Tải bản đầy đủ (.ppt) (25 trang)

hoạt động dịch thuật những năm đầu thế kỉ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (669.98 KB, 25 trang )


Đại học Thái Nguyên
Đại học Thái Nguyên
Đại học sư phạm
Đại học sư phạm
Khoa THCS
Khoa THCS
Lớp CĐ Văn Địa K44
Xin kính chào thầy, cô giáo và các bạn
đến với bài thảo luận của nhóm 3

Thành viên nhóm 3:
Thành viên nhóm 3:
1. Vũ Thanh Hiên
1. Vũ Thanh Hiên
2. Lò Văn Hiệp
2. Lò Văn Hiệp
3. Hoàng Trung Hiếu
3. Hoàng Trung Hiếu
4. Nguyễn Thúy Hằng
4. Nguyễn Thúy Hằng
5. Trần Thị Hằng
5. Trần Thị Hằng
6. Đoàn Thị Hằng
6. Đoàn Thị Hằng
7. Bùi Thị Thanh Hằng
7. Bùi Thị Thanh Hằng
8. Nguyễn Thị Hiền
8. Nguyễn Thị Hiền
9. Trần Thị Hiền
9. Trần Thị Hiền


10. Nguyễn Thị Hồng
10. Nguyễn Thị Hồng

Bài tiểu luận văn học Việt Nam
Bài tiểu luận văn học Việt Nam
1900 - 1945
1900 - 1945
Giới thiệu về hoạt động dịch thuật những
Giới thiệu về hoạt động dịch thuật những
năm đầu thế kỉ XX
năm đầu thế kỉ XX

- Dịch thuật du nhập những nét mới của văn học phương
- Dịch thuật du nhập những nét mới của văn học phương
Tây,góp phần tạo nên bước chuyển biến về chất thúc đẩy quá
Tây,góp phần tạo nên bước chuyển biến về chất thúc đẩy quá
trình hiện đại hóa văn học từ phạm trù văn học trung đại sang
trình hiện đại hóa văn học từ phạm trù văn học trung đại sang
phạm trù văn học hiện đại.
phạm trù văn học hiện đại.


Dịch thuật giới thiệu cái mới nhằm tác
Dịch thuật giới thiệu cái mới nhằm tác
động tích cực đến tình hình chính trị - xã hội thông qua tiếp nhận
động tích cực đến tình hình chính trị - xã hội thông qua tiếp nhận
văn học và sáng tác văn học.
văn học và sáng tác văn học.
1. Vai trò dịch thuật những năm đầu thế kỉ XX.
1. Vai trò dịch thuật những năm đầu thế kỉ XX.

1.1. Dịch thuật đóng vai trò rất quan trọng trong nền văn học
1.1. Dịch thuật đóng vai trò rất quan trọng trong nền văn học
Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Việt Nam đầu thế kỉ XX.
- Dịch thuật phản ánh đặc điểm chung của nền văn
- Dịch thuật phản ánh đặc điểm chung của nền văn
học phương Đông trong buổi đầu tiếp xúc với văn học
học phương Đông trong buổi đầu tiếp xúc với văn học
phương Tây, trong đó nổi bật nên yếu tố ngoại sinh là nền
phương Tây, trong đó nổi bật nên yếu tố ngoại sinh là nền
văn hóa ,văn minh phương Tây.
văn hóa ,văn minh phương Tây.

- Dịch thuật tạo nên cách đọc chữ Quốc ngữ. Sự
chuyển đổi dần vai trò chủ đạo của văn tự hệ chữ viết trong
đời sống văn hóa – xã hội Việt Nam từ cuối thế kỉ XIX đã làm
nên đặc thù này.
Sự chuyển đổi vai trò của hệ thống chữ viết, bên cạnh
những thuận lợi cơ bản, đã dẫn đến nguy cơ gây nên sự đứt
gãy với văn hoá truyền thống. Do vậy chư quốc ngữ không chỉ
là phương tiện để chuyển tải những yếu tố văn hoá ngoại sinh
mà còn, là nhịp cầu nối với văn hoá truyền thống, góp phần
khơi dậy những yếu tố nội sinh làm nền tảng cho quá trình
hiện đại hóa.qua đó chữ Quốc ngữ trở thành công cụ hữu
hiệu, thành “lợi khí” trên đường hiện đại hóa văn hoá dân tộc


-Phiên dịch là cầu nối văn học Đông - Tây. Phiên dịch văn học
Pháp, văn học nước ngoài sang tiếng Việt giúp cho người Việt
đọc và hiểu được văn học phương Tây.


