Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 115 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LÊ THỊ TRÚC QUỲNH






MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT THEO LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2010





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



LÊ THỊ TRÚC QUỲNH




MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT THEO LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm


HÀ NỘI - 2010





MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TRỤC
XUẤT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
9
1.1.
Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của hình phạt trục xuất

trong luật hình sự Việt Nam
9
1.1.1.
Khái niệm hình phạt trục xuất
9
1.1.2.
Các đặc điểm cơ bản của hình phạt trục xuất
14
1.2.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy
phạm về hình phạt trục xuất trong pháp luật hình sự Việt
Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay
23
1.2.1.
Khát quát lịch sử hình thành, phát triển của các quy phạm
về hình phạt trục xuất trong pháp luật Việt Nam từ năm
1945 đến năm 1999
24
1.2.1.1.
Từ 1945 đến 1985
24
1.2.1.2.
Từ 1985 đến 1999
26
1.2.2.
Hình phạt trục xuất từ năm 1999 đến nay
28
1.3.
Phân biệt hình phạt trục xuất với biện pháp trục xuất trong
luật hành chính; hình phạt tiền; phân biệt hình phạt trục

xuất với tƣ cách hình phạt chính và hình phạt bổ sung
30
1.3.1.
Phân biệt hình phạt trục xuất với biện pháp trục xuất trong
luật hành chính
30
3.1.2.
Phân biệt hình phạt trục xuất với hình phạt tiền theo quy
định của Bộ luật hình sự năm 1999
31
1.3.3.
Phân biệt hình phạt trục xuất với tƣ cách là hình phạt chính
và hình phạt trục xuất với tƣ cách là hình phạt bổ sung
32

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 VỀ
HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT VÀ THỰC TIỄN ÁP
34
DỤNG
2.1.
Các quy định của Bộ luật hình sự 1999 về hình phạt trục
xuất
34
2.1.1.
Quy định của Bộ luật hình sự 1999 và các văn bản hƣớng
dẫn thi hành về hình phạt trục xuất
34
2.1.2.
Căn cứ và điều kiện áp dụng
41

2.2.
Thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất trên phạm vi toàn
quốc từ sau khi Bộ luật hình sự 1999 đƣợc ban hành
46
2.2.1.
Tình trạng tội phạm ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam
46
2.2.2.
Nhận xét về hiệu quả thực tế của việc áp dụng hình phạt
trục xuất từ sau khi Bộ luật hình sự 1999 ban hành
54
2.3.
Những hạn chế của các quy định liên quan đến hình phạt
trục xuất và những nguyên nhân của hạn chế đó
63
2.3.1.
Những hạn chế của các quy định liên quan đến hình phạt
trục xuất
63
2.3.2.
Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong áp dụng
hình phạt trục xuất thời gian qua
68
2.3.2.1.
Các quy định về hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự
năm 1999 còn nhiều khiếm khuyết cần bổ sung
68
2.3.2.2.
Công tác giải thích, hƣớng dẫn áp dụng pháp luật; thanh tra,
kiểm tra hoạt động áp dụng hình phạt trục xuất của Tòa án

các cấp còn nhiều hạn chế
70
2.3.2.3.
Nguyên nhân từ chủ thể áp dụng pháp luật hình sự
71
2.3.2.4.
Một số nguyên nhân khác
74

Chương 3: MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG CƠ BẢN ĐỂ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT
77
3.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam về hình phạt trục xuất
77
3.1.1.
Yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế
thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hội
nhập
77
3.1.2.
Yêu cầu của công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc
pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
80
3.1.3.
Nhằm ngăn chặn, giảm bớt tội phạm nƣớc ngoài; góp phần
làm cho tội phạm ổn định và loại trừ tội phạm
82

3.1.4.
Xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến hình
phạt trục xuất trong thời gian qua
82
3.2.
Nội dung sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam về hình phạt trục xuất
84
3.3.
Những phƣơng hƣớng cơ bản về hoàn thiện các quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam về hình phạt trục xuất
88
3.3.1.
Các giải pháp về mặt lập pháp
88
3.3.1.1.
Đảm bảo tính toàn diện, thống nhất, đồng bộ, hiệu quả của
các quy phạm pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất
88
3.3.1.2.
Đảm bảo quán triệt đƣờng lối, chính sách hình sự đi đôi với
chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc ta
89
3.3.1.3.
Đảm bảo tính kế thừa và tiếp thu kinh nghiệm lập pháp hình
sự nƣớc ngoài
91
3.3.2.
Giải pháp về mặt thực tiễn thi hành hình phạt trục xuất
92

3.3.2.1.
Tăng cƣờng công tác giải thích, hƣớng dẫn áp dụng pháp
luật; thanh tra, kiểm tra hoạt động áp dụng hình phạt trục
xuất của Tòa án các cấp
92
3.3.2.2.
Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ hệ thống cơ quan quản lý
nhà nƣớc về thi hành án trục xuất
94
3.3.2.3.
Nâng cao năng lực, ý thức pháp luật và trách nhiệm nghề
nghiệp của cán bộ thực thi pháp luật
95
3.3.2.4.
Tăng cƣờng sự hợp tác và trao đổi kinh nghiệm lập pháp
hình sự với nƣớc ngoài
97
3.3.3.
Giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt trục
xuất
100

