Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Làng và văn hóa làng của người Việt ở Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.84 KB, 11 trang )

Văn hóa nông thôn
Đề tài: Làng và văn hóa làng của người Việt ở Việt Nam.
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay khi mà đất nước đang trên đà phát triển
ngày một hiện đại và giàu đẹp hơn. Không nằm ngoài sự phát triển đó ở các vùng
nôn thôn, các làng quê đã có nhiều sự thay đổi để bắt kịp sự phát triển của đất nước,
bằng chứng là ở các vùng nông thôn ngày nay các khu công nghiệp, các khu chế
xuất mọc lên ngày càng nhiều và quy mô thì ngày càng lớn hơn.
Từ những khu công nghiệp, khu chế xuất đó mà đời sống nhân dân ngày
càng được nâng cao hơn: nhà nào cũng có tivi, đài, xe máy.v.v… Các quán hàng thì
mọc lên ngày một nhiều cùng với các loại hình dịch vụ giải trí: karaoke,
internet.v.v…
Nhưng đó cũng chính là vấn nạn cần quan tâm vì nó ảnh hưởng rất lớn đến
đời sống văn hóa của nhân dân. Và quan trọng hơn nó sẽ phá vỡ nét văn hóa “làng”
độc đáo khi mà ngày nay mọi người giành thời gian cho những hoạt động của làng
xã ngày càng ít.
Để không cho một nét văn hóa độc đáo có từ hàng ngàn năm bị phai nhạt và
lãng quên. Để cho mọi người thấy được những nét độc đáo mà không đâu trên thế
giới ngày nay có và gìn giữ được thì việc nghiên cứu và tìm tòi những nét đẹp độc
đáo của văn hóa làng lại cần thiết đến vậy. chính vì lý do này mà em chọn đây là đề
tài nghiên cứu cho bài tiểu luận này.
Đề tài này tuy không phải là một đề tài mới và đã được rất nhiều nhà khoa
học lớn tìm tòi và nghiên cứu. Nhưng đây là một vấn đề rất rộng lớn mà ở đây em
chỉ chọn một khía cạnh nhỏ để mà tìm hiểu thêm về văn hóa làng.
2. Bố cục của bài viết
Bài viết gồm 3 phần:
1
Văn hóa nông thôn
Phần 1- mở đầu: lý do chọn đề tài và đặt vấn đề cho bài viết
Phần 2- nội dung: giải quyết vấn đề


Phần 3- kết bài: kết thúc vấn đề.
II. NỘI DUNG
Làng Việt, trong quá khứ và hiện tại, luôn là một cộng đồng về lãnh thổ,
kinh tế, văn hóa và là những tế bào sống trong cơ cấu xã hội Việt Nam, nơi lưu giữ
và biểu hiện sinh động bản sắc văn hóa Việt Nam.
1. Làng và văn hoá làng
1.1. Khái niệm
Khái niệm Làng gắn với hình ảnh làng xã cổ truyền ở Việt Nam với 3 đặc
trưng cơ bản: ý thức cộng đồng làng (ý thức dân chủ làng xã, cộng đồng trong sản
xuất bảo vệ xóm làng, xây dựng văn hoá, lối sống, đạo đức.v.v...); ý thức tự quản (thể
hiện rõ nhất trong việc xây dựng hương ước); và tính đặc thù độc đáo, rất riêng của
mỗi làng (có khi hai làng gần nhau nhưng không hề giống nhau).
Nền văn hoá Việt Nam được tạo dựng trên cơ sở của nền văn minh nông
nghiệp. Cuộc sống của người Việt Nam gắn bó với làng xã, quê hương. Tập tục
làng, truyền thống và văn hoá làng là chất keo đặc thù gắn kết mọi thế hệ thành viên
của làng.
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu sử học vẫn chưa xác định rõ làng xuất hiện
từ khi nào. Nhưng làng và văn hoá làng được xem là phát triển rực rỡ nhất vào thế
kỷ XVI-XVIII. Ngoài ra, làng và văn hoá làng chỉ có ở Việt Nam, ở nhiều nước
làng cũng như tổ chức làng hầu như không có.
1.2. Nét đặc chưng
Làng không chỉ là sản phẩm của một nền tổ chức chính trị nhà nước mà nó
còn là sản phẩm văn hoá mang bản sắc người Việt. Văn hoá làng được thể hiện
thông qua các biểu trưng văn hoá mang giá trị truyền thống: cây đa, bến sông, con
đê, mái đình, giếng nước đến các bản gia phả, hương ước, hội hè đình đám, những
2
Văn hóa nông thôn
làn điệu dân ca, dân vũ. Đó còn là phong tục tập quán, cách ứng xử, tâm lý, tín
ngưỡng tôn giáo, phương thức hoạt động, nghề đặc trưng.v.v…Có thể xem văn hoá
làng chính là những khuôn thước ứng xử nằm sâu trong mỗi con người, những nhân

