Kinh tế Liên Bang Nga những năm đầu thế kỉ XXI.
Thực trạng Quan hệ Thơng mại Việt Nga
2.1. Kinh tế Liên Bang Nga những năm đầu thế kỉ XXI
2.1.1. Kinh tế Liên Bang Nga trớc năm 1990
2.1.1.1. Cách mạng tháng Mời thành công 1917, nhà nớc công - nông
đầu tiên trên thế giới ra đời gọi là Liên bang Cộng Hoà XHCN Xô Viết (Liên
Xô). Nớc Nga lúc đó là một thành viên của Liên Xô và đóng vai trò chính để
tạo dựng Liên bang Xô Viết trở thành siêu cờng.
- Tốc độ tăng trởng kinh tế cao. Tốc độ sản xuất công nghiệp tăng trung
bình từ 1950 - 1970 là 10%, sản xuất công nghiệp tăng bình quân là 4%. Khối
lợng công nghiệp tăng đáng kể: 1913 nớc Nga TBCN sản xuất 4% sản lợng
công nghiệp thế giới, đến 1970 Liên Xô sản xuất 20% sản lợng công nghiệp thế
giới.
Nhiều ngành công nghiệp vào loại bậc nhất nhì thế giới và trở thành c-
ờng quốc kinh tế hùng mạnh. Năm 1975 sản xuất thép 145.000.000 tấn. Sản
xuất dầu 520.000.000 tấn, khai thác quặng sắt 293.000.000 tấn. Sản xuất điện
1038 tỷ Kwh, bông 7.000.000 tấn. Nhiều công trình đồ sộ ra đời (với nhiều
công sức và tiền của). Nhà máy thuỷ điện có công suất lớn nhất thế giới:
Bratxcơ 45 Mkw trên sông Anggara, Kratxnoiac trên sông Ênitxây 6 Mkw. Đ-
ờng sắt xuyên Xibia (BAM - công trờng thế kỷ), ống dẫn dầu Hữu Nghị chuyển
dầu từ Liên Xô sang các nớc Đông Âu với giá bao cấp. Đờng tải điện Hoà Bình
cung cấp sang các nớc Đông Âu.
- Cơ cấu kinh tế: Chú ý phát triển công nghiệp đặc biệt là công nghiệp
nặng chiếm 3/4 tổng sản lợng công nghiệp phần còn lại là công nghiệp nhẹ,
dịch vụ, nông nghiệp chiếm tỷ lệ thấp.
- Tổ chức sản xuất: Hình thành các tổ hợp sản xuất liên ngành, các liên
hợp sản xuất Công - Nông nghiệp, các liên hợp khoa học sản xuất quy mô
lớn nhng không đồng bộ. Phân bố lực lợng sản xuất cơ bản, trớc tập trung ở
vùng đồng bằng Đông Âu, nay đã có sự chuyển lớn theo 3 hớng: Về phía Đông,
xuống phía Nam, lên phía Bắc, nhiều thành phố công nghiệp khoa học đã mọc
lên từ đây, kinh tế trở nên phồn vinh hơn.
Đời sống ngời dân đợc đảm bảo, cuộc sống rất thanh bình hàng hoá rẻ
với giá bao cấp của nhà nớc. Sở hữu vật chất: chỉ có hai hình thức toàn dân và
tập thể. Lao động: tuần lễ làm việc 5 ngày - nghỉ thứ 7, chủ nhật. Liên Xô có
đội ngũ cán bộ khoa học, trờng đai học, viện nghiên cứu vào loại tầm cỡ thế
giới nhng thiên về khoa học cơ bản. Vì tất cả những điều này có thể nói Liên
Xô đã trải qua thời kỳ hoàng kim, là chỗ dựa cho nhiều dân tộc nhiều quốc gia.
2.1.1.2. Một thời chao đảo, một cuộc thử nghiệm đầy chông gai, Liên
bang Xô Viết tan dã và sự ra đời cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG)
Sau 60 năm đạt nhiều thành tựu rực rỡ, nền kinh tế Liên Xô ở thập kỷ 70
càng bộc lộ nhiều điểm yếu do cơ chế kinh tế cũ tạo ra, nền kinh tế mất cân đối
nghiêm trọng trên nhiều lĩnh vực, nợ nớc ngoài và lạm phát tăng nhanh dẫn đến
chất lợng cuộc sống nhân dân ngày càng giảm sút. Thập kỷ 80, Liên Xô đã đề
ra chiến lợc phát triển kinh tế theo chiều sâu, chú trọng đến vị trí của khoa học
- kỹ thuật, mở rộng quan hệ đối ngoạivà cố gắng cải tổ cơ chế kinh tế lỗi thời
để tạo động lực phát triển kinh tế mới và thập kỷ 80 đầy thử thách đã trôi qua
với kết quả không mấy phấn khởi.