KẾT LUẬN
102

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
104


Danh mục các bảng


Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang


Trang
2.1
Thống kê số vụ án và số bị can là ngƣời nƣớc ngoài thực
hiện tội phạm tại Việt Nam giai đoạn 1990-1999
55
2.2
Tỷ lệ số vụ án và bị cáo Tòa án nhân dân các cấp xử sơ
thẩm từ 2000 đến 2009
56
2.3
Số ngƣời nƣớc ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam theo
từng nhóm tội phạm từ 2000 đến 2004
57
2.4
Tỷ lệ bị cáo bị áp dụng hình phạt trục xuất Trên tổng số
bị cáo bị xét xử sơ thẩm từ 2000 đến 2009
59
2.5
Số bị cáo bị áp dụng hình phạt trục xuất theo từng nhóm
tội phạm từ 2005 đến 2009
60
2.6
Số bị cáo bị áp dụng hình phạt trục xuất trên tổng số bị

cáo bị xét xử sơ thẩm từ năm 2005 đến năm 2009
61


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn mở rộng hợp tác quốc tế hiện nay, đặc biệt là đối với
Việt Nam, kể từ sau khi gia nhập Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO) và
tham gia nhiều diễn đàn quốc tế, đã mở ra nhiều cơ hội giao lƣu và hợp tác
quốc tế, đáp ứng yêu cầu của tình hình phát triển xã hội. Các cá nhân, tổ chức
nƣớc ngoài vào Việt Nam với mục đích làm ăn, du lịch và kinh doanh ngày
càng nhiều, thu hút đƣợc ngày càng nhiều vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và nguồn
lao động chất lƣợng cao. Với chính sách thông thoáng, quy định về thủ tục
nhập cảnh đơn giản và dễ dàng nên số lƣợng ngƣời nƣớc ngoài nhập cảnh
Việt nam ngày càng tăng, đa dạng về thành phần, với nhiều mục đích khác
nhau (hàng năm, có từ 4 - 5 triệu lƣợt ngƣời nƣớc ngoài nhập cảnh Việt Nam;
riêng năm 2009 có khoảng 3,5 triệu ngƣời). Hiện cả nƣớc có khoảng 75.000
ngƣời nƣớc ngoài cƣ trú, làm ăn, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Với số
lƣợng lớn ngƣời nƣớc ngoài nhƣ vậy hiện diện toàn đất nƣớc, việc nảy sinh
những hành vi vi phạm pháp luật cũng nhƣ việc kiểm soát các hành vi trái
pháp luật của ngƣời nƣớc ngoài ngày càng trở nên phức tạp và đòi hỏi các cơ
quan chức năng phải thực sự nghiêm túc và có trách nhiệm trong việc phát
hiện và xử lý tội phạm.
Đây là một vấn đề mang màu sắc ngoại giao nên cách thức xử lý tội
phạm là ngƣời nƣớc ngoài trên lãnh thổ Việt Nam cũng là vấn đề hết sức nhạy
cảm. Đòi hỏi đặt ra là trong hệ thống hình phạt trong Bộ luật hình sự nƣớc ta
phải có hình phạt đặc thù để áp dụng đối với đối tƣợng là ngƣời nƣớc ngoài.
Hình phạt trục xuất đƣợc ghi nhận với tƣ cách vừa là hình phạt chính
vừa là hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự năm 1999 là cơ sở pháp lý

quan trọng để Tòa án có thể lựa chọn và áp dụng linh hoạt đối với đối tƣợng
đặc biệt là ngƣời nƣớc ngoài phạm tội với mục đích không chỉ nhằm trừng trị
mà còn có ý nghĩa ngăn ngừa khả năng phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam.
Đồng thời thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta, đáp
ứng yêu cầu bảo vệ lợi ích và chủ quyền quốc gia, quyền và lợi ích của cơ
quan, tổ chức và công dân, cũng nhƣ ổn định, giữ vững và phát triển các quan
hệ hữu nghị, hợp tác với các nƣớc trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, do tính chất phức tạp và nhạy cảm của việc xử lý các
trƣờng hợp ngƣời nƣớc ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, Nhà nƣớc ta
chủ yếu xử lý các trƣờng hợp này thông qua con đƣờng ngoại giao theo các
điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia hoặc theo thông lệ quốc tế
nên hình phạt trục xuất đƣợc quy định trong luật hình sự vừa phải đảm bảo
tính nghiêm khắc nhƣng cũng vừa phải linh hoạt trong xử lý để bảo đảm chủ
quyền, an ninh quốc gia.
Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tƣ pháp theo
tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trong tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-
NQ/TW ngày 25/04/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020;
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải
cách tƣ pháp đến năm 2020, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam hiện hành về hình phạt trục xuất và thực tiễn áp dụng để làm
sáng tỏ về mặt khoa học và đƣa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu
quả của việc áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, mà còn
mang ý nghĩa thực tiễn và pháp lý quan trọng.
Là một hình phạt mới đƣợc áp dụng sau khi Bộ luật hình sự 1999 ra
đời, là giải pháp hữu hiệu thay thế cho các chế tài hành chính trong lĩnh vực
xuất nhập cảnh. Sau một thời gian áp dụng và thi hành, các quy định về hình
phạt trục xuất cũng đã thể hiện đƣợc một số điểm tích cực cũng nhƣ bộc lộ
những mặt thiếu sót. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tôi xin phép

đƣợc đƣa ra những kiến thức chuyên ngành về hình phạt trục xuất, những mặt
mạnh, mặt yếu của nó, thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất cũng nhƣ đề xuất
những giải pháp hoàn thiện pháp luật về hình phạt trục xuất. Đề tài của tôi có
tên gọi: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt trục xuất theo luật
hình sự Việt Nam".
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hình phạt trục xuất là một chế định mới đƣợc ghi nhận trong Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1999. Trong thực tiễn nghiên cứu pháp luật, cũng chƣa
có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề này.
Ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề tài của các tác giả Nguyễn
Sơn, Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam, Viện Nhà nƣớc và
Pháp luật, Hà Nội, 2003; tác giả Trịnh Quốc Toản, Các hình phạt bổ sung
trong luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010.
Ở cấp độ luận văn thạc sĩ thực hiện ở Viện Nhà nƣớc và pháp luật
(Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) có các đề tài của các tác giả Nguyễn Văn
Vĩnh, Hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 1996; Đặng
Đức Thạo, Hệ thống hình phạt trong luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; v.v
Về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình:
GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Chương thứ bảy - Hình phạt và biện pháp tư pháp,
Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật
hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; GS.TS. Nguyễn
Ngọc Hòa (chủ biên), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2001; Viện Nhà nƣớc và Pháp luật, Những vấn đề lý luận của
việc đổi mới pháp luật hình sự trong giai đoạn hiện nay, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 1994; Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tƣ pháp, Hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; TS. Đặng Quang
Phƣơng (Chủ nhiệm đề tài), Cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả của
các biện pháp tư pháp và các hình phạt không phải là tù và tử hình, Hà Nội,
1996; v.v

