Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Lý luận và thực tiễn về lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.97 KB, 35 trang )

Lý lụân chung về lạm phát
1. Khái niệm và các loại lạm phát
Khái niệm lạm phát
Có 2 cách tiếp cận
- Thứ nhất: xuất phát từ việc xem xét các nguyên nhân của lạm phát.
Lạm phát là quá nhiều tiền đi săn quá ít hàng.
Hoặc Lạm phát là khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn năng suất lao
động.
 chỉ đưa ra các cách giải thích khác nhau về nguyên nhân lạm phát, chưa
phải là một định nghĩa lạm phát theo đúng nghĩa.
- Thứ hai: tập trung vào những ảnh hưởng của lạm phát.
Lạm phát là mức giá cả chung (mức giá bình quân ) tăng lên.
 Đây là hiện tượng phổ biến hiện nay và xảy ra ở tất cả các nước với mức
biến động giá khác nhau.
Các loại lạm phát
Căn cứ vào tốc độ lạm phát, chia ra làm 3 loại khác nhau:
1.2.1. Lạm phát vừa phải:
Lạm phát vừa xảy ra khi tốc độ tăng giá chậm, ở mức 1 con số.
1.2.2. Lạm phát phi mã:
Là loại lạm phát xảy ra khi giá cả bắt đầu tăng ở mức hai, ba con số như 20%,
100% hoặc 200%/ năm.
1.2.3. Siêu lạm phát:
Xảy ra khi tốc độ tăng giá vượt xa mức lạm phát phi mã có thể lên tới hàng
nghìn tỷ lần.
Đặc trưng cơ bản của các cuộc siêu lạm phát:
- siêu lạm phát có sức phá huỷ mạnh toàn bộ mọi hoạt động của nền kinh tế và
thường đi kèm với suy thoái kinh tế nghiêm trọng.
- lạm phát thường xảy ra do các biến cố lớn dẫn đến đảo lộn trật tự xã hội như
chiến tranh, khủng hoảng chính trị.
- Nguyên nhân duy nhất của mức tăng giá khủng khiếp là do phát hành tiền
giấy không hạn chế nhằm bù đắp thiếu hụt NSNN.


2. Nguyên nhân lạm phát
2.1. Lạm phát cầu kéo
Đây là nguyên nhân do tổng cầu (AD )- tổng chi tiêu của xã hội tăng lên - vượt
qua mức cung ứng hàng hoá của xã hội dẫn đến áp lực làm tăng giá cả.
Các lý do cụ thể:
- Chi tiêu của chính phủ tăng lên
- Chi dùng của các hộ gia đình tăng lên
- Nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp tăng lên
- Do chính sách tiền tệ mở rộng
- Các yếu tố liên quan đến nhu cầu của nước ngoài
2.2. Lạm phát chi phí đẩy
Đặc điểm quan trọng của loại lạm phát chi phí đẩy là áp lực làm tăng giá cả
xuất phát từ sự tăng lên của chi phí sản xuất vượt quá mức tăng của năng suất
lao động và làm giảm mức cung ứng hàng hoá của xã hội. Chi phí sản xuất có
thể tăng lên do:
- Mức tăng tiền lương vượt quá mức tăng của năng suất lao động.
- Sự tăng lên của mức lợi nhuận ròng của người sản xuất đẩy giá cả hàng hoá
lên.
- Do giá nội địa của hàng nhập khẩu tăng lên, có thể do áp lực lạm phát của
nước xuất khẩu, hoặc do giá trị nội tệ giảm so với ngoại tệ hoặc do ảnh
hưởng của khủng hoảng
- Do sự tăng lên của thuế và các khoản nghĩa vụ với NSNN ảnh hưởng tới
mức sinh lời của hoạt động đầu tư, giá cả tăng lên là tất yếu nhằm duy trì
mức sinh lời thực tế.
3. Hậu quả của lạm phát
3.1. Lạm phát có thể dự tính được
Mức lạm phát thực tế phù hợp với dự tính nên lạm phát không gây ảnh hưởng
gì đến sản lượng, hiệu quả và phân phối thu nhập.
3.2. Lạm phát không thể dự tính
Khi tỷ lệ lạm phát biến động ngoài dự tính, nó tạo nên sự biến động bất thường

về giá trị tiền tệ và làm sai lệch toàn bộ thước đo các quan hệ giá trị, ảnh hưởng
đến mọi hoạt động kinh tế xã hội:
- Lạm phát tạo nên sự bất ổn định cho môi trường kinh tế xã hội
- Phân phối lại thu nhập quốc dân và của cải xã hội
- Lãi suất tăng lên
- Ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế
- Ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp
4. Các giải pháp kiềm chế lạm phát
4.1. Giá của chính sách chống lạm phát
4.2. Các giải pháp giảm tỷ lệ lạm phát
4.2.1. Nhóm giải pháp tác động vào tổng cầu
Các giải pháp này nhằm hạn chế sự gia tăng quá mức của tổng cầu, gồm:
- chính sách tiền tệ khan hiếm
- kiểm soát chi tiêu của NSNN
- thực hiện chính sách khuyến khích tiết kiệm giảm tiêu dùng
4.2.2. Nhóm giải pháp tác động vào cung
Giải pháp quan trọng nhất là tác động vào mối quan hệ giữa mức tăng tiền
lương và mức tăng của năng suất lao động xã hội.
4.2.3. Nhóm giải pháp nhằm mở rộng khả năng cung ứng hàng hoá
- Giải pháp tình thế : nhập khẩu hàng hóa, nhất là các hàng hoá khan hiếm góp
phần giảm áp lực đối với giá cả.
- Chiến lược dài hạn: tăng khả năng sản xuất hàng hoá trong nước.
Lạm phát đang công phá nhiều nền kinh tế, nhưng đáng lo ngại hơn cả là bệnh
dịch này không còn dừng lại ở Mỹ hay ở châu Âu mà nay đã tràn sang cả Trung
Quốc - nơi tăng trưởng kinh tế là hi vọng, động lực của kinh tế toàn cầu.
Lạm phát ở Trung Quốc vẫn đang tăng bất chấp các giải pháp cấp bách của
chính phủ nhằm “hạ nhiệt” nền kinh tế, như chính sách khuyến khích nông dân
tăng cường nuôi lợn, hay quyết định tăng lãi suất lên gấp 6 lần của chính phủ hồi
năm ngoái.