- Về thực trạng kinh tế xã hội. Tốc độ phát triển kinh tế chậm dần,
sản xuất trì trệ GDP giảm 4,5% năng suất lao động xã hội giảm 3%, thu nhập
quốc dân giảm 4%. Khủng hoảng kinh tế, chính trị bao trùm toàn bộ nền kinh
tế, lạm phát ở mức kỷ lục (19%), thiếu máy móc, giá cả leo thang (trớc 1990
giá 1 lít xăng: 0,5 rúp, cuối năm 1991: 20 rúp/ lít).
Vấn đề nợ nớc ngoài trở nên rất gay gắt (60 tỷ USD), Liên Xô trở thành
con nợ lớn trên thế giới mà cha tìm đợc nguồn vốn vay, ngân hàng không có
tiền.
- Nông nghiệp: Từ 1975 - 1976 sản lợng ngũ cốc nhiều năm đạt
230.000.000 tấn/năm, nhng những năm cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 phải
nhập lơng thực. Hoa quả chín không ngời thu hoạch (khoai tây thu hoạch 18%
tổng diện tích trồng, rau quả 50%, củ cải đờng 52%), sản lợng thịt, sữa năm
1990 giảm 10 - 11% và càng giảm nhiều so với những năm trớc.
- Hoạt động ngoại thơng. thâm hụt hơn 5 tỷ USD, do giảm xuất dầu,
tăng nhập ngũ cốc, hàng tiêu dùng.
- Dân số và việc làm: Toàn Liên Bang có 135.700.000 lao động làm
việc trong các ngành kinh tế quốc dân. Năm 1990 - 1991 có 1.000.000 ngời
thất nghiệp, đến đầu 1992 lên 2.500.000 ngời do sa thải công nhân, giảm
biên chế trong các tổ chức nhà nớc do không phù hợp với nhu cầu nền kinh
tế thị trờng. Trên thị trờng hàng hoá khan hiếm, mức sống ngời dân giảm sút
nhanh chóng đồng rúp mất giá, tệ nạn xã hội tăng mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc
lên cao đỉnh điểm dẫn tới cuộc chiến đẫm máu hàng trăm ngòi chết, hàng
triệu ngời bị thơng, nhiều làng mạc thành phố trở nên điêu tàn (Kadăcxtan,
Grudia, Karabac )
Năm 1991, cuộc khủng hoảng kinh tế chính trị chuyên quyền ở Liên Xô
lên tới đỉnh điểm, sự tan dã liên tiếp các thiết chế nhà nớc Liên Bang cũ mà thể
hiện ở cuộc chính biến ngày 19 8 - 1991 đã kết thúc sự tồn tại của Liên bang
Xô Viết. Cuối năm 1991 một quốc gia lớn nhất đã từng là siêu cờng trong trật
tự thế giới cũ biến mất khỏi bản đồ thế giới. Tại phần lục địa này xuất hiện một
thực thể mới: Cộng đồng các quốc gia độc lập SNG ký ngày 21- 12- 1991 tại
Anma Ata, những ngời lãnh đạo các quốc gia này đã ký 6 văn kiện của hiệp
định thành lập cộng đồng, còn 3 nớc vùng cận Bantích: Látvia, Litvia và
Ettônia đã tách thành những quốc gia riêng từ năm 1990. Còn Grudia không
tham gia.
Mỗi nớc là một quốc gia độc lập, tự mình điều khiển hớng đi, tốc độ phát
triển, thực hiện cải cách. Các nớc xây dựng quan hệ kinh tế với nhau trên
nguyên tắc độc lập, bình đẳng cùng có lợi.