Ngoài ra, có một số bài viết, nghiên cứu của các tác giả khác, điển hình
nhƣ bài viết "Một số ý kiến về hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự năm
1999" của TS. Trịnh Tiến Việt và ThS. Nguyễn Cửu Đức Bình đăng trên tạp chí
Khoa học pháp lý số 4/2003; bài viết "Hình phạt trục xuất đối với người nước
ngoài theo pháp luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề thực tiễn", của Trịnh
Tiến Việt và Nguyễn Khắc Hải - Các báo cáo hội thảo khoa học lần thứ IX
(Hiệp hội khoa học-kỹ thuật Việt Nam tại Liên bang Nga). Mátxcơva, 2007, tr.
91-97.
Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát các công trình nghiên cứu khoa học
của các nhà nghiên cứu, chúng ta có thể thấy là các vấn đề liên quan đến trục
xuất mới chỉ đƣợc đề cập dƣới cấp độ các bài viết, các nghiên cứu tổng hợp
chứ chƣa đƣợc xem xét dƣới góc độ một công trình nghiên cứu độc lập. Trong
thực tế xét xử, các vụ án liên quan đến trục xuất ngƣời nƣớc ngoài ra khỏi
lãnh thổ Việt Nam là rất ít so với các hình phạt khác. Một phần là do tính chất
nhạy cảm của vấn đề, mặt khác do đây là một hình phạt tƣơng đối mới, chỉ đƣợc
quy định từ sau Bộ luật hình sự năm 1999, trƣớc đây chỉ đƣợc xem là một
biện pháp hành chính nên trong công tác xét xử cũng còn gặp nhiều khó khăn.
Bởi vậy, khi chọn đề tài này, tác giả nhận thấy đây là một vấn đề rất
mới mẻ và nếu thành công, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý
luận cần thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn, học viên cao
học, nghiên cứu sinh chuyên ngành tƣ pháp hình sự cũng nhƣ phục vụ cho
công tác lập pháp, công tác nghiên cứu và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp
luật hình sự liên quan đến hình phạt trục xuất.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích nghiên cứu tội phạm là
ngƣời nƣớc ngoài vi phạm pháp luật hình sự Việt Nam, những vấn đề lý luận
về hình phạt trục xuất, những vấn đề pháp lý liên quan, thực tiễn công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm nƣớc ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Đồng thời phân
tích những ƣu điểm, nhƣợc điểm của hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình

sự, phân tích nguyên nhân của những tồn tại, từ đó đề ra phƣơng án hoàn thiện
pháp luật hình sự liên quan đến vấn đề trục xuất trong luật hình sự Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở những mục đích trên, luận văn này có nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái niệm, đặc điểm, lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt
Nam quy định về hình phạt trục xuất;
- Làm rõ thực trạng tình hình tội phạm là ngƣời nƣớc ngoài trên lãnh
thổ Việt Nam;
- Nghiên cứu những quy định cụ thể về hình phạt trục xuất trong Bộ
luật hình sự hiện hành của Việt Nam; qua đó rút ra những hạn chế, tồn tại của
hình phạt này trong luật thực định Việt Nam; những phƣơng hƣớng khắc phục;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về hình phạt trục
xuất trong những năm gần đây; đồng thời phân tích làm rõ những hạn chế, tồn
tại trong việc áp dụng và những nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó;
- Đề xuất những định hƣớng và giải pháp hoàn thiện các quy định về
hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và nâng cao
hiệu quả áp dụng của hình phạt này trong thực tiễn;
4. Phƣơng pháp tiếp cận vấn đề
Nghiên cứu tình hình tội phạm liên quan đến trục xuất trong những
năm gần đây. Những số liệu nghiên cứu là căn cứ có giá trị nhất định để xác
định về tội phạm là ngƣời nƣớc ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, từ đó đề ra các
giải pháp nâng cao hiệu quả phòng chống tội phạm này cũng nhƣ các biện
pháp để hình phạt này phát huy đƣợc ý nghĩa lý luận của nó trong thực tiễn.
Trên cơ sở phƣơng pháp biện chứng duy vật, Luận văn sử dụng tổng
hợp các phƣơng pháp nhƣ: phƣơng pháp tổng hợp, so sánh; phƣơng pháp
thống kê tội phạm học; phƣơng pháp điều tra xã hội; phƣơng pháp dự báo
khoa học…để thực hiện nghiên cứu đề tài này.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Lần đầu tiên nhà làm luật nƣớc ta đã ghi nhận một quy phạm riêng
biệt đề cập đến định nghĩa pháp lý của khái niệm hình phạt trục xuất. Việc Bộ

