nguyễn Trãi đã ghi sâu vào lòng người, vào bia miệng
đến nghìn năm vẫn chưa phai. Nguyễn Trãi đã từng "tiễn cha lên ải Bắc…", từng nếm mật nằm
gai, là chứng nhân của lịch sử gọi vua nhà Minh hiếu chiến là "giảo đồng" (trẻ ranh, nhãi ranh),
lũ tướng tá giặc Minh là đồ "nhút nhát". Đó cũng là tiếng nói căm thù, khinh bỉ, là ý chí sắt đá
chống quân xâm lược, chống lũ bành trướng phương Bắc tham tàn, hiếu chiến:
"Thằng nhãi ranh Tuyên Đức động binh không ngừng,
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy!".
Nguyễn Trãi đã dành phần lớn bài đại cáo miêu tả chi tiết về diễn biến cuộc đấu tranh vũ
trang và quá trình phản công của nghĩa quân Lam Sơn, và nhửng tội ác vô cùng dã man của bọn
giặc Minh cướp nước, hiếu chiến, man rợ và hung tàn. Ông luôn dõi mắt theo từng bước chân
của cuộc kháng chiến, luôn trằn trọc suy nghĩ đắn đo cho vận mệnh của đất nước
2. Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Trãi
Nguồn gốc của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại bắt nguồn từ truyền thống
nhân đạo của người Việt Nam, từ cội nguồn văn học dân gian, chịu ảnh hưởng của tư tưởng
nhân văn tích cực vốn có của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Chủ nghĩa nhân đạo trong văn
học trung đại được thể hiện phong phú, đa dạng ở lòng thương người, lên án, tố cáo các thế
lực tàn bạo chà đạp lên con người, đồng thời khẳng định, đề cao con người về mối quan hệ
đạo đức, lối sống tốt đẹp giữa người với người. Trong tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” , những
10
đặc điểm trên đã được Nguyễn Trãi thể hiện hết sức điêu luyện, và phải là một người thực sự
có tâm với nước với dân thì mới có thể viết được như vậy.
Tội ác của giặc Minh nhiều không kể xiết, chúng không từ bất kì một thủ đoạn nào để
cướp nước ta. Trong “Bình Ngô đại cáo” tội ác bất dung của chúng đã được Nguyễn Trãi tái
hiện lại hết sức chi tiết khiến cho người đọc cũng cảm thấy rùng mình và khiếp sợ.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
không dừng ở đó chúng còn đặt ra hàng trăm nghìn thứ thuế để bóp cổ dân ta, bắt dân ta kẻ bị
vào chốn “Rừng sâu nước độc” để “Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng”, “Kẻ
bị đem vào núi đãi cát tìm vàng”, “Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, ngán thay cá mập
thuồng luồng”. Vô cùng căm phẫn trước tình cảnh đất nước lầm than, Nguyễn Trãi không thể
nào ăn ngon ngủ yên, ông luôn trằn trọc nghĩ suy cho vận mệnh đất nước, cho nỗi cơ cực
kinh hoàng của nhân dân:
“Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”
Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Trãi không chỉ bó hẹp ở chỗ thương dân, mà nó còn lang
rộng ra thành long độ lượng từ bi, sẵn sàng mở lượng khoan hồng, cùng với Lê Lợi cung cấp
lương thực, thuyền bè và những phương tiện cần thiết khác hỗ trợ cho giặc Minh bị thất trận,
đầu hàng về nước. Không những không đuổi cùng giết tận bọn giặc hung tàn, nghĩa quân
Lam Sơn còn ban cho họ một cơ hội sống thứ hai vì họ đã xin đầu hàng. Lê Lợi đã kết thúc
chiến tranh,"mở đường hiếu sinh" trao trả cho nhà Minh hàng chục vạn tù binh.
"Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức".
Khởi nghĩa để "trừ bạo" và "yên dân", kết thúc chiến tranh để chấm dứt đổ máu, để bảo vệ
"toàn quân", "để nhân dân nghỉ sức".
11
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Vô vàng những tội ác dã man, khốc liệt mà giặc Minh đã nhẫn tâm đè nặng lên dân ta, khiến
dân ta phải sống trong cảnh địa ngục trần gian, đất nước ta bị chia cắt, đau khổ, uất hận
không sao kể hết. Nhưng khi cuộc chiến tranh cứu nước giành thắng lợi, giặc Minh tháo
chạy, đầu hàng, ta không tín toán món nợ oán thù mà còn đưa tay cứu vớt, cho họ một con