2.1.2. Kinh tế Liên bang Nga trong những năm 1990
Bức tranh kinh tế của Nga những năm thập kỷ 90 thật ảm đạm. Các nét
đặc trng của bức tranh này là tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội trầm
trọng kéo dài với những đặc điểm sau:
- Nền kinh tế tăng trởng âm
Bảng 2.1: Mức tăng trởng GDP qua các năm (%)
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
-13,0 -19,0 -12,1 -12,3 -4,1 -3,5 0,8 -4,8 3,2 10,2
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, 2001
Liên tục trong một thập kỷ, mức tăng trởng kinh tế của Nga luôn ở mức
âm. Năm 1997 kinh tế của Liên bang Nga mới bắt đầu có mức tăng trởng dơng
0,8% thì đến tháng 8/1998 lại lâm vào khủng hoảng, một cuộc khủng hoảng
sâu sắc khiến nớc Nga gặp phải những khó khăn. Năm 1996 tiềm lực kinh tế
của Liên bang Nga chỉ bằng 40% so với tháng 12/1991.
Nếu tính chung giai đoạn 1986 - 1996 thì tỷ trọng kinh tế của Liên bang
Nga giảm gần một nửa, từ mức chiếm 2,7% GDP toàn thế giới xuống còn 1,8%.
Phải đến năm 1999 và năm 2000, nớc Nga mới bắt đầu có mức tăng trởng dơng
(năm 1997 cũng có tăng trởng dơng).
- Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp: 7%; Công nghiệp: 38%; Dịch vụ: 55%
(1995). Tốc độ tăng trởng sản xuất công nghiệp liên tục giảm sút qua các năm.
Sản xuất công nghiệp của Nga suy giảm nặng nề. Trên thực tế, những ngành
công nghệ độc lập của Nga ngày càng mất dần uy tín, Nga trở thành đất nớc
cung cấp nguyên vật liệu cho phơng Tây. Trong giai đoạn 1991- 1995, tỷ lệ sản
xuất công nghiệp so với GDP giảm từ 48% xuống còn 39%. Sản xuất trong giai
đoạn này suy giảm đặc biệt là các ngành công nghiệp nhẹ giảm 84%, chế biến
giảm 44% và chế tạo máy dân dụng giảm 57%. Đáng chú ý là các ngành chế
tạo máy và luyện kim tốc độ suy giảm mạnh, rõ rệt. Năm 1998, sản xuất công
nghiệp giảm 5%.
Về nông nghiệp, là một đất nớc có quỹ nông nghiệp lớn song tình hình
kinh tế khó khăn cũng khiến nền nông nghiệp suy giảm trầm quan trọng. Thậm
chí, nớc Nga phải rơi vào cảnh thiếu lơng thực và cần tới viện trợ lơng thực của
Mỹ và EU.
Về kim ngạch ngoại thơng, kinh tế suy giảm kéo theo sự sụt giảm trong
kim ngạch ngoại thơng. Lấy ví dụ trong năm 1995 kim ngạch xuất khẩu đạt
81,1 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu 69%. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt
105,6 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu đạt 49,5 tỷ USD.
- Lạm phát ở mức cao
Vào cuối thời Liên Xô cũ, trong hoàn cảnh kinh tế khủng hoảng, Ngân
hàng Trung ơng đã không thể kiểm soát đợc quá trình lu thông tiền tệ, tiền phát
hành tràn lan không có cơ sở kinh tế khiến đồng Rúp liên tục mất giá, tốc độ
bội chi tiền mặt tăng nhanh, quan hệ tiền hàng mất cân đối nghiêm trọng đã có
những tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống. Lợng tiền lu thông liên tục
tăng qua các năm. Tốc độ lạm phát liên tục tăng , thậm chí có lúc lên tới 3 con
số. Nớc Nga thực sự đã rơi vào tình trạng siêu lạm phát. Có những thời điểm
lạm phát tăng theo từng tháng. Năm 1991, lạm phát là 138,1%. Tháng 12/1991,
chỉ số giá cả là 282,6 thì sang tháng 1/1992 đã là 941,0; tức là tăng 230% chỉ
trong 1 tháng.
- Ngân sách thâm hụt
Sau khi Liên Xô cũ sụp đổ, ngân sách nhà nớc vẫn tiếp tục thâm hụt do
các doanh nghiệp nhà nớc vẫn đợc cấp những khoản tín dụng u đãi một cách ồ
ạt. Nguồn thu chủ yếu của ngân sách là thuế từ các doanh nghiệp không đợc cải
thiện.
- Nợ trong và ngoài nớc tăng mạnh
Tính đến ngày 1/1/1999, tổng nợ nớc ngoài là 140,8 tỷ USD. Nếu tính cả
các khoản nợ trong nớc đợc quy theo ngoại tệ thì tổng nợ Chính phủ lên tới
158,8 tỷ USD, dịch vụ nợ đến hạn phải trả là 9 tỷ USD.