I.Thực trạng lạm phát đó của Trung Quốc được thể hiện rất rõ.
BẢNG THỐNG KÊ
Tỷ lệ lạm phát của Trung Quốc từ 2003 2008
Nguồn:
Năm 2007 và 2008 là 2 năm mà Trung Quốc đối mặt với tình hình lạm phát
căng thẳng nhất. Đây là một số số liệu về lạm phát 8 tháng đầu năm 2008:
Tháng/2008 1 2 3 4 5 6 7 8
Tỷ lệ lạm phát
(%)
7.1 8.7 8.3 8.5 7.7 7.11 6.3 4.9
Trung Quốc, một trong những nền kinh tế được coi là “cứu tinh” của kinh tế
châu Á, đã kết thúc tháng 1/2008 với tỷ lệ lạm phát cao nhất trong vòng 11 năm
qua, một phần do ảnh hưởng của thời tiết khắc nghiệt.
Thời tiết quá lạnh làm hỏng mùa màng, nông nghiệp, khiến giá thực phẩm tiếp
tục leo thang, qua đó đẩy lạm phát tiếp tục tăng dữ dội. Do vậy, chỉ số giá tiêu
dùng của Trung Quốc (CPI) đã tăng 7,1% so với cùng kỳ năm ngoái, theo như con
số chính thức của Tổng cục Thống kê nước này đưa ra ngày 19/2/2008. Thời gian
qua tại Trung Quốc, giá gạo, trứng gà, rau quả đã tăng mạnh mẽ, liên tục. Trong
đó, đặc biệt tăng mạnh là giá thịt, nhất là thịt lợn, với việc ở nhiều nơi tăng tới gần
50%. Riêng thực phẩm tăng tới 18% tính về giá trong tháng 1/2008. Trong đó, tăng
dữ dội nhất và cũng dễ nhìn thấy nhất là mặt hàng thịt lợn, tăng tới 59%. Cùng thời
gian, dầu ăn tăng 37% và rau xanh tăng tới 14%. Các mặt hàng phi thực phẩm tăng
1,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Lạm phát của Trung Quốc tiếp tục leo thang như vậy, bất chấp các nỗ lực kiềm
chế lạm phát của chính phủ nước này.Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào hôm 3/2
đã chủ trì một cuộc họp khẩn cấp của Bộ chính trị để bàn về những nỗ lực giải cứu.
Đây là cuộc họp thứ 2 kiểu này trong vòng một tuần.
Trong khi đó, các nhà xuất khẩu của Trung Quốc, đất nước được mệnh danh
là “công xưởng của thế giới’, đã buộc phải tăng giá hàng, khiến “bão giá” lan sang
cả Mỹ và châu Âu.Giá cả của khu vực dịch vụ tại Trung Quốc cũng đã tăng 2,6%,

phản ánh chi phí nhân công ở nước này đang có xu hướng tăng.Tỷ lệ lạm phát
7,1% của Trung Quốc trong tháng 1/2008 là mức cao nhất kể từ tháng 9/1996, khi
lạm phát lập ngưỡng 7,4%.
Theo ICBC, chỉ số CPI của Trung Quốc sẽ vào khoảng 8,2% trong tháng 3,
giảm nhẹ so với tháng 2, khi tác động của đợt bão tuyết đã tàn phá Trung Quốc hồi
đầu năm không còn đeo đẳng nữa . Lạm phát ở Trung Quốc trong tháng 2 năm
2008 đã tăng lên 8,7% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng cao nhất trong gần 12
năm qua. Giá lương thực, thực phẩm tăng 23,3%, trong khi giá những loại hàng
hóa khác chỉ tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước. Một đợt tăng giá ngũ cốc mới
trên thế giới trong đó có giá gạo và lúa mỳ, có thể sẽ gia tăng thêm sức ép đối với
nỗ lực chống lạm phát của Chính phủ Trung Quốc.
Tuy nhiên, các nhà kinh tế đã dự đoán tỷ lệ lạm phát của Trung Quốc có thể sẽ
bắt đầu giảm trong nửa cuối năm 2008, khi biện pháp kiểm soát vĩ mô của chính
phủ phát huy tác dụng
Quả thật, lạm phát của Trung Quốc đã giảm vào tháng 7 theo số liệu mới được
thông báo, giúp Trung Quốc đẩy mạnh tăng trưởng của nền kinh tế khi đang có dấu
hiệu chậm lại.Tổng cục Thống kê ở Bắc Kinh thông báo rằng giá tiêu dùng trong
tháng 7 tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2007. Hãng tin Reuters cho hay: giá thịt ở
Trung Quốc tăng 45% so với năm 2007 và giá lương thực tính chung tăng hơn
15%.
Một khó khăn lớn nữa với kinh tế Trung Quốc là tình trạng giá dầu leo thang,
đã lên 128 USD/thùng, trong khi nhu cầu dầu của Trung Quốc đang tăng mạnh. Để
tránh rơi vào tình trạng thiếu nhiên liệu, Trung Quốc gần đây đã phải áp dụng các
biện pháp trợ giá tới 45 tỷ USD (tương đương 1,1% GDP và khoảng 5,2% tổng thu
ngân sách). Để không xảy ra tình trạng mất điện trong mùa hè này, Trung Quốc có
thể cần phải áp dụng các biện pháp trợ giá tốn kém hơn.
Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo cho hay, nước này đặt ra mục tiêu giữ CPI
vào khoảng 4,8% năm nay. Nhiệm vụ ưu tiên của chính sách điều chỉnh kinh tế vĩ
mô năm 2008 là ngăn chặn tăng trưởng kinh tế quá nóng và giữ cấu trúc giá tăng
hợp lý. "Đồng thời, chúng ta xem xét khả năng chịu đựng mức giá tăng của cá

nhân, doanh nghiệp và toàn thể xã hội, đồng thời cố gắng tránh tăng giá đột
ngột’’, ông Ôn Gia Bảo nói.
Thủ tướng Trung Quốc thừa nhận, nước này đang phải đối mặt với ’’áp lực
lạm phát ngày một gia tăng’’ và nhiệm vụ giảm lạm phát là ’’rất khó khăn’’.
Tất cả những dấu hiệu trên báo hiệu tình trạng giảm tốc đang đến gõ cửa
Trung Quốc. Trung Quốc đã phát triển quá nhanh để giữ được tốc độ 10% mà họ
đã duy trì 30 năm, và sẽ giảm xuống 8% vào năm sau.
II. Nguyên nhân gây ra lạm phát ở Trung Quốc
1. Lạm phát cầu kéo
Giá thực phẩm tăng cao được xem như là nguyên nhân chính đẩy tỷ lệ lạm
phát của Trung Quốc từ mức 6,5% của tháng 12/2007 lên 7,1% trong tháng đầu
tiên của năm 2008. Mùa đông tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ kỷ qua ở đất nước
đông dân nhất thế giới đã gây ảnh hưởng nghiên trọng đến nguồn cung thực phẩm,
dẫn đến việc giá cả tăng 18%. Các trận bão tuyết lớn đã khiến giao thông đình trệ,
mùa vụ thất thu, gia súc gia cầm chết hàng loạt.
Nguyên nhân CPI tăng mạnh chủ yếu là do giá thực phẩm tăng mạnh, nhất là
các sản phẩm thịt. Nhóm thực phẩm đã tăng giá tới 15,4%, trong khi các nhóm
khác chỉ tăng khoảng 0,9%. Nhất là giá thịt lợn, ở nhiều nơi tăng tới gần 50%.
Tuy nhiên, giới phân tích cho rằng thời tiết khắc nghiệt không phải là nguyên
nhân duy nhất đằng sau tình trạng giá thực phẩm leo thang. Giá hàng tiêu dùng tại
TQ đã tăng 1,2% chỉ trong 1 tháng, từ tháng 12/2007 đến tháng 1/2008.
Đợt bão tuyết tồi tệ nhất vào đầu tháng 2/2008 ở TQ đã làm hư hại khoảng
10% diện tích canh tác của nước này, tàn phá nhiều công trình, gây cản trở giao
thông, đẩy giá cả nhu yếu phẩm tăng cao. Một số chuyên gia đã nâng dự báo lạm
phát của Trung Quốc năm 2008 từ 4,5% lên 5%.
Ngày 20/2, Bộ Nông nghiệp Trung Quốc (MOA) cho biết, khoảng 11,87
triệu ha cây trồng của nước này bị hỏng. Khoảng 7 triệu ha đất canh tác đã bị ảnh
hưởng do bão tuyết, trong đó hơn 700 triệu ha mất trắng hoa màu khiến cho nguồn
cung lương thực – thực phẩm bị sụt giảm.
Trung Quốc còn buộc phải chi nhiều khoản tiền đầu tư để sửa chữa hệ thống