Khảo sát dịch thuật văn chương những năm cuối thế kỉ XIX đến 1945
- Dịch văn chương tiếng Pháp sang chữ Quốc ngữ
Trương Vĩnh Ký
Vũ Ngọc Phan
Nguyễn Đỗ Mục
Tiễu Nhiên và Mị Cơ
Châu Đảo
An na Kha Lệ Ninh
Thơ ngụ ngôn của La Fontaine.
Thơ ngụ ngôn của La Fontaine.
Truyện trẻ con của Perrault.
Truyện trẻ con của Perrault.
Sans famille (đặt tên là Vô gia Đình)

Dịch văn chương cổ Trung Quốc sang chữ Quốc ngữ
Phan Kế Bính
Phan Kế Bính
Nguyễn Đỗ Mục
Huỳnh Tịnh Của
"
"
Đại Nam nhất thống chí" (1916);
Đại Nam nhất thống chí" (1916);
"Ðại nam điển lệ toát yếu" (1915 - 1916);
"Ðại nam điển lệ toát yếu" (1915 - 1916);
"Tam quốc chí diễn nghĩa"
"Tam quốc chí diễn nghĩa"
"Tây sương kí"
"Song phượng kì duyên"

"Tái sinh duyên"
"Truyện Kiều", "Lục Vân Tiên",
"Phan Trần", "Gia huấn ca",
"Lục súc tranh công“
"Chuyện đời xưa", "Chuyện khôi hài" v.v…

Dịch văn chương cổ Việt Nam sang chữ Quốc ngữ
Dịch văn chương cổ Việt Nam sang chữ Quốc ngữ
Phan Kế Bính
Phan Kế Bính
Tôn Quang Phiệt
Tôn Quang Phiệt
Bùi Kỷ
Bùi Kỷ
"Đại Nam nhất thống chí"
"Đại Nam nhất thống chí"
(1916);
(1916);
"Ðại nam điển lệ toát yếu" (1915 - 1916);
"Ðại nam điển lệ toát yếu" (1915 - 1916);
"Việt Nam khai quốc chí truyện" (1917);
"Việt Nam khai quốc chí truyện" (1917);
"
"
Dịch Phan Bội Châu niên biểu
Dịch Phan Bội Châu niên biểu
"
"
Việt Nam nghĩa liệt sư
Việt Nam nghĩa liệt sư

"
"
Bình Ngô đại cáo
Bình Ngô đại cáo




truyện Nôm
truyện Nôm
"
"
Trê cóc
Trê cóc
"
"
,
,
"
"
Trinh thử
Trinh thử
"
"


"
"
Lục súc tranh công
Lục súc tranh công

"
"
,
,
"
"
Hoa điểu tranh năng
Hoa điểu tranh năng
"
"



Mồ côi mẹ từ 9 tháng tuổi, mồ côi cha từ khi lên 9 tuổi; Phạm Quỳnh
Mồ côi mẹ từ 9 tháng tuổi, mồ côi cha từ khi lên 9 tuổi; Phạm Quỳnh
côi cút được bà nội nuôi ăn học.
côi cút được bà nội nuôi ăn học.
Phạm Quỳnh học giỏi, có học bổng, sau khi đỗ đầu bằng Thành
Phạm Quỳnh học giỏi, có học bổng, sau khi đỗ đầu bằng Thành
chung Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chư Quốc
chung Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chư Quốc
ngữ và dùng tiếng Việt - thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp - để viết lý
ngữ và dùng tiếng Việt - thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp - để viết lý
luận, nghiên cứu. Ông có tên hiệu là Thượng Chi, bút danh: Hoa
luận, nghiên cứu. Ông có tên hiệu là Thượng Chi, bút danh: Hoa
Đường, Hồng Nhân.
Đường, Hồng Nhân.
2. Một số tác giả dịch thuật.
2. Một số tác giả dịch thuật.
2.1. Phạm Quỳnh