luật hình sự năm 1999 quy định bổ sung hình phạt trục xuất và đƣa ra khái
niệm hình phạt này có ý nghĩa lý luận - thực tiễn rất quan trọng đối với sự
phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng, cũng nhƣ thực tiễn áp
dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội của Tòa án nói chung, đặc biệt trong
công tác đấu tranh phòng và chống ngƣời nƣớc ngoài phạm tội trên lãnh thổ
Việt Nam trƣớc tình hình phát triển của xã hội với xu thế hội nhập và mở cửa,
giao lƣu và hợp tác quốc tế.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ - tác giả
đã làm rõ một số vấn đề lý luận chung về hình phạt và hình phạt trục xuất;
phân biệt các hình phạt trục xuất với chế tài hành chính; phân tích những quy
định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các hình phạt trục xuất và thực tiễn áp
dụng hình phạt này tại Việt Nam thông qua việc phân tích số liệu 10 năm gần
đây trên địa bàn cả nƣớc. Trên cơ sở này, đề xuất một số phƣơng hƣớng và
những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng một số quy định tƣơng ứng về hình
phạt trục xuất ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực tiễn.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Đối với sự thành bại của bất kỳ một luận văn nào, điều quan trọng là
thể hiện đƣợc những đóng góp của luận văn đối với việc tìm hiểu bản chất
vấn đề của đề tài mà tác giả theo đuổi cũng nhƣ tính mới của nó đối với
những công trình nghiên cứu của các tác giả, các nhà nghiên cứu khác. Kết
quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phƣơng diện lý luận và
thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc
sĩ luật học về hình phạt trục xuất, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan
trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới hình phạt trục xuất trong luật hình
sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nƣớc về hình phạt,
hình phạt trục xuất để xây dựng nên khái niệm hình phạt trục xuất, đảm bảo
tính chính xác, khoa học, chỉ ra các đặc điểm cơ bản của hình phạt trục xuất,
phân biệt hình phạt trục xuất với biện pháp trục xuất theo luật hành chính;
- Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành

và phát triển của các quy phạm của hình phạt trục xuất trong pháp luật hình sự
Việt Nam từ năm 1945 đến nay;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ tình hình vi phạm pháp luật liên
quan đến ngƣời nƣớc ngoài phạm tội và tình hình áp dụng hình phạt trục xuất
của Tòa án các cấp; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn pháp luật và thực tiễn
áp dụng hình phạt trục xuất cũng nhƣ những nguyên nhân của các tồn tại, hạn
chế đó;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất các định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao
hiệu quả áp dụng hình phạt này trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc pháp
quyền và cải cách tƣ pháp hiện nay ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tƣ pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự đƣợc khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở bài, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề chung về hình phạt trục xuất trong luật hình sự
Việt Nam.
Chương 2: Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt
trục xuất và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số phƣơng hƣớng cơ bản để nâng cao hiệu quả các
quy định của pháp luật hình sự về hình phạt trục xuất.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1 . KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HÌNH
PHẠT TRỤC XUẤT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1 . Khái niệm hình phạt trục xuất
Hệ thống hình phạt theo luật hình sự Việt Nam hiện hành từ sau lần
pháp điển hóa lần thứ hai (1999) đƣợc điều chỉnh tại 15 điều của Chƣơng V
độc lập " hình phạt" trong Bộ luật hình sự năm 1999 (Từ Điều 26 đến Điều 40)
bằng các quy phạm riêng biệt chặt chẽ và chính xác với những điều kiện áp
dụng cụ thể 12 loại hình phạt (các điều 29 -40) có tính chất bắt buộc đối với
các tòa án là:
1. Cảnh cáo;
2. Cải tạo không giam giữ (từ 6 tháng đến 3 năm);
3. Tù có thời hạn;
4. Tù chung thân;
5. Tử hình;
6. Cấm đảm nhiệm những chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định;
7. Cấm cƣ trú;
8. Quản chế;
9. Tƣớc một số quyền công dân;
10. Tịch thu tài sản;
11. Phạt tiền; và
12. Trục xuất [7, tr. 696].
Trong đó, trục xuất là một loại hình phạt mới, lần đầu tiên đƣợc quy
định trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. Đây là hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn và nặng hơn hình phạt cải tạo không giam giữ. Trƣớc
khi đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, trục xuất đƣợc quy định
và áp dụng nhƣ là một biện pháp hành chính. Trục xuất là biện pháp cƣỡng

chế đƣợc quy định trong Sắc lệnh số 205-SL ngày 18/8/1948, và đến năm
2000 đƣợc quy định trong Pháp lệnh Nhập cảnh, xuất cảnh, cƣ trú của ngƣời
nƣớc ngoài tại Việt Nam ngày 28/04/2000.
Trục xuất là hình phạt buộc ngƣời nƣớc ngoài (ngƣời không có quốc
tịch Việt Nam) trong thời hạn nhất định phải rời khỏi lãnh thổ nƣớc Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, xuất phát từ tính phức tạp của việc xử
lý những trƣờng hợp chủ thể là ngƣời nƣớc ngoài, Điều 32 Bộ luật hình sự
năm 1999 không quy định những điều kiện cụ thể để áp dụng hình phạt này,
đồng thời cũng không quy định hình phạt này vào điều luật cụ thể trong Phần
các tội phạm Bộ luật hình sự [5, tr. 344]. Cũng theo Điều 32 Bộ luật hình sự
năm 1999, hình phạt trục xuất đƣợc áp dụng vừa là hình phạt chính vừa là
hình phạt bổ sung tùy vào từng trƣờng hợp cụ thể.
Nghiên cứu pháp luật nƣớc ngoài cho thấy đa số các nƣớc quy định trục
xuất với tƣ cách là một biện pháp cƣỡng chế hành chính, thậm chí có nƣớc trƣớc
đây quy định trục xuất là một hình phạt trong luật hình sự thì nay nó chỉ còn
đƣợc quy định là một biện pháp cƣỡng chế hành chính, ví dụ nhƣ Cộng hòa Liên
bang Đức (trục xuất đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự của Đức với tên gọi là
biện pháp An ninh và Cải tạo theo Đạo luật chống những ngƣời phạm tội chuyên
nghiệp nguy hiểm và về các biện pháp an ninh và cải tạo. Năm 1969, trục xuất
đã bị loại bỏ khỏi danh mục các biện pháp an ninh và cải tạo trong Bộ luật hình
sự. Hiện nay, trục xuất đƣợc quy định trong đạo luật về ngƣời nƣớc ngoài với
tính chất là một biện pháp cƣỡng chế hành chính) . Ngày nay trục xuất với tƣ
cách là hình phạt chỉ đƣợc quy định trong luật hình sự một số nƣớc và việc quy
định hình phạt này trong luật hình sự mỗi nƣớc cũng rất khác nhau.
Trong Bộ luật hình sự của Trung Quốc, trục xuất đƣợc quy định tại
Điều 35 là loại hình phạt có thể đƣợc áp dụng với tƣ cách là hình phạt độc lập
hoặc hình phạt bổ sung đối với ngƣời nƣớc ngoài phạm tội, tức là, trục xuất
đƣợc quy định vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung. Điều luật này
cũng không quy định rõ điều kiện, phạm vi, thời hạn của hình phạt này nhƣ
Việt Nam. Có thể các nhà lập pháp nƣớc ta đã nghiên cứu tham khảo và tiếp