giao thông, điện, viễn thông bị hư hại. Vì vậy, bão tuyết không chỉ làm gia tăng
lạm phát, mà còn ảnh hưởng chính sách thắt chặt đầu tư, hạn chế tình trạng kinh tế
phát triển quá nóng của Trung Quốc.
2. Lạm phát chi phí đẩy
Áp lực tăng giá cả xuất phát từ sự tăng lên của chi phí sản xuất vượt qua
mức tăng của sức lao động và làm giảm mức cung ứng hàng hóa của xã hội.
Tình trạng lạm phát gia tăng chủ yếu do giá lương thực phẩm và giá năng
lượng trên thị trường toàn cầu tăng và do tác động của một số nhân tố trong nước,
trong đó có chi phí đầu vào và nhu cầu tăng mạnh. Một đợt tăng giá ngũ cốc mới
trên thế giới trong đó có giá gạo và lúa mỳ, có thể sẽ gia tăng thêm sức ép đối với
nỗ lực chống lạm phát của Chính phủ Trung Quốc.
Có một số ý kiến cho rằng công nghiệp hoá, đô thị hoá đã đẩy nhanh tốc độ
thu hẹp diện tích đất trồng mới là nguyên nhân cơ bản của lần lạm phát mang tính
xu hướng này.
Về cung lương thực, công nghiệp hoá, đô thị hoá đã từng bước đẩy nhanh
việc chiếm dụng một khối lượng lớn tư liệu sản xuất, dẫn tới khó khăn cho tăng
trưởng lương thực.
Một là chiếm dụng đất làm giảm diện tích đất canh tác. Từ 2003-2006, diện
tích đất canh tác thuần giảm ở Trung Quốc là 60.0915 triệu mẫu, bình quân hàng
năm giảm trên 10 triệu mẫu. Theo xu thế hiện nay, đến năm 2020, đất canh tác ở
Trung Quốc sẽ thiếu hụt từ 100 triệu mẫu trở lên.
Hai là chuyển dịch khối lượng lớn sức lao động trẻ của nông thôn, khiến sản
xuất ở nông thôn bị suy giảm, tăng trưởng năng suất lao động chậm
Ba là, công nghiệp hoá, đô thị hoá từng bước đẩy giá lương thực tăng nhanh.
Quá trình này đã đẩy nhanh tốc độ tăng nhu cầu sử dụng đất cùng với sự suy giảm
nhanh chóng của diện tích đất canh tác đã khiến giá đất sử dụng cho công nghiệp
tăng vọt, kéo theo giá đất nông nghiệp. Cùng lúc đó hiệu suất trồng trọt giảm sút
khiến thành phẩm lương thực có cơ tăng giá. Đây lại là lạm phát do chi phí đẩy.
Sự phát triển của công nghiệp hoá và đô thị hoá còn kéo theo sự tăng giá của
dầu thô, nguyên liệu và các sản phẩm thiết yếu khác, đồng thời nó làm tăng giá tư

liệu sản xuất, khiến giá các vật dụng phải đầu tư vào sản xuất lương thực cùng các
dịch vụ có liên quan tăng giá rõ rệt.
Chi phí sản xuất tăng do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, lương nhân công tăng nhanh. Năm 2005, giá nhân công rẻ khiến
Trung Quốc nhanh chóng trở thành công xưởng của thế giới nhưng giờ đây lương
trả cho người lao động ở thành thị đã tăng tới mức hai con số, tính riêng 6 tháng
đầu năm 2007, mức lương trả cho nhân công Trung Quốc đã tăng 18%.
Thứ hai, Trung Quốc đang khuyến khích các địa phương như Bắc Kinh,
Thượng Hải, Thẩm Quyến, Quảng Châu và Nam Ninh tăng tối đa lương tối thiểu
của người lao động vì vậy sự tăng lương đã góp phần làm cho hàng hóa Trung
Quốc tăng giá.
Thứ ba, giá của các loại nguyên liệu thô đầu vào đều tăng khiến giá sản phẩm
phải đội lên theo.
Thứ tư, là nhân dân tệ đang mạnh lên rõ rệt khiến hàng hóa Trung Quốc lên
giá khi xuất khẩu.
III. Một số bài học từ Trung Quốc trong kiềm chế lạm phát
Sau thời gian nỗ lực, hiện nay Trung Quốc thành công trong việc kiểm soát
và giữ tỷ lệ lạm phát ở mức như mục tiêu đề ra trong năm 2008 là 4,8%. Và lạm
phát thấp nhất trong 14 tháng qua cho phép chính phủ Trung Quốc cắt giảm các
khoản chi phí vay mượn, đồng thời bảo vệ công ăn việc làm trong nền kinh tế lớn
thứ 4 thế giới. Vậy, Trung Quốc đã làm những gì để kiềm chế lạm phát?
Nhận thấy lạm phát đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế cũng
như xã hội, ngay khi bước sang năm 2008, các nhà lãnh đạo Trung Quốc khẳng
định, chống lạm phát là ưu tiên kinh tế hàng đầu của đất nước. Không như Mỹ,
nước thường xuyên chú trọng tăng lãi suất khi khối lượng đồng đô la Mỹ quá lớn,
đến nay Trung Quốc không tăng lãi suất, một phần vì sợ thu hút đồng tiền đầu cơ
vào nội địa. Trái lại, từ đầu năm tới nay Trung Quốc đã triển khai một chiến lược
nhiều hướng, nhiều mũi để ngăn chặn lạm phát, trong đó nổi lên một số biện pháp
sau.
1. Bắt buộc các ngân hàng quản lý tiền mặt chặt chẽ.