Với các chủ nợ nớc ngoài, Liên bang Nga luôn khó khăn trong quá trình
đàm phán nợ, Chính phủ Nga liên tiếp thất bại với các nhà tín dụng thơng mại
nớc ngoài, đẩy các ngân hàng Nga vào một tình thế khó khăn hơn trớc, một số
ngân hàng Nga bị phong toả tài sản tại nớc ngoài.
- Mức lơng trung bình của cán bộ công nhân là 65 USD/tháng trong khi
con số này ở Estonia, một nớc tách khỏi Liên Bang từ năm 1991 ở tận 300
USD.
- Trừ một số thành phố lớn, còn nói chung, các cơ sở hạ tầng (bệnh
viện, đờng sắt, trờng học ) đều xuống cấp nghiêm trọng.
- Đời sống xã hội ngày càng khó khăn do mất mát quá nhiều về vật chất
và tinh thần, mâu thuẫn chính trị xã hội sâu sắc cộng thêm nạn tham nhũng do
lạm phát quá cao, sản xuất ngng trệ và khủng bố vẫn cha chấm dứt. Vị trí vai
trò của nớc Nga trên trờng quốc tế giảm sút.
2.1.3. Kinh tế Liên bang Nga từ sau năm 2000
Là thời kỳ sau khi tổng thống V. Putin lên nắm quyền. Nhìn nhận một
cách khách quan, kể từ khi Tổng thống Putin lên nắm quyền đến nay, nền kinh
tế Nga cũng đã có một số dấu hiệu tích cực đáng khích lệ. Đặc biệt là năm
2000 đã đánh dấu nét khởi sắc mới trong nền kinh tế Nga.
2.1.3.1. Tổng quan
- Tăng trởng kinh tế nhanh, những tiến bộ của nền kinh tế Nga trong 8
năm qua thực sự gây ấn tợng: GDP đã tăng khoảng 70%, công nghiệp tăng tr-
ởng 75%, đầu t tăng 125%, giành lại vị thế của Nga là một trong 10 nền kinh tế
hàng đầu của thế giới.Tốc độ tăng trởng cao của GDP, đầu t cơ bản, các chỉ tiêu
kinh tế đối ngoại và mức sống của dân c đợc cải thiện là những thành tựu đáng
đợc ghi nhận. Nếu mức tăng trởng kinh tế trong năm 1999 đạt 3,2% thì năm
2000, mức tăng GDP đạt tốc độ cao là 7,6%, cho đến năm 2001 đạt 5,0%, năm
2003 đạt 7,3%; trong hai năm 2004 và 2005 đạt 7,5%, đến năm 2006 mức tăng
GDP là 6,7% có giảm chút ít. Trung bình tám năm cầm quyền của tổng thống
Putin mức độ tăng GDP là 7%.
Bảng 2.2: Tăng trởng kinh tế những năm gần đây (%)
2001 2003 2004 2005 2006 2007
5,0 7,3 7,5 7,5 6,7 8,1
Nguồn: PGS. TS Ông Thị Đan Thanh, Địa lý kinh tế xã hội thế giới, Nhà xuất bản
ĐHSP Hà Nội, 2007
Biểu đồ tăng trởng kinh tế
Biểu đồ 2.1: Tăng trởng kinh tế những năm gần đây (%)
- Thu nhập thực tế của ngời lao động mỗi năm tăng 10 - 20%. Trong 8
năm thu nhập thực tế đã tăng gấp đôi trong khi đói nghèo giảm 50%. Tỷ lệ dân
c sống ở mức đói nghèo giảm từ 30% năm 2000 xuống 14% năm 2008.
Tiền lơng trung bình tăng từ 90 USD năm 2000 và lên tới 500 USD năm
2008. Lơng hu trung bình cũng tăng năm 2000 là 33 USD đến năm 2008 là 140
USD, điều quan trọng là tiền lơng và lơng hu tăng nhanh hơn lạm phát.
- Sản lợng các ngành tăng: Các con số thống kê về nền kinh tế năm
2000 là những con số rất đáng khích lệ:
Sản lợng công nghiệp tăng 10%. Cuộc khủng hoảng tài chính 1998 ở
Nga đã thúc đẩy ngành công nghiệp phát triển. Theo thống kê Liên Bang, tăng
trởng công nghiệp đạt 11,9% (2000) song giảm xuống ở hai năm tiếp theo.