đường quay đầu là bờ, đối đãi với họ bằng nhân nghĩa, “ lấy chí nhân để thay cường đạo”.
Dân ta chỉ mong muốn tạo dựng một cuộc sống ấm no, đất nước yên ổn, hòa bình, an cư lạc
nghiệp chứ không muốn tạo thêm oán thù biết trả đến đời nào xong.
3. Nghệ thuật của Bình Ngô đại cáo
Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo, một thể văn có nguồn
gốc từ Trung Hoa, viết bằng chữ Hán, thuộc thể văn hùng biện chính luận, có nội dung thông
báo một chính sách, một sự kiện trọng đại liên quan đến quốc gia dân tộc, công báo trước
toàn dân. Bài cáo có bố cục chặt chẽ mạch lạc, viết theo lối biền ngẫu, vận dụng thể tứ lục, sử
dụng hệ thống hình tượng sinh động, gợi cảm.
Bình ngô đại cáo được viết theo thể loại cáo cho nên phần lớn ngôn từ chỉ dành cho việc
ghi chép lại quá trình chiến đấu gian khổ và chiến thắng của quân dân ta và quá trình thất bại
dẫn đến thảm bại hoàn toàn của quân Minh. Giá trị sử học của đoạn văn này rất nổi bật thể
hiện ở sự ghi chép trung thực nhiều sự kiện lịch sử và khái quát sâu sắc nhiều chân lý lớn của
thời đại. Bên cạnh đó nghệ thuật sáng tạo văn chương của tác giả cũng hết sức xuất sắc.
Những chặng đường chính của quá trình chinh chiến hàng chục năm được kể lại tường tận
mà không bề bộn vì bút pháp của tác giả rất linh hoạt: vừa kể lại những chiến thắng của quân
ta, vừa đúc kết những nguyên lý quân sự và những chân lý nhân sinh; vừa tự sự về những
thất bại liên tiếp của quân giặc vừa kết hợp luận tội chúng, đặt chúng trong sự tương phản với
quân ta. Sự lúng túng, thất bại của quân xâm lược không chỉ thấy qua những sự kiện mà còn
thể hiện bằng những bức biếm họa từ vua quan đến tướng sĩ phương Bắc.
Văn biền ngẫu chỉ yêu cầu cơ bản là mỗi câu gồm hai vế cân xứng còn độ dài câu văn, sự
ngắt nhịp là do cảm quan của từng người viết. Nguyễn Trãi rất linh hoạt chính ở chỗ đầy bó
buộc này. Nhạc tính của câu văn Bình Ngô đại cáo đa dạng, phù hợp với nội dung câu văn tự
12
sự, trữ tình hay nghị luận. Ông tuyên ngôn bằng câu súc tích, chắc nịch Ngã Đại Việt chi
quốc, thực vi văn hiến chi bang. Miêu tả tội ác quân thù, ông lại sử dụng thủ pháp trùng điệp,
như cố ghi hết tội ác to lớn, trời không dung, đất không tha của chúng.
Nghệ thuật miêu tả các trận đánh dùng lối đặc tả, rất biến hóa, lúc ghi lại hình ảnh thảm
bại, thảm họa của lũ tướng tá Thiên triều, lúc thì miêu tả cảnh chiến trường rùng rợn. Kết cấu
tương phản đối lập được tác giả vận dụng sáng tạo để làm nổi bật giữa ta và địch, chính nghĩa