Trong năm , một lần nữa Ngân hàng Trung ương yêu cầu các ngân hàng tăng
khoản dự trữ từ 16,5% lên 17,5%. Kể từ giữa năm 2006 đến nay, đây là lần thứ 18
Ngân hàng Trung ương yêu cầu các ngân hàng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tuy
nhiên, sau khi các ngân hàng tăng khoản dự trữ mới, các thị trường chứng khoán ở
Trung Quốc giảm đáng kể, do đó chiến thuật này ít hiệu quả. Ngân hàng Trung
ương cũng yêu cầu các ngân hàng phải thường xuyên kiểm tra số lượng các khoản
vay mới, bởi vì đây là một thách thức lớn trong quá trình đáp ứng nhu cầu tái thiết
sau khi xảy ra trận động đất.
2. Tăng vốn đầu tư ra nước ngoài
Hiện chính phủ Trung Quốc đang khuyến khích các nguồn vốn đầu tư ra nước
ngoài. Để thực hiện chủ trương này, các nhà chức trách đã giảm bớt các quy định
đối với các khoản đầu tư nước ngoài của các công ty Trung Quốc, một biện pháp
nhằm giảm bớt lượng tiền mặt nhàn rỗi quá lớn trong hệ thống tài chính nội địa.
Chính phủ cũng khuyến khích mạnh mẽ các tổ chức tài chính Trung Quốc phát
triển ra thế giới và cung cấp tài chính cho các công ty nội địa nào muốn hoạt động
kinh doanh ở các nước trên thế giới.
3. Thiết lập các khoản dự trữ
Năm 2008, giá lương thực tăng mạnh so với năm 2007. Để hạn chế giá lương
thực không vượt khỏi vòng kiểm soát, Trung Quốc tiếp tục duy trì các khoản dự
trữ lương thực chiến lược gồm năm loại sản phẩm : ngũ cốc, dầu thực vật, đường,
thịt, chè và tăng các nguồn cung cấp khi cần thiết để kiểm soát giá. Trong thời gian
diễn ra các trận bão tuyết lớn mùa đông năm 2007, Chính phủ còn thiết lập các
khoản dự trữ tạm thời. Bộ Thương mại Trung Quốc cho biết, Trung Quốc sẽ tăng
số lượng các loại hàng hoá nông nghiệp hiện có trong các khoản dự trữ nhà nước
và mở rộng quy mô các khoản dự trữ để bảo đảm các nguồn cung cấp trong nước
khi cần thiết.
4. Kiểm soát chặt chẽ giá và tăng trợ cấp
Từ lâu, Chính phủ Trung Quốc đã kiểm soát chặt chẽ giá của một số mặt hàng
như xăng dầu và các nhiên liệu khác. Bước sang năm 2008, Uỷ ban Cải cách và
Phát triển Quốc gia quyết định kiểm soát giá của hàng loạt sản phẩm, trong đó có

ngũ cốc, dầu lửa, thịt, trứng, hơi đốt tự nhiên. Theo quyết định của Uỷ ban này, các
công ty lớn phải trình kế hoạch tăng giá cho Chính phủ xem xét 10 ngày trước khi
họ tăng giá sản phẩm. Ngoài ra, Chính phủ còn áp dụng nhiều biện pháp khác để
ổn định giá và trừng phạt nghiêm khắc theo Luật Giá cả các tổ chức và cá nhân tích
trữ và đầu cơ các loại hàng hoá cơ bản. Tất cả các nhà sản xuất hàng hoá tiêu dùng
quy mô lớn phải được sự chấp thuận của Chính phủ trước khi tăng giá bất cứ loại
hàng hoá nào, kể cả bán buôn và bán lẻ.
Để khuyến khích và hỗ trợ người nông dân, từ năm 2007 đến nay, Chính phủ
tăng gấp đôi các khoản trợ cấp nhiên liệu cho nông dân và các ngành sản xuất khác
bị ảnh hưởng do chi phí nhiên liệu tăng.
Ngoài ra, Chính phủ còn áp dụng một loạt các biện pháp khác để ngăn chặn
lạm phát tăng. Tháng 4/2008, Chính phủ tăng 100% thuế xuất nhập khẩu phân bón;
tăng thuế xuất khẩu ngũ cốc và một số hàng hoá khác nhằm tăng thêm các nguồn
cung cấp và ổn định giá trong nước. Đáng chú ý là tháng 7/2008, Ngân hàng Trung
ương giảm bớt hạn chế đối với việc cho vay của các ngân hàng.
Ngân hàng Trung ương nâng chỉ tiêu vay năm 2008 của các ngân hàng quốc
gia khoảng 5% và các ngân hàng khu vực khoảng 10%. Do tình hình lạm phát
giảm xuống mức thấp nhất, ngày 15/9/2008, Ngân hàng Trung ương quyết định
giảm lãi suất cơ bản bằng đồng tệ từ 7,47% xuống 7,20% để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Từ ngày 25/9/2008,Ngân hàng cũng giảm bớt dự trữ bắt buộc 1% từ 17,5%
xuống 16,5%, sau 5 lần liên tục tăng từ đầu năm đến nay.
Với ý kiến cho rằng đô thị hóa là nguyên nhân sâu xa của lạm phát thì để kiềm
chế được nó, Trung Quốc phải giải quyết vấn đề từ gốc. khởi nguyên của cuộc lạm
phát lần này ở Trung Quốc - một tiến trình đô thị hoá thiếu sự điều tiết. Nắm lấy
điểm đầu ấy để giải quyết quyết liệt mới là cách xử trị cả gốc lẫn ngọn, còn nếu chỉ
dựa vào những biện pháp giải quyết trong chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá thì
chỉ có thể xử lý được phần ngọn mà thôi.
Tuy nhiên, dư luận cho rằng, các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc
vẫn phải cân bằng các biện pháp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chống nguy cơ
lạm phát tăng trở lại.

I. Thực trạng lạm phát Việt Nam
12 là con số được lặp lại nhiều lần khi nói đến lạm phát trong những ngày cuối
năm 2007. Theo ước tính mới nhất của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) của Việt Nam vào tháng 12/2007 đã tăng 12,6% so với tháng c12/2006. Đây
là mức tăng giá tiêu dùng cao nhất trong vòng 12 năm qua.
Lạm phát giai đoạn 1995-2007, tính theo chỉ số
giá tiêu dùng tháng 12 mỗi năm so với tháng 12
năm trước. (Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Năm 2008, tình hình lạm phát của VN có chiều hướng gia tăng trong 8 tháng đầu
năm vượt xa những gì đã được dự tính trong năm 2007. Bản thân sự bất ổn của giá
cả các tháng trong năm cũng làm cho nhiều nhà nghiên cứu bất ngờ.
Tuy nhiên trong các tháng cuối năm với sự điều chỉnh của giá cả hàng hóa thế giới
mà đặc biệt là giá dầu và tâm lý lo ngại về sự bất ổn lương thực toàn cầu qua đi đã
làm giảm áp lực và tâm lý chung của người tiêu dùng đối với các loại hàng hóa
Chỉ số giá tiêu dùng của một số nhóm măt hàng từ tháng 1 đến tháng 9
Tháng 1
Nhu cầu tiêu dùng tháng giáp Tết nguyên đán tăng mạnh, cùng với sức mua tăng do
tăng lương, tiền thưởng và lượng kiều hối cuối năm về nhiều đã ảnh hưởng đến tốc
độ tăng giá ở hầu hết các nhóm hàng hoá và dịch vụ. Giá tiêu dùng cả nước tháng
này tăng 2,38% so với tháng trước, trong đó :
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất ở mức 3,76%;
- Giá lương thực tăng 3,35% do giá lúa và giá gạo xuất khẩu tăng;
- Giá thực phẩm tăng 3,75% do chăn nuôi bị ảnh hưởng của dịch bệnh dẫn đến
nguồn cung chưa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong dịp Tết (thịt gia súc tăng
8,98%, thịt gia cầm tăng 4,05%);
- Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2,88%;
- Đồ uống và thuốc lá tăng 1,77%;
- Hàng may mặc, mũ nón và giầy dép tăng 1,4%;
- Các nhóm hàng chủ yếu khác tăng nhẹ ở mức từ 0,06% đến 0,85%; riêng bưu
chính viễn thông giảm mạnh, ở mức 8,6% do giá dịch vụ viễn thông của mạng