2.1. Phạm Quỳnh
2.1.1. Sơ lược về tiểu sử.
2.1.1. Sơ lược về tiểu sử.
Phạm Quỳnh sinh tại nhà riêng số 1
Phạm Quỳnh sinh tại nhà riêng số 1
phố Hàng Trống, Hà Nội; quê quán ở
phố Hàng Trống, Hà Nội; quê quán ở
làng Lương Ngọc (nay thuộc xã Thúc
làng Lương Ngọc (nay thuộc xã Thúc
Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương)
Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương)

Bao gồm các tác phẩm luận thuyết, phương pháp luận, sách cách
Bao gồm các tác phẩm luận thuyết, phương pháp luận, sách cách
ngôn, kịch bản và thơ văn
ngôn, kịch bản và thơ văn
2.1.2. Công trình dịch thuật.
2.1.2. Công trình dịch thuật.
Ông dịch các đoạn văn và tác phẩm từ tiếng Pháp, chủ yếu thiên
Ông dịch các đoạn văn và tác phẩm từ tiếng Pháp, chủ yếu thiên
về triết học, như triết học của Descartes. Tuy nhiên, ông cũng có
về triết học, như triết học của Descartes. Tuy nhiên, ông cũng có
dịch một số tác phẩm nghệ thuật như kịch của Corneille.
dịch một số tác phẩm nghệ thuật như kịch của Corneille.

Ông Nguyễn Văn Vĩnh Ông sinh ngày 15/6/1882 tại số nhà 46 phố
Ông Nguyễn Văn Vĩnh Ông sinh ngày 15/6/1882 tại số nhà 46 phố
Hàng Giấy. Bố mẹ ông là nông dân nghèo, ở làng Phượng Vũ, phủ
Hàng Giấy. Bố mẹ ông là nông dân nghèo, ở làng Phượng Vũ, phủ
Thường Tín (bây giờ là Hà Nội), vùng đồng chiêm quanh năm

Thường Tín (bây giờ là Hà Nội), vùng đồng chiêm quanh năm
nước ngập, đói, nên phải bỏ quê ra thành phố kiếm ăn, ở nhờ nhà
nước ngập, đói, nên phải bỏ quê ra thành phố kiếm ăn, ở nhờ nhà
bà nghè Đại Gia (tức ông nghè Phạm Huy Hổ) phố Hàng Giấy.
bà nghè Đại Gia (tức ông nghè Phạm Huy Hổ) phố Hàng Giấy.
2.2.
2.2.
Dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh.
Dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh.
Sơ qua về cuộc đời ông Nguyễn Văn Vĩnh
Sơ qua về cuộc đời ông Nguyễn Văn Vĩnh

Những công trình dịch thuật của ông Nguyễn Văn Vĩnh
Những công trình dịch thuật của ông Nguyễn Văn Vĩnh
Dịch từ Pháp văn sang Việt văn
Dịch từ Pháp văn sang Việt văn
Thơ ngụ ngôn của La Fontaine.
Thơ ngụ ngôn của La Fontaine.
Truyện trẻ con của Perrault.
Truyện trẻ con của Perrault.
Truyện Gil Blas de Santillane của Lesage (4 quyển).
Truyện Gil Blas de Santillane của Lesage (4 quyển).
Mai nương Lệ cốt (Manon Lescaut) của Abbé Prévost (5 quyển).
Mai nương Lệ cốt (Manon Lescaut) của Abbé Prévost (5 quyển).
Ba người ngự lâm pháo thủ của A.Dumas (24 quyển).
Ba người ngự lâm pháo thủ của A.Dumas (24 quyển).
Những kẻ khốn nạn của Victor Hugo.
Những kẻ khốn nạn của Victor Hugo.
Miếng da lừa của Balzac.
Miếng da lừa của Balzac.