Tăng trởng công nghiệp đạt những đỉnh cao mới từ năm 2003 và đạt 6,3% năm
2007. Khai thác dầu đạt trên 500 triệu tấn (2007), năng xuất: 9,3 triệu
thùng/ngày đa Liên bang Nga trở thành nớc có sản lợng dầu và năng xuất đứng
đầu thế giới vợt qua Arâpxêut. Luyện kim đen, chế tạo máy (đặc biệt trong các
ngành đòi hỏi hàm lợng khoa học), sản xuất giấy tăng đáng kể. Đầu t cơ bản
tăng gần 20%. Sản lợng nông nghiệp tăng 3 - 4%.
Về Cơ cấu kinh tế: nông nghiệp: 5.2%; công nghiệp: 34.1%; dịch vụ:
60.7%(2005).
Biểu đồ cơ cấu kinh tế
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu kinh tế của Nga (%).
- Lu thông hàng hoá bán lẻ tăng 8,9%. Xuất nhập khẩu tăng 11%, trong
đó riêng xuất khẩu hàng hoá tăng gần 40%.
Đồng Rúp ổn định, tỷ giá trong năm 2000 đợc giữ ổn định ở mức 28
Rúp/USD cho đến nay (2008).
- Mức độ lạm phát giảm dần. Dự trữ ngoại tệ tăng, mặc dù phải dành
khoản đáng kể để trả nợ nớc ngoài đến hạn và trớc hạn, từ chỗ là con nợ
khổng lồ Nga đã khiến giới tài chính thế giới phải ngạc nhiên khi trả 23,5 tỷ
USD cho các chủ nợ câu lạc bộ Pari. Đến tháng 6/2006 Nga đã thanh toán xong
các khoản nợ nớc ngoài (160 tỉ USD là món nợ của Liên Xô cũ và 10 năm thập
kỉ 90).
- Nga có tổng dự trữ ngoại tệ đứng thứ ba thế giới sau Trung Quốc, Nhật
Bản. Năm 2007 dự trữ vàng và ngoại tệ của Nga đạt 480 tỷ USD mức cao kỷ
lục từ trớc đến thời điểm này.
Bảng 2.3: Tổng dự trữ ngoại tệ của Liên bang Nga (tỷ USD)
1998 12,22
1999 12,45
2000 22,97
2001 36,62
2002 32,2
2003 84
2004 125
2005 188
2007 480
Nguồn: PGS. TS Ông Thị Đan Thanh, Địa lý kinh tế xã hội thế giới, Nhà xuất bản
ĐHSP Hà Nội, 2007
Biểu đồ Tổng dự trữ ngoại tệ của Liên bang Nga (tỷ USD)
Biểu đồ 2.3: Tổng dự trữ ngoại tệ của Liên bang Nga.
- Tổng kim ngạch ngoại thơng ngày càng tăng (USD): năm 1998 xuất
88.2 tỉ, nhập 70 tỉ; năm 2000 xuất 106 tỉ, nhập 49 tỉ; năm 2004 xuất 178.2 tỉ,
nhập 93 tỉ ; Năm 2005 xuất 245 tỉ, nhập 125 tỉ USD; Năm 2006 xuất 317.6 tỉ,
nhập 171.5 tỉ . Trong quan hệ buôn bán với các nớc, Liên bang Nga luôn ở vị thế
xuất siêu.
Mỹ và các nớc phơng Tây đã công nhận Nga là nớc có nền kinh tế thị trờng
từ năm 2002, điều đó rất thuận lợi cho Liên bang Nga trong hội nhập kinh tế quốc
tế và với t cách đầy đủ nằm trong nhóm G8.
Vị trí, vai trò của Liên bang Nga trong nền kinh tế và chính trị thế giới
ngày càng tăng qua việc giải quyết các vấn đề quốc tế.
Đời sống nhân dân từng bớc đợc nâng lên, GDP bình quân đầu ngời tăng
nhanh nh ở bảng sau:
Bảng 2.4: GDP bình quân theo đầu ngời qua các năm (Đơn vị: USD)
1998 1.442
1999 1.323
2000 1.783
2001 2.140
2002 2.240
2003 3.022
2004 3.904
2005 5.280
2007 8.400
Nguồn: PGS . TS Ông Thị Đan Thanh, Địa lý kinh tế xã hội thế giới, Nhà xuất bản
ĐHSP Hà Nội, 2007