di động VNPT giảm. Các vùng có giá tiêu dùng tăng thấp hơn mức tăng
chung cả nước là: Vùng Tây Nguyên tăng 2,31%; vùng Đông Nam Bộ tăng
1,39%; các vùng còn lại đều có giá tăng cao hơn mức tăng chung, ở mức từ
2,57% đến 3,59%.
So với tháng 01/2007, giá tiêu dùng tháng này tăng 14,11%, cao hơn hai lần
mức tăng 6,5% của cùng kỳ năm trước, trong đó hàng ăn và dịch vụ ăn uống
tăng 22,01% (Tháng 01/2007 tăng 7,4%); nhà ở và vật liệu xây dựng tăng
16,89% (Tháng 01/2007 tăng 8,3%); các nhóm hàng khác tăng thấp hơn mức
tăng chung.
Giá vàng thế giới tăng liên tục trong ba tháng qua đã tác động đến giá vàng trong
nước. Giá vàng tháng 01/2008 tăng 5,07% so với tháng trước và tăng 35,33% so
với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, giá đô la Mỹ tiếp tục giảm so với tháng
trước và so với cùng kỳ năm 2007 ở mức 0,26% và 0,17%.
Tháng 2
So với tháng trước giá tiêu dùng tháng 02/2008 tăng 3,56%, cao hơn mức tăng giá
tiêu dùng 2,38% của tháng 01/2008 so với tháng 12/2007. Trong các nhóm hàng
hóa và dịch vụ tiêu dùng, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất, ở mức
6,18% và là mức tăng giá cao nhất so với mức tăng giá của nhóm này các tháng
gần đây. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng khác tăng không nhiều, chỉ từ
0,1% cho tới 2,34%; Riêng giá phân nhóm dịch vụ bưu chính viễn thông tiếp tục
giảm 0,22% so với tháng trước.
So với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tháng 02/2008 tăng 6,02% và bình quân hai
tháng đầu năm giá tiêu dùng đã tăng 14,89% so với cùng kỳ năm trước, trong đó tăng
cao nhất vẫn là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (hàng thực phẩm tăng 26,82%; ăn
uống ngoài gia đình tăng 22,03%; hàng lương thực tăng 17,43%).
Tháng 3
So với tháng trước, giá tiêu dùng tháng 3/2008 tăng 2,99% (tháng 02 tăng 3,56% và
tháng 01 tăng 2,38%). Tuy nhiên, đây vẫn là mức tăng cao và bất thường so với mức
tăng giá tiêu dùng tháng 3 của các năm trước đây.
Chỉ số giá tiêu dung Quý I

%
2004 2005 2006 2007 2008
Tháng trước = 100
Tháng 1 101,1 101,1 101,2 101,05 102,38
Tháng 2 103,0 102,5 102,1 102,17 103,56
Tháng 3 100,8 100,1 99,5 99,78 102,99
Tháng 12 năm
trước=100

Tháng 1 101,1 101,1 101,2 101,05 102,38
Tháng 2 104,1 103,6 103,3 103,24 106,02
Tháng 3 104,9 103,7 102,8 103,02 109,19
Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ tháng này, tăng mạnh đẩy giá lên là các
nhóm hàng lương thực; phương tiện đi lại, bưu điện; nhà ở và vật liệu xây dựng
với các mức tăng so với tháng trước lần lượt là:
- Lương thực tăng 10,5%;
- Phương tiện đi lại, bưu điện tăng 5,76%;
- Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 3,55%;
- Các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác chỉ tăng ở mức 0,3%-1,5%.
So với tháng 12/2007, giá tiêu dùng ba tháng đã tăng 9,19%, trong đó :
- Hàng lương thực tăng 17,91%;
- Thực phẩm tăng 13,08%;
- Nhà ở, vật liệu xây dựng tăng 8,01%;
- Phương tiện đi lại, bưu điện tăng 7,32%;
- Các nhóm khác tăng phổ biến từ 0,6% đến 4,4%.
Bình quân mỗi tháng trong quí I năm nay, giá tiêu dùng đã tăng ở mức 16,38% so
với quí I năm trước, trong đó hàng thực phẩm tăng 28,41%; lương thực tăng
21,53%; nhà ở, vật liệu xây dựng tăng 17,94%; phương tiện đi lại, bưu điện tăng
10,05%; các nhóm khác tăng phổ biến từ 2% đến 7,7%.
Tháng 4

Giá tiêu dùng tháng 4/2008 đã tăng thấp hơn mức tăng của các tháng trước nhưng
vẫn còn tăng và nhiều mặt hàng đứng ở mức giá cao.
So với tháng trước, giá tiêu dùng tháng 4/2008 tăng 2,2% (tháng 1/2008 tăng
2,38%; tháng 2 tăng 3,56%; tháng 3 tăng 2,99%). Trong các nhóm hàng hóa và
dịch vụ, tăng mạnh và góp phần đẩy giá lên cao vẫn là giá các nhóm lương thực;
nhà ở và vật liệu xây dựng; phương tiện đi lại, bưu điện và thực phẩm, với các mức
tăng giá so với tháng trước lần lượt là: lương thực tăng 6,1%; nhà ở và vật liệu xây
dựng tăng 2,6%; phương tiện đi lại, bưu điện tăng 2,3%; thực phẩm tăng 2,2%; các
nhóm hàng hóa, dịch vụ khác chỉ tăng ở mức 0,4% đến 1%.
So với tháng 12 năm 2007, giá tiêu dùng tháng 4 tăng 11,6%, trong đó hàng lương
thực tăng 25,1%; thực phẩm tăng 15,6%; nhà ở, vật liệu xây dựng tăng 10,8%;
phương tiện đi lại, bưu điện tăng 9,8%; các nhóm khác tăng phổ biến từ 1% đến
trên 5%. So với tháng 4 năm 2007, giá tiêu dùng tháng 4 năm 2008 tăng 21,42%.
Giá tiêu dùng bình quân 4 tháng đầu năm 2008 tăng 17,6% so với 4 tháng đầu năm
trước.
Tháng 5
Giá cả thị trường đang diễn biến phức tạp. Giá tiêu dùng tháng 5/2008 so với tháng
trước tăng 3,91%, tăng cao nhất trong 5 tháng đầu năm nay (Tháng Một: 2,38%; tháng
Hai: 3,56%; tháng Ba: 2,99%; tháng Tư: 2,2%), đáng chú ý là chỉ số giá tiêu dùng tăng
cao tại các vùng phía Nam với mức từ 4% đến trên 6% (Vùng Duyên hải Nam Trung
Bộ tăng 4,33%, Tây Nguyên tăng 6,24%, Đông Nam Bộ tăng 4,5%, đồng bằng sông
Cửu Long tăng 5,66%).
Giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất với 7,25%, trong đó lương thực
tăng đột biến ở mức 22,19%; giá thực phẩm tăng 2,28% do chi phí đầu vào vẫn tiếp
tục tăng. Giá các nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng phổ biến từ 0,3% đến dưới
2%, trong đó giá đồ uống và thuốc lá tăng 1,88%; giá hàng may mặc, mũ nón, giầy
dép tăng 0,96%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,2%, tuy vẫn ở mức cao nhưng đã
giảm so với mức tăng 2,62% của tháng trước; giá thiết bị và đồ dùng gia đình tăng
0,93%; giá các nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng từ 0,33% đến 0,57%.
So với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tháng 5/2008 tăng 15,96%, trong đó nhóm

hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 26,56%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 12,17%;
phương tiện đi lại và bưu điện tăng 10,2%; đồ uống và thuốc lá tăng 7,06%; may
mặc, mũ nón và giầy dép tăng 5,69%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 5,07%; văn
hoá, thể thao giải trí tăng 4,87%. So với cùng kỳ năm 2007, giá tiêu dùng tháng
này tăng 25,2%. Giá tiêu dùng bình quân 5 tháng đầu năm 2008 tăng 19,09% so
với 5 tháng đầu năm 2007.
Giá vàng tháng 5/2008 so với tháng trước giảm 3,9%, so với tháng 12/2007 tăng
11,41%, so với cùng kỳ năm trước tăng 32,45%. Giá đô la Mỹ tháng 5/2008 tăng
1,02% so với tháng trước, tăng 0,32% so với tháng 12/2007, tăng 0,45% so với
cùng kỳ năm trước
Tháng 6
Giá tiêu dùng tháng 6/2008 đã tăng chậm lại, ở mức tăng 2,14% so với tháng trước.
Đây là tháng có mức tăng thấp nhất trong 6 tháng đầu năm nay, nhưng vẫn là mức
tăng cao nhất so với chỉ số giá tháng 6 của một số năm gần đây. Trong các nhóm hàng
hoá và dịch vụ, giá lương thực tháng 6 năm 2008 tuy tăng thấp hơn nhiều so với mức
tăng 22,19% của tháng trước nhưng vẫn là nhóm hàng có mức tăng cao nhất với
4,29%. Các nhóm hàng hoá, dịch vụ có giá tăng cao hơn mức tăng của tháng 5/2008
gồm: Thực phẩm tăng 3,05%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,93%; thiết bị và đồ
dùng gia đình tăng 1,28%; dược phẩm, y tế tăng 0,66%; giáo dục tăng 0,67%; đồ
dùng và dịch vụ khác tăng 0,96%.
So với tháng 12 năm 2007, giá tiêu dùng tăng 18,44% (cùng kỳ năm trước tăng
5,2%), trong đó các nhóm hàng hoá có giá tăng cao là: Lương thực tăng 59,44%;
thực phẩm tăng 21,83%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 14,34%; phương tiện đi
lại, bưu điện tăng 10,58%; các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng từ 2,12% đến
8,21%. So với giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2007, giá tiêu dùng bình
quân 6 tháng đầu năm nay tăng 20,34% (cùng kỳ năm trước tăng 7%).
Giá vàng và đô la Mỹ 6 tháng đầu năm nay tăng giảm không ổn định. Giá vàng tháng 1
và 2 tăng cao so với tháng trước, đặc biệt tăng mạnh vào tháng 3 ở mức 18,46%; tháng
4 và tháng 5 giảm nhẹ; tháng 6 tăng 4,36%; so với tháng 12/2007 tăng 16,27% và so
với cùng kỳ năm trước tăng 41,01%. Giá đô la Mỹ giảm trong các tháng 1, 2 và 3; tăng

trên 1% trong tháng 4, 5 và tháng 6 tăng cao ở mức 4,69% so với tháng trước. Giá đô la
Mỹ tháng 6 năm 2008 so với tháng 12/2007 tăng 5,02%, so với tháng 5/2008 tăng
4,96% và so với cùng kỳ năm trước tăng 4,89%.
Tháng 7
Giá tiêu dùng tháng 7/2008 tăng 1,13% so với tháng trước (chưa bao gồm tác động
của giá xăng dầu trong nước tăng vào ngày 21/7/2008), là tháng có tốc độ tăng giá
thấp nhất trong vòng 7 tháng đầu năm nay. Trong đó các nhóm hàng hoá và dịch vụ
có giá tăng cao hơn mức tăng chung là: Dược phẩm, y tế tăng 2%; nhà ở và vật liệu
xây dựng tăng 1,67%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,53%; may mặc, mũ nón,
giày dép tăng 1,4%. Giá các nhóm hàng hoá và dịch vụ khác giảm hoặc tăng thấp
hơn mức tăng chung, gồm: Giáo dục tăng 1,02%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng
0,99% (lương thực giảm 0,37%; thực phẩm tăng 1,33%); đồ uống và thuốc lá tăng
0,98%; văn hoá, thể thao, giải trí tăng 0,85%; phương tiện đi lại, bưu điện tăng
0,55%.
So với cùng kỳ năm trước, giá tiêu dùng tháng 7/2008 tăng 27,04%; so với tháng
12/2007, giá tiêu dùng tháng 7/2008 tăng 19,78%. Giá tiêu dùng bình quân 7 tháng
năm 2008 so với 7 tháng năm 2007 tăng 21,28%.
Giá vàng tháng 7/2008 tăng 3,2% so với tháng 6/2008, tăng 19,99% so với tháng
12/2007 và tăng 46,38% so với cùng kỳ năm trước. Giá đô la Mỹ tháng 7/2008
tăng 1,83% so với tháng trước, tăng 6,94% so với tháng 12 năm trước và tăng
6,58% so với tháng 7/2007.
Đến thời điểm này, các giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ tiếp tục phát
huy tác dụng, giá tiêu dùng đã giảm dần. Tuy nhiên, giá xăng dầu tăng sẽ tác
động đến giá của nhiều hàng hoá và dịch khác trong những tháng tới, vì vậy để
bình ổn giá cần giám sát chặt chẽ thị trường; không để xảy ra tình trạng đầu cơ,
nâng giá tuỳ tiện; các doanh nghiệp, các tổ chức và từng người dân phải thích ứng
dần với quy luật kinh tế thị trường; thực hiện tiết kiệm và tính toán chi phí hợp lý.
Tháng 8
Giá tiêu dùng tháng 8/2008 tăng 1,56% so với tháng trước, cao hơn mức tăng
1,13% của tháng 7 do giá xăng dầu tăng cuối tháng 7 đã ảnh hưởng đến giá tiêu