Ngoài ra còn những bài dịch về Luân lý học và Triết học yêu lược đăng tải
Ngoài ra còn những bài dịch về Luân lý học và Triết học yêu lược đăng tải
nhiều kỳ trên Đông Dương tạp chí.
nhiều kỳ trên Đông Dương tạp chí.

Dịch từ tiếng Việt sang tiếng Pháp
Dịch từ tiếng Việt sang tiếng Pháp
Dịch từ chữ Hán sang tiếng Pháp
Dịch từ chữ Hán sang tiếng Pháp
Kim Vân Kiều tân điển Pháp văn
Kim Vân Kiều tân điển Pháp văn
của thi hào Nguyễn Du
của thi hào Nguyễn Du
Tiền Xích Bích
Tiền Xích Bích
(đăng trong
(đăng trong
Đông Dương tạp chí
Đông Dương tạp chí
)
)
Hậu Xích Bích
Hậu Xích Bích
(đăng trong
(đăng trong
Đông Dương tạp chí
Đông Dương tạp chí
).
).


Phan Kế Bính (1875 – 1921), hiệu là Bưu Văn, bút hiệu Liên Hồ Tử, là một
Phan Kế Bính (1875 – 1921), hiệu là Bưu Văn, bút hiệu Liên Hồ Tử, là một
nhà báo, nhà văn nổi tiếng của Việt Nam đầu thế kỷ 20. Phan Kế Bính quê
nhà báo, nhà văn nổi tiếng của Việt Nam đầu thế kỷ 20. Phan Kế Bính quê
ở làng Thụy Khê, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phố Thụy
ở làng Thụy Khê, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phố Thụy
Khuê, quận (Tây Hồ, Hà Nội). Năm Bính Ngọ (1906), Phan Kế Bính dự thi
Khuê, quận (Tây Hồ, Hà Nội). Năm Bính Ngọ (1906), Phan Kế Bính dự thi
Nho học và đỗ Cử nhân, nhưng không ra làm quan, mà ở nhà dạy học.
Nho học và đỗ Cử nhân, nhưng không ra làm quan, mà ở nhà dạy học.
Trong thời gian này, ông công khai hưởng ứng phong trào Duy Tân,
Trong thời gian này, ông công khai hưởng ứng phong trào Duy Tân,
nhưng không trực tiếp chỉ đạo. Từ 1907, ông bắt đầu viết báo cho nhiều
nhưng không trực tiếp chỉ đạo. Từ 1907, ông bắt đầu viết báo cho nhiều
tờ báo trong nước, trong vai trò là một trợ bút, chủ yếu là dịch thuật, biên
tờ báo trong nước, trong vai trò là một trợ bút, chủ yếu là dịch thuật, biên
khảo sách chữ Hán
khảo sách chữ Hán
2.3. Phan Kế Bính
2.3. Phan Kế Bính
2.3.1. Tiểu sử
2.3.1. Tiểu sử

"
"
Đại Nam nhất thống chí" (1916);
Đại Nam nhất thống chí" (1916);
"Ðại nam điển lệ toát yếu" (1915 - 1916);
"Ðại nam điển lệ toát yếu" (1915 - 1916);
"Việt Nam khai quốc chí truyện" (1917);

"Việt Nam khai quốc chí truyện" (1917);
"Đại Nam liệt truyện tiền biên" (1918);
"Đại Nam liệt truyện tiền biên" (1918);
"Ðại Nam liệt truyện chỉnh biên" (1919);
"Ðại Nam liệt truyện chỉnh biên" (1919);
Đặc biệt là bộ "Tam quốc chí diễn nghĩa" dịch chung với Nguyễn Văn
Đặc biệt là bộ "Tam quốc chí diễn nghĩa" dịch chung với Nguyễn Văn
Vĩnh
Vĩnh
2.3.2. Công trình dịch thuật:
2.3.2. Công trình dịch thuật:

Phan Bội Châu niên biểu
Phan Bội Châu niên biểu
(do ông và Phạm Trọng Điền dịch khi ở
(do ông và Phạm Trọng Điền dịch khi ở
Việt Bắc, in lần đầu năm 1955 và tái bản năm 1957)
Việt Bắc, in lần đầu năm 1955 và tái bản năm 1957)
Việt Nam nghĩa liệt sư
Việt Nam nghĩa liệt sư
(tác phẩm của Phan Bội Châu, in năm 1959).
(tác phẩm của Phan Bội Châu, in năm 1959).
2.4. Tôn Quang Phiệt
2.4. Tôn Quang Phiệt
2.
2.
4.1 Tiểu sử
4.1 Tiểu sử
Ông sinh năm (1900 – 1973) trong một gia
Ông sinh năm (1900 – 1973) trong một gia

đình nhà Nho tại xã Võ Liệt, huyện Thanh
đình nhà Nho tại xã Võ Liệt, huyện Thanh
Chương, tỉnh Nghệ An. Thuở nhỏ ông học ở
Chương, tỉnh Nghệ An. Thuở nhỏ ông học ở
Vinh, rồi học bậc Thành chung tại trường Quốc
Vinh, rồi học bậc Thành chung tại trường Quốc
học Vinh, cùng với những người bạn đồng môn
học Vinh, cùng với những người bạn đồng môn
như Đặng Thai Mai, Nguyễn Sĩ Sách, Phạm
như Đặng Thai Mai, Nguyễn Sĩ Sách, Phạm
Thiều
Thiều
2.
2.
4.2. Công trình Dịch thuật
4.2. Công trình Dịch thuật

Năm 1900, ông làm trợ bút cho tờ
Năm 1900, ông làm trợ bút cho tờ
Nông Cổ Mín Đàm
Nông Cổ Mín Đàm
(cho đến năm
(cho đến năm
1910) và dịch tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc.
1910) và dịch tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc.
Năm 1908, hưởng ứng phong trào Duy Tân do Phan Chu Trinh khởi
Năm 1908, hưởng ứng phong trào Duy Tân do Phan Chu Trinh khởi
xướng, ông cùng với những người chung chí hướng đứng ra thành
xướng, ông cùng với những người chung chí hướng đứng ra thành
lập khách sạn Chiêu Nam Lầu ở Chợ Cũ Sài Gòn. Đây là cơ sở vừa

lập khách sạn Chiêu Nam Lầu ở Chợ Cũ Sài Gòn. Đây là cơ sở vừa
làm kinh tài cho phong trào, vừa làm trụ sở kín dùng để hội họp và để
làm kinh tài cho phong trào, vừa làm trụ sở kín dùng để hội họp và để
đưa rước các thanh niên ra nước ngoài học tập.Nguyễn An Khương
đưa rước các thanh niên ra nước ngoài học tập.Nguyễn An Khương
(1860-1931) hay Nguyễn An Khang, là dịch giả và là chí sĩ ở đầu thế
(1860-1931) hay Nguyễn An Khang, là dịch giả và là chí sĩ ở đầu thế
kỷ 20 trong lịch sử Việt Nam. Ông là thân phụ của nhà cách mạng
kỷ 20 trong lịch sử Việt Nam. Ông là thân phụ của nhà cách mạng
Nguyễn An Ninh.
Nguyễn An Ninh.
2.5. Nguyễn An Khương
2.5. Nguyễn An Khương
5.1 Sơ lược tiểu sử
5.1 Sơ lược tiểu sử
Nguyễn An Khương, nguyên quán ở tỉnh Bình Định, sau vào cư ngụ ở
Nguyễn An Khương, nguyên quán ở tỉnh Bình Định, sau vào cư ngụ ở
Mỹ Hòa, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí
Mỹ Hòa, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí
Minh).
Minh).
Ông tinh thông Hán học, giỏi chữ Quốc ngữ và có tinh thần yêu nước.
Ông tinh thông Hán học, giỏi chữ Quốc ngữ và có tinh thần yêu nước.
Thàng 3 năm 1870, Đông Kinh nghĩa thục mở ở phố Hàng Đào (Hà Nội)
Thàng 3 năm 1870, Đông Kinh nghĩa thục mở ở phố Hàng Đào (Hà Nội)
với mục đích là khai trí cho dân, Nguyễn An Khương nhiệt liệt cổ vũ.
với mục đích là khai trí cho dân, Nguyễn An Khương nhiệt liệt cổ vũ.