và phi nghĩa, đại thắng và đại bại Cách dùng từ, sáng tạo hình ảnh, các biện pháp đối xứng
và thậm xưng cho thấy một bút pháp nghệ thuật kỳ tài, tạo nên âm điệu anh hùng ca. "Bình
Ngô đại cáo" là khúc ca thắng trận vô cùng oanh liệt, cho ta bao xúc động tự hào:
"Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kinh ngạc,
Đánh hai trận, tan tác chim muông "
Bài cáo có sự kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa yếu tố chính luận sắc bén với yếu tố văn
chương truyền cảm, kết hợp giữa lí luận chặt chẽ và hình tượng nghệ thuật sinh động. Cảm
hứng nổi bật xuyên suốt tác phẩm là cảm hứng anh hùng ca hào hùng sôi nổi, mãnh liệt.
Giọng điệu của bài cáo rất đa dạng, khi tự hào về truyền thống văn hóa, anh hùng lâu đời của
dân tộc, khi thì căm phẫn sục sôi trước tội ác của kẻ thù, khi thống thiết xót thương trước nỗi
đau lầm than của nhân dân, khi lo lắng trước những khó khăn của cuộc kháng chiến, khi hào
hùng ngợi ca chiến thắng, khi trịnh trọng tuyên bố độc lập của dân tộc, đất nước.
"Bình Ngô đại cáo" cho ta thấy một bút lực và tài học vô song của ức Trai. Cáo là một
thể văn cổ điển rất trang nghiêm, để thông báo cho toàn dân một sự kiện quan trọng. Sự
nghiệp "bình Ngô" kéo dài trong 10 năm trời. Quân và dân ta trải qua muôn vàn gian lao thử
thách, lập bao chiến công lẫy lừng , từ những tháng năm lầm than đến ngày toàn thắng "bốn
phương biển cả thanh bình", thế mà Nguyễn Trãi đã viết một cách hàm súc: bài đại cáo chỉ
dài 1343 chữ. Cảm hứng nhân nghĩa, cảm hứng anh hùng và khát vọng độc lập, hoà bình đã
tạo nên tầm vóc văn chương, màu sắc sử thi của bài đại cáo bình Ngô, bản anh hùng ca Đại
Việt. Ngòi bút nghệ thuật của Nguyễn Trãi rất biến hóa trong miêu tả và tự sự, trong trữ tình
13
và bình luận, vừa sắc sảo và thấm thía, vừa đa thanh; lúc thì đĩnh đạc, hào hùng, trang
nghiêm, lúc thì thắm thiết căm giận, lúc thì mạnh mẽ, hùng tráng Đất nước và con người
Đại Việt được nói đến trong bài đại cáo là một đất nước, một nhân dân văn hiến, anh hùng.
C. PHẦN KẾT LUẬN
Bình Ngô đại cáo được viết để bố cáo việc hoàn tất một chiến công vệ quốc vĩ đại, bởi vậy
đương nhiên phần lớn ngôn từ sẽ dành cho việc ghi chép lại quá trình chiến đấu gian khổ và
chiến thắng của quân dân ta và quá trình thất bại dẫn đến thảm bại hoàn toàn của quân Minh.

Giá trị sử học của đoạn văn này rất nổi bật thể hiện ở sự ghi chép trung thực nhiều sự kiện lịch sử
và khái quát sâu sắc nhiều chân lý lớn của thời đại.
Bên cạnh đó nghệ thuật sáng tạo văn chương của tác giả cũng hết sức xuất sắc. Những
chặng đường chính của quá trình chinh chiến hàng chục năm được kể lại tường tận mà không bề
bộn vì bút pháp của tác giả rất linh hoạt: vừa kể lại những chiến thắng của quân ta, vừa đúc kết
những nguyên lý quân sự và những chân lý nhân sinh; vừa tự sự về những thất bại liên tiếp của
quân giặc vừa kết hợp luận tội chúng, đặt chúng trong sự tương phản với quân ta. Sự lúng túng,
thất bại của quân xâm lược không chỉ thấy qua những sự kiện mà còn thể hiện bằng những bức
biếm họa từ vua quan đến tướng sĩ phương bắc.
"Bình ngô đại cáo" còn là một bản tổng kết chiến tranh 10 năm. Tác giả đã tái hiện lại toàn
bộ diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu cờ nghĩa mới phất lên, trải qua những
chặng đường máu lửa, trưởng thành trong thử thách hy sinh, giành thế chủ động chiến lược , tiến
lên đánh bại hoàn toàn quân xâm lược. Xuyên suốt chiều dài tác phẩm ta có thể thấy được rằng,
bên cạnh những câu văn đanh thép tố cáo tội ác của giặc ấy là sẩn chứa một tấm lòng trung với
nước, hiếu với dân hết sức lớn lao, của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Ông luôn coi nhân
nghĩa là lẽ sống ở đời, phẫn nộ trước cảnh nước nhà ly tan , nhân dân lầm than đau đớn, nhưng
cũng thương xót mở lòng từ bi đối với bọn giạc thất bại quy hàng chứ không báo ân báo oán, tính
toán tội lỗi xưa. Nguyễn Trãi thật sự là một tấm gương lớn về tình yêu nước thương dân để con
cháu Đại Việt ngàn đời sau noi theo và học tập.
14
Tài Liệu Tham Khảo
1. Nguyễn Lương Bích, Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, NXB Quân đội nhân dân, Hà
Nội 1973.
2. Đinh Gia Khánh-Bùi Duy Tân-Mai Cao Chương, Văn học Việt Nam Thế kỉ 10 đến thế
kỉ 18, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1978.
3. Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, NXB Văn hóa thông tin, 2007.
4.Viện Sử học, Lịch sử Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, 2007.
5. Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, NXB Văn hóa Thông
tin, 2002.
6. Viện văn học, Nguyễn Trãi khí phách và tinh hoa của dân tộc, nxb khoa học xã hội hà

nội, 1980.
7. Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, Lịch sử Việt Nam, NXB
Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, 1991.
15
16

×