dùng tháng này, trong đó giá nhóm phương tiện đi lại, bưu điện chịu tác động trực
tiếp nên tăng mạnh ở mức 9,07% (Tháng 7 tăng 0,55%), giá của các nhóm hàng
hoá và dịch vụ khác tăng nhẹ. Nhóm hàng hoá và dịch vụ có giá giảm hoặc tăng
thấp hơn mức tăng của tháng trước là: Lương thực giảm 1,1%; thực phẩm tăng
0,53%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,67%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1%; thiết
bị và đồ dùng gia đình tăng 1,11%; dược phẩm, y tế tăng 1,23%. Nhóm hàng hoá
và dịch vụ có giá tăng cao hơn mức tăng của tháng trước là: Giáo dục tăng 1,16%;
văn hoá, thể thao, giải trí tăng 1,08%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2,18%. So
với cùng kỳ năm trước, giá tiêu dùng tháng 8/2008 tăng 28,32%; so với tháng
12/2007, giá tiêu dùng tháng 8/2008 tăng 21,65%. Giá tiêu dùng bình quân 8 tháng
năm 2008 so với 8 tháng năm 2007 tăng 22,14%.
Giá vàng tháng 8/2008 giảm 2,96% so với tháng trước, tăng 39,96% so với cùng
kỳ năm trước và tăng 16,44% so với tháng 12/2007. Giá đô la Mỹ tháng 8/2008
giảm 2,96% so với tháng trước, tăng 3,26% so với cùng kỳ năm trước và tăng
3,78% so với tháng 12 năm trước.
Tháng 9
Giá tiêu dùng tháng 9/2008 tăng 0,18% so với tháng trước, là mức tăng thấp nhất
trong vòng 17 tháng gần đây và cũng là mức tăng thấp nhất so với mức tăng tháng
9 của các năm từ 2004 đến nay (Giá tiêu dùng tháng 9/2004 tăng 0,3%; tháng 9/2005
tăng 0,8%; tháng 9/2006 tăng 0,3%; tháng 9/2007 tăng 0,5%). Giá tiêu dùng tháng 9
tăng chậm lại, một mặt do giá trên thị trường thế giới của một số hàng hoá nước ta
nhập khẩu đã giảm và sản xuất nông nghiệp trong nước được mùa, nhưng yếu tố
quan trọng nhất là do những nỗ lực của các cấp, các ngành trong việc thực hiện 8
nhóm giải pháp của Chính phủ. Tuy nhiên, trong 9 tháng vừa qua giá hàng hoá và
dịch vụ đã tăng với tốc độ cao. Giá tiêu dùng tháng 9/2008 so với tháng 12 năm
2007 tăng 21,87%; so với cùng kỳ năm trước tăng 27,9%. Giá tiêu dùng bình quân
9 tháng 2008 so với 9 tháng năm 2007 tăng 22,76%.
Giá vàng tháng 9/2008 so với tháng trước giảm 6,36%; so với tháng 12 năm trước
tăng 9,03%, so với cùng kỳ năm trước tăng 28,58%. Giá đô la Mỹ giảm 0,75% so
với tháng trước; tăng 3% so với tháng 12/2007; tăng 1,9% so với cùng kỳ năm

trước.
Ảnh hưởng của lạm phát tới đời sống kinh tế xã hội Việt Nam
1- Ảnh hưởng đến doanh nghiệp
Chuyện giá cả leo thang không chỉ khổ cho người tiêu dùng, nhất là những
người có thu nhập thấp mà ngay cả những người kinh doanh, các tiểu
thương, các chủ doanh nghiệp cũng vất vả.
DN đang rơi vào hoàn cảnh rất khó khăn. Rất nhiều DN không vay được vốn
.Lãi suất cho vay tuy đã giảm dần, hiện dao động ở mức từ 17 - 20%/năm,
nhưng doanh nghiệp (DN) nhất là DN vừa và nhỏ (DNNVV) vẫn khó tiếp
cận được vốn vay do lãi suất cho vay cao hơn khả năng sinh lời của hoạt
động sản xuất - kinh doanh. Lạm phát làm cho lãi suất ngân hàng tăng cao,
nhưng khả năng vay vốn ngân hàng của các DNNVV vốn đã rất hạn chế lại
càng khó khăn hơn bao giờ hết. Nhiều DNNVV rơi vào tình trạng tiến thoái
lưỡng nan; đã đầu tư rồi, dừng lại cũng không được mà đi tiếp cũng không
được. Nhiều DN mò mẫm đi tìm vốn, chấp nhận lãi suất cho vay cao và
thậm chí trả thêm chi phí dịch vụ cao, miễn có được vốn .Đại diện của Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cho hay: Tỷ lệ nợ xấu cuối năm
có xu hướng tăng nhanh do tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh, khả
năng trả nợ của DN khách hàng sa sút; đặc biệt do chi phí vốn tăng và khả
năng tiêu thụ hàng hóa chậm lại, thậm chí nhiều DNNVV phải dừng sản
xuất.
Điều này sẽ dẫn đến việc các DNNVV sẽ đối mặt với nguy cơ phá sản.
Theo số liệu mới nhất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện cả nước có 349.309
DN có đăng ký kinh doanh với số vốn đăng ký lên đến 1.389.000 tỷ đồng
(tương đương 84,1 tỷ USD). Trong số này, hơn 95% là các DNNVV.
TS. Cao Sỹ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội DNNVV cho biết: Trong tổng số DN,
các DN khó khăn trung bình khoảng 70%, khó khăn nhất chiếm khoảng
20%. Nếu không được tiếp cận vốn và tình hình xấu đi, sẽ có khoảng 20%
tổng số DN bị phá sản hoặc đứng trước nguy cơ phá sản. “Gần 1/2 của 20%,
tức 10% đã ngừng hoạt động hoặc họ có thể chuyển hướng, hoặc tương lai

họ sẽ bị phá sản. 10% còn lại bị tác động lạm phát, nếu chính sách tốt lên họ
sẽ cải thiện tình hình tốt hơn. Còn 10% ngừng hoạt động đã khó khăn từ
trước rồi, nay lạm phát họ lại khó khăn thêm, mình có muốn cứu nữa cũng
không được nên phải chấp nhận”, TS. Cao Sỹ Kiêm nhấn mạnh.
Chính vì vậy, các chuyên gia khuyên DN tái cơ cấu lại sản xuất. Trong thời
gian chờ các giải pháp tiếp theo của Chính phủ, trước mắt DN vẫn phải nỗ
lực, và huy động các nguồn lực hỗ trợ khác.
2- Ảnh hưởng của lạm phát đến hoạt động của ngân hàng
Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn
của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không
muốn vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng
lãi suất huy động sát với diễn biến của thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao
nhiêu là hợp lý, luôn là bài toán khó đối với mỗi ngân hàng. Một cuộc chạy
đua lãi suất huy động ngoài mong đợi tại hầu hết các ngân hàng (17% -
18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy
động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên, có ngân hàng
đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn
nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống NHTM.
Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải thực hiện thắt chặt
tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của
các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có
thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những
dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất
huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về
môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Do sức mua
của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn
có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong
khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy
việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại
mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều này đã ảnh hưởng đến tính thanh khoản