thu kinh nghiệm này của Trung Quốc khi xây dựng chế định hình phạt trục
xuất trong Bộ luật hình sự năm 1999 của mình? [55, tr. 103].
Nghiên cứu Bộ luật hình sự của Cộng hòa dân chủ Đức năm 1968 cho
thấy hình phạt trục xuất đƣợc quy định tại Điều 59 với tƣ cách vừa là hình
phạt chính vừa là hình phạt bổ sung. Trục xuất áp dụng với ngƣời nƣớc ngoài
cƣ trú tại Cộng hòa dân chủ Đức mà phạm tội. Khoản 1 Điều 2 Luật Quốc tịch
ngày 20/2/1967 cũng quy định rõ trục xuất không áp dụng đối với những
ngƣời mang hai quốc tịch: Quốc tịch Cộng hòa dân chủ Đức và quốc tịch
nƣớc khác. Điều 5 các luật về ngƣời nƣớc ngoài cũng quy định không đƣợc
áp dụng hình phạt này với ngƣời tị nạn chính trị tại Cộng hòa dân chủ Đức.
Trong Bộ luật hình sự của Thụy Sĩ, Điều 55 quy định trục xuất chỉ với
tính chất là hình phạt bổ sung. Theo Điều luật này, hình phạt trục xuất đƣợc
quy định chỉ áp dụng với ngƣời nƣớc ngoài bị kết án tù khổ sai hoặc tù có thời
hạn từ 3 năm đến 15 năm. Nhƣ vậy, luật hình sự Thụy Sĩ cũng xác định rõ đối
tƣợng và phạm vi áp dụng hình phạt trục xuất [55, tr. 105].
Luật hình sự của Thụy Điển cũng có quy định trục xuất ngƣời bị kết
án là ngƣời nƣớc ngoài. Tuy nhiên, khác với luật hình sự nƣớc ta, trục xuất
trong luật hình sự của Thụy Điển không phải là hình phạt mà chỉ là một biện
pháp an ninh áp dụng đối với ngƣời bị kết án về một tội nghiêm trọng [17].
Ở Hoa Kỳ, hình phạt trục xuất đƣợc quy định trong Bộ luật Di trú. Theo
Điều 237 của Bộ luật này thì trục xuất đƣợc áp dụng với ngƣời không phải công
dân Hoa Kỳ đã nhập cảnh Hoa Kỳ phạm tội hình sự trong những trƣờng hợp:
- Khi ngƣời nƣớc ngoài phạm tội có tính cách suy đồi đạo đức (Moral
Turpitude) và tội đó có thể bị phạt từ 01 năm tù trở lên thì sẽ bị trục xuất;
- Nếu đƣơng sự phạm hai tội có tính cách suy đồi đạo đức thì đƣơng
sự bị trục xuất, dù tội đó là nhỏ nhặt.
Điều luật cũng quy định nếu bị cáo bị kết án về tội nghiêm trọng
(aggravated felony) thì sẽ bị trục xuất, đó là những tội: giết ngƣời, hãm hiếp,
cƣớp tài sản và bị phạt tù trên 01 năm, buôn lậu ma túy, buôn lậu vũ khí,
những tội hành hung và bị án tù trên 1 năm, những tội giả mạo chữ ký, giấy tờ

và bị phạt tù trên 01 năm, những tội gian lận và gây thiệt hại cho nạn nhân
trên 10000 USD [55, tr. 105].
Theo Điều 2 của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, Điều 3 Pháp
lệnh xuất nhập cảnh, cƣ trú của ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam này 28/4/2000
và Điều 1 Nghị định 54/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 của Chính phủ hƣớng dẫn
về việc thi hành hình phạt trục xuất thì khái niệm ngƣời nƣớc ngoài đƣợc hiểu
là "người không có quốc tịch Việt Nam". Từ khái niệm này có thể hiểu ngƣời
nƣớc ngoài là ngƣời mang quốc tịch của nƣớc khác hoặc là ngƣời không
mang quốc tịch của bất cứ nƣớc nào.
Điều 4 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: "Nhà nƣớc Việt
Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch Việt Nam, trừ trƣờng
hợp Luật này có quy định khác", khoản 4 Điều 5 của Luật này lại quy định:
"Quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nƣớc
ngoài đang định cƣ ở nƣớc ngoài đƣợc thực hiện theo quy định của pháp luật
có liên quan". Vậy nên có thể có công dân Việt Nam mang hai quốc tịch. Đối
với ngƣời Việt Nam vừa mang quốc tịch Việt Nam, vừa mang quốc tịch nƣớc
ngoài, nếu phạm tội tại Việt Nam thì về nguyên tắc các Tòa án không đƣợc áp
dụng hình phạt trục xuất đối với họ [55, tr. 106].
Mặc dù luật quy định hình phạt trục xuất đƣợc áp dụng đối với bất kỳ
hành vi phạm tội nào, tuy nhiên, trên thực tế xét xử các vụ án liên quan đến
việc trục xuất ngƣời nƣớc ngoài phạm tội, không phải ngƣời nƣớc ngoài nào
vi phạm pháp luật trên lãnh thổ Việt Nam đều bị áp dụng hình phạt trục xuất
này, mà Tòa án phải căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội và các yếu tố khác
liên quan đến quan hệ ngoại giao, lãnh sự… để áp dụng khi cần thiết.
Để đƣa ra một khái niệm đầy đủ và chính xác về nội dung, nhất quán
về mặt pháp lý, thống nhất về mặt ngôn từ, đồng thời xét đến tính phù hợp với
thực tiễn xét xử và chính sách nhân đạo của Nhà nƣớc, theo chúng tôi, khái
niệm hình phạt trục xuất phải bao gồm đƣợc các nội dung nhƣ: thứ nhất, bản
chất pháp lý của hình phạt trục xuất; thứ hai, cơ quan có thẩm quyền áp dụng,
thứ ba, đối tƣợng bị áp dụng, thứ tư, căn cứ và điều kiện áp dụng.