Các tác phẩm dịch thuật của ông gồm:
Các tác phẩm dịch thuật của ông gồm:

Tam quốc diễn nghĩa
Tam quốc diễn nghĩa
Thủy hử
Thủy hử
Vạn huê lầu diễn nghĩa
Vạn huê lầu diễn nghĩa
Phấn Trang Lầu
Phấn Trang Lầu
Chinh Đông
Chinh Đông
Chinh Tây
Chinh Tây
2.5.2. Tác phẩm dịch thuật
2.5.2. Tác phẩm dịch thuật

Bùi Kỷ sinh ngày 5 tháng 1 năm 1888, quê ở làng Châu Cầu, phủ Lý
Bùi Kỷ sinh ngày 5 tháng 1 năm 1888, quê ở làng Châu Cầu, phủ Lý
Nhân (nay thuộc thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam), trong một gia đình khoa
Nhân (nay thuộc thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam), trong một gia đình khoa
bảng Nho học. Tổ tiên họ Bùi gốc ở xã Triều Đông, huyện Thượng
bảng Nho học. Tổ tiên họ Bùi gốc ở xã Triều Đông, huyện Thượng
Phúc, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay thuộc huyện Thường Tín,
Phúc, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay thuộc huyện Thường Tín,
Hà Nội). Khoảng cuối triều Lê, một nhánh họ Bùi chuyển đến ở Châu
Hà Nội). Khoảng cuối triều Lê, một nhánh họ Bùi chuyển đến ở Châu
Cầu lập nghiệp.
Cầu lập nghiệp.
Bùi Kỉ t
Bùi Kỉ t
ên chữ là Ưu Thiên, hiệu là Tử Chương, là nhà

ên chữ là Ưu Thiên, hiệu là Tử Chương, là nhà
giáo, nhà Nho học và nhà nghiên cứu văn hóa có ảnh hưởng trong
giáo, nhà Nho học và nhà nghiên cứu văn hóa có ảnh hưởng trong
những năm đầy biến động của lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ
những năm đầy biến động của lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ
XX
XX
. Từ nhỏ Bùi Kỷ, giống như nhiều trí thức khác của giai đoạn này,
. Từ nhỏ Bùi Kỷ, giống như nhiều trí thức khác của giai đoạn này,
tiếp nhận một nền giáo dục pha trộn giữa Nho học và tiếng Pháp, chữ
tiếp nhận một nền giáo dục pha trộn giữa Nho học và tiếng Pháp, chữ
Quốc ngữ. Con ông là cựu đại sứ Bùi
Quốc ngữ. Con ông là cựu đại sứ Bùi
2.6.
2.6.
Bùi Kỷ
Bùi Kỷ
2.
2.
6.1. Sơ lược tiểu sử
6.1. Sơ lược tiểu sử

Bùi Kỷ còn có sự đóng góp quyết định trong việc khảo cứu di sản thơ
Bùi Kỷ còn có sự đóng góp quyết định trong việc khảo cứu di sản thơ
chữ Hán của thi hào Nguyễn Du, trong việc xác định giá trị
chữ Hán của thi hào Nguyễn Du, trong việc xác định giá trị
Truyền kỳ
Truyền kỳ
mạn lục
mạn lục