của các ngân hàng, nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra là điều khó tránh
khỏi.
Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp cũng như người dân giao dịch hàng
hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, đặc biệt trong điều kiện
lạm phát, nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của Ngân hàng thế
giới (WB), ở Việt Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân
hàng, trên 50% giao dịch không qua ngân hàng, trong đó trên 90% dân cư
không thanh toán qua ngân hàng. Khối lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng
lớn, NHNN thực sự khó khăn trong việc kiểm soát chu chuyển của luồng
tiền này, các NHTM cũng khó khăn trong việc phát triển các dịch vụ phi tín
dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Vốn tiền thiếu, nhiều
doanh nghiệp thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng, thoát
ly ngoài hoạt động.
Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn,
ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Sự không ổn định của giá cả,
bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân
chúng.
Kiềm chế lạm phát đến nay đã có tác dụng bước đầu, NHNN đã từng bước
ổn định được thị trường tiền tệ, kiểm soát tăng trưởng tín dụng của từng
NHTM. Song một điều nhận thấy rõ là những dấu hiệu của bất ổn vĩ mô
chưa thuyên giảm, nhập siêu vẫn rất lớn, thâm hụt thương mại cao, trong khi
một số doanh nghiệp lại thiếu vốn để sản xuất, xuất khẩu. Vì vậy, những
tháng còn lại của năm 2008, tín dụng và lãi suất của các NHTM cần được
điều chỉnh hợp lý hơn để vừa kiểm soát được tăng trưởng tín dụng, đáp ứng
vốn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao, tạo điều
kiện cho kinh tế phát triển, vừa kiểm soát được lạm phát, vừa góp phần ổn
định vi mô.
3- Ảnh hưởng đến người tiêu dùng – sinh viên.
Giá cả đắt đỏ, leo thang từng ngày trong khi đồng lương lại không tăng
thêm. Người tiêu dùng chỉ còn các lựa chọn là cắt giảm chi tiêu. Từ người

thu nhập trung bình, khá, cao đều có cách tiêu tiền phù hợp với thời lạm
phát…
Người VN nổi tiếng thế giới về mức độ lạc quan ở bất cứ hoàn cảnh nào.
Song, gần đây đã có 95% người tiêu dùng (NTD) thừa nhận lạm phát ảnh
hưởng lớn đến cuộc sống của họ, nhất là chỉ có 1/3 người lao động được
tăng lương, trong khi giá cả của các loại hàng hóa đều tăng vọt, buộc 75%
NTD phải thay đổi thói quen mua sắm theo túi tiền”. Đây là kết quả nghiên
cứu mới nhất vừa được ông Ralf Matthaes, Giám đốc Điều hành Công ty
Nghiên cứu thị trường Taylor Nelson Sofres VN, công bố tại buổi gặp gỡ
các doanh nghiệp VN do Trung tâm Nghiên cứu kinh doanh và Hỗ trợ
doanh nghiệp tổ chức ngày 25-8, tại TPHCM.
Theo nghiên cứu vừa nêu, nếu NTD ở Hà Nội vẫn trung thành với các
thương hiệu quen thuộc khi chỉ có 8% chuyển sang sử dụng các nhãn hiệu rẻ
tiền hơn thì ngược lại, 33% NTD ở Đà Nẵng và 32% NTD ở TPHCM đã
chuyển sang dùng các nhãn hiệu rẻ tiền. Những người thu nhập thấp (dưới
3,5 triệu đồng/tháng) cũng mua sắm ít hơn 17,2% so với trước. Thực phẩm
vẫn là ngành hàng được ưu tiên mua sắm với 75,5%, cao hơn cùng kỳ năm
2007 là 73,1%. Có 71% NTD cho rằng giá cả là yếu tố quan trọng nhất để
quyết định mua sắm; 63% trả lời “Tôi chỉ mua những loại thực phẩm mà tôi
đã biết giá”; 70% cho biết luôn so sánh giá cả giữa những nhãn hiệu của các
sản phẩm cùng loại và 59% nói “Không chỉ quan tâm đến giá trọn gói mà
phải biết giá trên từng ký”.
Câu chuyện:
“Cô ơi, bán cho cháu hai ngàn cơm.
Hai ngàn, giờ cô không bán đâu.
Thế thì bao nhiêu ạ?
Gạo thường bây giờ đã mười hai ngàn một ký rồi. Phải ba ngàn trở lên cô
mới bán
Vâng, cô cho cháu ba ngàn cơm, ba ngàn thịt rim.
Cháu mua năm ngàn đi. Ba ngàn, cô không biết bán thế nào. Thịt ba chỉ bây

giờ đã năm chục ngàn một ký rồi
Vâng, ba ngàn cơm, năm ngàn thịt, với hai ngàn đậu, năm trăm rau nữa cô
nhá ”
Đó là những câu "phổ thông" nhất mà các bạn sẽ được nghe từ những quán
cơm bụi có đông sinh viên. Trong cơn lạm phát phi mã này, có thể nói
những sinh viên, học sinh nông thôn lên thành phố theo học là những người
chịu khổ nhiều nhất. Đồng tiền bố mẹ cho có hạn, trong khi giá cả cứ vùn
vụt chạy từng ngày. Đĩa cơm của họ ở quán cơm bụi cứ mỗi ngày một vơi đi
trong khi tiền thì phải trả tăng lên.
Người tiêu dùng , nhất là người lao động làm công ăn lương, người nghèo,
thu nhập thấp đang đứng trước nhiều khó khăn trong "cơn bão giá"; bữa
cơm gia đình, bữa ăn của người lao động trong các doanh nghiệp vì vậy
cũng bị giảm sút chất lượng. Giải quyết bài toán khó này ngoài sự điều hành
vĩ mô của Chính phủ còn cần sự cộng đồng trách nhiệm của các cấp, ngành,
các chủ doanh nghiệp
II. Nguyên nhân lạm phát Việt nam .
Vậy đâu là những nguyên nhân lạm phát Việt Nam trong những năm gần đây. Sau
đây là những nguyên nhân cơ bản:
- Thứ nhất, do cầu kéo. “Tập quán” của nền kinh tế nước ta là đầu năm
“đủng đỉnh”, cuối năm “vắt giò lên cổ” để hoàn thành kế hoạch. Còn trong
tiêu dùng của dân thì “dốc túi” chi tiêu khi “năm hết, tết đến”. Do đó, sẽ
tạo ra áp lực tăng giá rất lớn trong những tháng cuối năm.
- Năm 2007 là năm đầu tiên nước ta gia nhập “ngôi nhà chung” WTO hứa
hẹn triển vọng phát triển sáng sủa hiếm có. Trong bối cảnh như vậy, cho
dù nền kinh tế đã đạt được tốc độ tăng trưởng kỷ lục so với cùng kỳ nhiều
năm trở lại đây, nhưng để đạt được mục tiêu tăng 8,5%, tốc độ tăng những
tháng cuối năm sẽ phải đẩy lên trên 9%. Thực tế này tất yếu dẫn đến nhu
cầu nguyên vật liệu của nền kinh tế tăng mạnh, tạo ra sức ép tăng giá.
Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế cao đồng nghĩa với thu nhập và sức mua
xã hội tăng cao. Cộng với việc tết Nguyên đán năm nay đến sớm khiến một

×