Do đó, trên cơ sở xem xét các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp với
việc phân tích các quy định của pháp luật có liên quan, dƣới góc độ khoa học
luật hình sự, theo chúng tôi khái niệm hình phạt trục xuất có thể đƣợc định
nghĩa nhƣ sau:
Hình phạt trục xuất là một trong các biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc nhất của Nhà nước do Bộ luật hình sự Việt Nam quy định, được Tòa án
áp dụng đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và bị buộc phải rời Việt Nam trong thời gian nhất
định. Hình phạt trục xuất được áp dụng với tư cách vừa là hình phạt chính
vừa là hình phạt bổ sung nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm nước ngoài, đặc biệt là tội phạm quốc tế, tội
phạm xuyên quốc gia; bảo vệ trật tự xã hội và độc lập, chủ quyền dân tộc.
Nhƣ vậy, từ khái niệm khoa học về hình phạt trục xuất nêu trên, theo
chúng tôi bản chất pháp lý của hình phạt này là một biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc của Nhà nước đối với các đối tượng là người nước ngoài phạm
tội và buộc họ phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong thời hạn nhất định. Hình phạt trục xuất không chỉ nhằm mục đích
trừng trị, giáo dục ngƣời phạm tội mà còn nhằm ngăn chặn các hành động có
nguy cơ ảnh hƣởng đến an ninh, chủ quyền dân tộc.
Việc Bộ luật hình sự năm 1999 quy định bổ sung hình phạt trục xuất
và đƣa ra khái niệm hình phạt này có ý nghĩa lý luận - thực tiễn rất quan trọng
đối với sự phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng, cũng nhƣ thực
tiễn áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội của Tòa án nói chung, đặc biệt
trong công tác đấu tranh phòng và chống ngƣời nƣớc ngoài phạm tội trên lãnh
thổ Việt Nam trƣớc tình hình phát triển của xã hội với xu thế hội nhập và mở
cửa, giao lƣu và hợp tác quốc tế.
1.1.2 . Các đặc điểm cơ bản của hình phạt trục xuất
Với tính chất vừa là hình phạt chính và hình phạt bổ sung trong Bộ
luật hình sự 1999, hình phạt trục xuất mang những đặc điểm chung của hình
phạt nhƣ sau:

- Là biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất so với tất cả
các biện pháp cưỡng chế về hình sự khác của Nhà nước mà việc áp dụng nó đối
với người bị kết án sẽ đưa đến hậu quả pháp lý là người đó bị coi là có án tích
Tính cƣỡng chế của hình phạt, tức là dùng quyền lực nhà nƣớc bắt
phải tuân theo, là một đặc điểm cơ bản, đặc trƣng của hình phạt; đặc điểm này
cho phép phân biệt hình phạt với các biện pháp tác động xã hội khác. Tính
cƣỡng chế của hình phạt đƣợc thể hiện với mức độ khác nhau và với những
hình thức cũng rất khác nhau tùy thuộc vào từng loại hình phạt. Mặc dù các
hình phạt (hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung) có nội dung cƣỡng chế,
thuyết phục, giáo dục, nặng, nhẹ khác nhau, nhƣng chúng đều có cùng tính
chất là một loại biện pháp cƣỡng chế trong hệ thống các biện pháp cƣỡng chế
của Nhà nƣớc. Khi đƣợc áp dụng, hình phạt gây ra những tổn hại nhất định
cho ngƣời bị kết án. Họ có thể bị tƣớc bỏ hoặc bị hạn chế những quyền và lợi
ích thiết thân nhất, nhƣ tƣớc hoặc hạn chế quyền tự do, tƣớc quyền chính trị,
tƣớc quyền lợi vật chất, thậm chí họ có thể bị tƣớc cả quyền sống của mình.
Đồng thời khi áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội, Nhà nƣớc thể hiện
thái độ phản ứng chính thức, lên án về mặt chính trị-pháp lý, đạo đức đối với
tội phạm và với ngƣời thực hiện tội phạm. Những sự tác động pháp lý nhƣ
vậy của hình phạt làm cho ngƣời bị kết án và những ngƣời khác không vững
vàng trong xã hội trong tƣơng lai có thái độ tôn trọng pháp luật hình sự.
- Chỉ có thể xuất hiện khi có sự kiện phạm tội
Tội phạm là cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế duy nhất cho phép áp dụng
hình phạt. Vì thế không cho phép áp dụng hình phạt đối với hành vi không
đƣợc luật hình sự quy định là tội phạm và cũng không đƣợc phép áp dụng
hình phạt nếu hình phạt ấy không đƣợc quy định trong phần chung và trong
chế tài của điều luật về tội phạm cụ thể ở phần các tội phạm luật hình sự.
- Phải và chỉ do một cơ quan tư pháp hình sự duy nhất có thẩm quyền
xét xử vụ án hình sự - tòa án - áp dụng và chỉ đối với người bị kết án nói
riêng trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật
Nguyên tắc pháp chế trong việc quy định hình phạt - không có luật thì