của Nguyễn Dữ… Các bản dịch tác phẩm chữ Hán của tác giả
của Nguyễn Dữ… Các bản dịch tác phẩm chữ Hán của tác giả
Việt Nam do ông thực hiện, nổi bật là
Việt Nam do ông thực hiện, nổi bật là
Bình Ngô đại cáo
Bình Ngô đại cáo
của Nguyễn
của Nguyễn
Trãi, bản dịch từng có vị trí đáng kể trong đời sống văn học. Bùi Kỷ còn
Trãi, bản dịch từng có vị trí đáng kể trong đời sống văn học. Bùi Kỷ còn
thử nghiệm việc dịch một số tác phẩm chữ Nôm cổ điển sang chữ Hán
thử nghiệm việc dịch một số tác phẩm chữ Nôm cổ điển sang chữ Hán
như thơ Bà Huyện Thanh Quan hay
như thơ Bà Huyện Thanh Quan hay
Truyện Kiều
Truyện Kiều
.
.
2.6.2.
2.6.2.
Công trình dịch thuật
Công trình dịch thuật
Bùi Kỷ là học giả có nhiều đóng góp vào việc hiệu khảo văn
Bùi Kỷ là học giả có nhiều đóng góp vào việc hiệu khảo văn
bản một loạt truyện thơ Nôm các thế kỷ trước, góp phần giữ
bản một loạt truyện thơ Nôm các thế kỷ trước, góp phần giữ
gìn và truyền lại cho đời sau. Văn bản
gìn và truyền lại cho đời sau. Văn bản
Truyện Kiều
Truyện Kiều

do Bùi Kỷ
do Bùi Kỷ
và Trần Trọng Kim hiệu khảo, in lần đầu 1925.
và Trần Trọng Kim hiệu khảo, in lần đầu 1925.
Từ những năm 1930 đến những năm 1950, Bùi Kỷ tiến hành
Từ những năm 1930 đến những năm 1950, Bùi Kỷ tiến hành
hiệu khảo một loạt truyện Nôm khuyết danh:
hiệu khảo một loạt truyện Nôm khuyết danh:
Trê cóc
Trê cóc
,
,
Trinh
Trinh
thử
thử
,
,
Lục súc tranh công
Lục súc tranh công
,
,
Hoa điểu tranh năng
Hoa điểu tranh năng



7. Nguyễn Đỗ Mục
7.1. Sơ lược tiểu sử
Nguyễn Đỗ Mục (1882-1951), tự Trọng Hữu (ký bút hiệu là Hì Đình

Nguyễn Văn Tôi khi viết bài cho mục Hài đàm), là nhà văn và là dịch
giả Việt Nam, sinh trưởng trong một gia đình Nho học truyền thống.
Quê gốc của ông ở làng Thư Trai, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây
(sau đổi là huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây; nay là huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội)

Các tác phẩm dịch thuật
"Tây sương kí Song phượng kì duyên"
"Song phượng kì duyên" (1923) và "Tục tái sinh duyên "("chuyện nàng
Mạnh Lệ Quân").
"Thuyền tình bể ái" (1926).
"Bình sơn lãnh yến" (1927).
"Hồng nhan đa truân" (1928).
"Hiệp nghĩa anh hùng"
"Thuỷ Hử diễn nghĩa" (1933).
"Đông Chu liệt quốc" (trước đăng trong Đông Dương tạp chí, sau Tân
Việt thư xã xuất bản 1933).
"Nhi nữ tạo anh hùng" (1935)

Trần Tuấn Khải
Sơ lược tiểu sử
Trần Tuấn Khải (4 tháng 11 năm 1895 – 7 tháng 3 năm 1983) là một
nhà thơ Việt Nam, nổi danh từ thời tiền chiến. Các bút danh của ông
là: Á Nam (thường dùng), Đông Minh, Đông Á Thị, Tiểu Hoa Nhân,
Lâm Tuyền Khách, Giang Hồ Khách, Lôi Hoàng Cư Sĩ. Trần Tuấn
Khải người làng Quan Xán, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Xuất
thân là nhà nho nghèo, có truyền thống yêu nước

Công trình dịch thuật
"Thủy hử“ (1925)

"Hồng lâu mộng" (1934)
"Đông Chu liệt quốc" (1934)

×