không có hình phạt (nulla poena sine lege) có tính chất tuyệt đối, đƣợc áp
dụng đối với tất cả các loại hình phạt (hình phạt chính và hình phạt bổ sung)
và không có ngoại lệ. Nói hình phạt đƣợc luật hình sự quy định có nghĩa là tất
cả các nội dung liên quan đến hình phạt đều phải do luật hình sự quy định và
việc quy định loại hình phạt áp dụng phải đầy đủ, rõ ràng, chính xác. Nguyên
tắc pháp chế và hiệu lực thi hành của hình phạt không chỉ ở khía cạnh quy
định hình phạt, mà còn thể hiện hiệu lực thi hành của hình phạt. Trong bộ
máy nhà nƣớc, chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất mới có quyền nhân danh
Nhà nƣớc quyết định một ngƣời có phải chịu hình phạt hay không và nếu phải
chịu thì loại và mức hình phạt cụ thể đƣợc áp dụng nhƣ thế nào. Nghiên cứu
cho thấy, trong các lĩnh vực khác không phải hình sự không bắt buộc Tòa án
phải giải quyết, các đƣơng sự có thể lựa chọn cách giải quyết khác, không
thông qua Tòa án.
Điều 8 của Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền năm 1948 đã kết
luận: "Mỗi ngƣời đều có quyền đƣợc thực sự bảo vệ tại các Tòa án có thẩm
quyền trong nƣớc để chống lại những hành động xâm phạm các quyền cơ bản
đã đƣợc hiến pháp hay luật pháp của các nƣớc đó thừa nhận" [27, tr. 33].
- Việc giải quyết vụ án phải thông qua các giai đoạn tố tụng hình sự
được quy định rất chặt chẽ, nghiêm ngặt
Điều này xuất phát từ hậu quả pháp lý của việc giải quyết vụ án hình
sự có ảnh hƣởng rất lớn đến ngƣời phạm tội, biểu hiện cụ thể qua việc quyết
định hình phạt nhƣ đã trình bày ở trên. Vì thế, toàn bộ quá trình tố tụng hình
sự đƣa đến việc Tòa án xét xử để định tội và áp dụng hình phạt đối với ngƣời
phạm tội đều do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nƣớc tiến hành, đó là:
Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động điều tra tội phạm; Viện kiểm sát
thực hiện công tác kiểm sát điều tra, thực hành quyền công tố của Nhà nƣớc,
thay mặt Nhà nƣớc truy tố bị can và buộc tội bị cáo trƣớc Tòa án. Còn Tòa án
thực hiện hoạt động xét xử theo trình tự luật tố tụng hình sự quy định. Việc
luật hình sự quy định hình phạt do Tòa án quyết định là đảm bảo sự thận
trọng, khách quan toàn diện và triệt để trách oan, sai và nhƣ vậy phù hợp với

Điều 8 của Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền năm 1948: "Mỗi ngƣời
đều có quyền đƣợc thực sự bảo vệ tại các Tòa án có thẩm quyền trong nƣớc
để chống lại những hành động xâm phạm các quyền cơ bản đã đƣợc hiến pháp
hay luật pháp của các nƣớc đó thừa nhận".
- Nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, tự do của người bị kết án
Họ có thể bị tƣớc bỏ hoặc bị hạn chế những quyền và lợi ích thiết thân
nhất, nhƣ tƣớc hoặc hạn chế quyền tự do, tƣớc quyền chính trị, tƣớc quyền lợi
vật chất, thậm chí họ có thể bị tƣớc cả quyền sống của mình. Đồng thời khi áp
dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội, Nhà nƣớc thể hiện thái độ phản ứng
chính thức, lên án về mặt chính trị - pháp lý, đạo đức đối với tội phạm và với
ngƣời thực hiện tội phạm. Những sự tác động pháp lý nhƣ vậy của hình phạt
làm cho ngƣời bị kết án và những ngƣời khác không vững vàng trong xã hội
trong tƣơng lai có thái độ tôn trọng pháp luật hình sự. Mức độ của cƣỡng chế
cần thiết và hợp pháp của hình phạt trƣớc hết (nhƣng không chỉ) đƣợc xác
định thông qua mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm dƣới
những điều kiện xã hội đã cho, trong đó mức độ của tính nguy hiểm chủ quan
của hành vi của ngƣời phạm tội, sự phủ định các nghĩa vụ cơ bản xã hội đƣợc
khách quan hóa. Tuy nhiên, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, nội dung giai cấp
cũng nhƣ tính chất và mức độ cƣỡng chế, trừng trị của hình phạt đƣợc Nhà
nƣớc quy định trong luật hình sự là không giống nhau. Điều đó phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý và truyền thống của mỗi
nƣớc, mỗi dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử phát triển.
- Là sự thống nhất giữa cưỡng chế và thuyết phục, giữa trừng trị và
giáo dục
Một điều hiển nhiên là ở đâu không có cƣỡng chế, trừng trị thì ở đó
không thể nói đến hình phạt, nhƣng nội dung của hình phạt thể hiện không chỉ
duy nhất ở sự cƣỡng chế, trừng trị. Cùng với cƣỡng chế, trừng trị, các hình
phạt chủ yếu là những biện pháp thuyết phục, cải tạo, giáo dục. Bằng việc áp
dụng hình phạt nói chung, hình phạt bổ sung nói riêng đối với ngƣời bị kết án,
Nhà nƣớc trừng trị và đồng thời lên án họ về việc đã thực hiện hành vi phạm

tội gây hại cho xã hội, thông qua đó thuyết phục, giáo dục để họ nhận thức
đƣợc nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với hành vi phạm tội đã thực hiện,
không làm những việc bị xã hội lên án, có ý thức tuân theo pháp luật và các
nguyên tắc của cuộc sống xã hội.
- Mang tính chất cá nhân, tức là chỉ được áp dụng đối với riêng bản
thân người bị kết án mà thôi
Dựa theo nguyên tắc trách nhiệm hình sự của cá nhân nên hình phạt
với tính chất là biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc nhằm thực hiện quan hệ pháp
luật của trách nhiệm hình sự nảy sinh giữa ngƣời có hành vi phạm tội và Nhà
nƣớc chỉ có thể áp dụng đối với ngƣời phạm tội về chính hành vi phạm tội của
mình, chứ không đƣợc phép áp dụng với tập thể, với các thành viên trong gia
đình hoặc đối với những ngƣời thân thiết khác của ngƣời phạm tội, ngay cả
trong những trƣờng hợp ngƣời phạm tội lẩn tránh hình phạt, hay nói cách
khác, hình phạt chỉ có ảnh hƣởng về mặt pháp lý trong các mối quan hệ pháp
luật của trách nhiệm hình sự.
Trục xuất, bên cạnh những đặc điểm chung của hình phạt trong hệ
thống pháp luật hình sự Việt Nam, còn mang những đặc điểm riêng biệt, tiêu
biểu nhƣ:
- Trục xuất là hình phạt mới - chỉ được quy định cụ thể trong hệ thống
hình phạt của Bộ luật hình sự năm 1999.
Trƣớc khi đƣợc quy định là một loại hình phạt trong Bộ luật hình sự
năm 1999, trục xuất đƣợc áp dụng nhƣ một chế tài hành chính. Tuy nhiên, qua
thực tiễn áp dụng biện pháp trục xuất, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập quốc tế
mạnh mẽ nhƣ hiện nay của Việt Nam, biện pháp này trở nên không đủ
nghiêm khắc và không phát huy đƣợc tính răn đe, ngăn ngừa hành vi phạm tội
cuả một số thành phần ngƣời nƣớc ngoài vào Việt Nam với mục đích gây cản
trở trật tự công cộng và xâm hại các quan hệ pháp luật đƣợc luật hình sự điều
chỉnh.
Việc quy định hình phạt trục xuất trong hệ thống hình phạt của Bộ luật
hình sự năm 1999 đã làm đa dạng hóa các biện pháp xử lý hình sự, là cơ sở

pháp lý để Tòa án có thể lựa chọn và áp dụng đối với ngƣời nƣớc ngoài phạm
tội với mục đích không chỉ trừng trị mà còn có tác dụng ngăn ngừa một cách
triệt để khả năng phạm tội mới của ngƣời nƣớc ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.
Việc quy định hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự năm 1999 nhƣ một
chế tài là biện pháp hữu hiệu trong giai đoạn đất nƣớc đang hội nhập mạnh
mẽ, khi hình phạt trục xuất áp dụng theo thủ tục hành chính không còn đủ tính
răn đe; tình trạng phạm tội của ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam ngày càng gia
tăng, dẫn theo nhiều hậu quả xấu, đặc biệt là tội phạm có tổ chức vào Việt
Nam trở thành một vấn đề nghiêm trọng. Việc thiết lập một hàng rào pháp lý
để bảo vệ những quan hệ xã hội đƣợc Nhà nƣớc điều tiết cũng nhƣ hạn chế tối
đa tình trạng ngƣời nƣớc ngoài phạm tội là một trong những vấn đề trọng tâm
của đất nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay.
- Trục xuất là buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đối tƣợng bị áp dụng hình phạt này là ngƣời nƣớc ngoài. Khi niệm
ngƣời nƣớc ngoài đã đƣợc xác định trong Luật quốc tịch Việt Nam, trong
pháp lệnh nhập cảnh, xuất cảnh, cƣ trú của ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam.
Theo đó, "ngƣời nƣớc ngoài là ngƣời không có quốc tịch Việt Nam". Từ khái
niệm này có thể hiểu ngƣời nƣớc ngoài là ngƣời mang quốc tịch của một nƣớc
khác và ngƣời không mang quốc tịch của bất cứ một nƣớc nào (ngƣời không
quốc tịch). Ở đây có một biệt lệ cần lƣu ý là, trục xuất sẽ không đƣợc áp dụng
đối với ngƣời không quốc tịch thƣờng trú tại Việt Nam. Với đối tƣợng này,
Tòa án có thể áp dụng một trong các hình phạt chính khác căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ đã thực hiện.
Đối với những viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự và những ng-
ƣời nƣớc ngoài khác đƣợc hƣởng những ƣu đãi về miễn trừ ngoại giao thì vấn
đề trách nhiệm hình sự của họ đƣợc giải quyết theo con đƣờng ngoại giao.
Khoản 3 Điều 1 Nghị định 54/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 hƣớng dẫn thi
hành hình phạt trục xuất quy định: "Việc trục xuất ngƣời nƣớc ngoài phạm tội
thuộc đối tƣợng đƣợc hƣởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc ƣu đãi và

miễn trừ về lãnh sự đƣợc giải quyết bằng con đƣờng ngoại giao".
Điều 4 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: "Nhà nƣớc Việt
Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch Việt Nam, trừ trƣờng
hợp Luật này có quy định khác", khoản 4 Điều 5 của Luật này lại quy định:
"Quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nƣớc
ngoài đang định cƣ ở nƣớc ngoài đƣợc thực hiện theo quy định của pháp luật
có liên quan". Vậy nên có thể có công dân Việt Nam mang hai quốc tịch. Đối
với ngƣời Việt Nam vừa mang quốc tịch Việt Nam, vừa mang quốc tịch nƣớc
ngoài, nếu phạm tội tại Việt Nam thì về nguyên tắc các Tòa án không đƣợc áp
dụng hình phạt trục xuất đối với họ.
Trong Bộ luật hình sự năm 1999, nhà làm luật không quy định những
tiêu chí cụ thể cho loại hình phạt này nhƣ phạm vi áp dụng, điều kiện áp
dụng, thời hạn xóa án tích…, và cũng không quy định hình phạt này trong bất
cứ một điều luật cụ thể nào tại phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, là xuất
phát từ tính chất phức tạp, nhạy cảm của việc xử lý những trƣờng hợp ngƣời
phạm tội là ngƣời nƣớc ngoài. Có những trƣờng hợp rất khó khăn trong việc

×