tố tạo nên tính cộng đồng. Và những ứng xử giữa con người với con người, con
người với thiên nhiên, giữa các cộng đồng với nhau được tổng kết qua kinh nghiệm
sống đã trở thành văn hoá. Văn hóa làng như một dòng nước ngầm không thể nhìn
thấy nhưng lại có sức mạnh chi phối, điều khiển mỗi người trong cộng đồng làng.
Các nhà nghiên cứu văn hoá cũng như sử học Việt Nam đều khẳng định 80%
văn hoá vật thể là ở làng. Đó chính là “cây đa, bến nước, sân đình”, là ngôi chùa
hay những ngôi nhà cổ. Và cũng 80% văn hóa phi vật thể ra đời từ văn hoá làng. Đó
là những phong tục tập quán, lễ hội, tín ngưỡng.v.v…Nói sâu hơn thì văn hoá làng
chính là cái gốc của văn hoá dân tộc. Tổng thể nền văn hóa dân tộc đều mang bản
sắc văn hoá vùng, miền. Mà cái tạo nên văn hoá vùng miền chính là văn hoá làng,
đơn vị tổ chức nhỏ nhất. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc có nền văn
hóa riêng biệt. Vì vậy nền văn hóa Việt Nam cũng đa dạng và vô cùng phong phú.
1.3. Nét đặc thù
Với đơn vị là làng, văn hóa đã hiện ra như là những khuôn thước ứng xử
nằm ở tầng sâu trong đời sống cộng đồng; như là hệ thống các giá trị đặc thù qui
định và ngầm điều khiển các quan hệ cộng đồng; như là sự tổng hợp của những
kinh nghiệm sống hình thành qua lịch sử của các cộng đồng. Mỗi con người Việt
Nam, nếu có được cái may mắn là sinh ra và lớn lên ở làng, thì dù đi đâu, về đâu; dù
làm nghề nay hay nghề kia; dù mang quốc tịch này hay quốc tịch khác cũng đều khó
có thể thoát ly khỏi tâm thức làng, lề thói làng, giá trị làng, cái đã ăn sâu vào văn
hóa cá nhân.
"Phép vua thua lệ làng" thành ngữ gắn liền với quá trình phát triển của làng
Việt. Thông qua thành ngữ này, văn hóa làng luôn biểu đạt cái đặc trưng riêng, cái
có ý nghĩa riêng, cái mang lại sức mạnh của làng. Lịch sử cho thấy, tất cả những gì
là ngoại nhập hay ngoại sinh, nếu muốn có chỗ đứng thực sự ở làng thì phải tìm
cách "chung sống" với văn hóa làng.
3
Văn hóa nông thôn
Chính từ thực tiễn lịch sử của dân tộc Việt mà chúng ta nhận ra văn hóa làng.
Xác định sự tồn tại hiện thực của văn hóa làng là sự phát triển phù hợp với sự tiến

triển của các ngành tri thức về văn hóa. Có lẽ chỉ khi đặt trong tương quan với các
dạng thức văn hóa vùng và các loại văn hóa cộng đồng khác, mới thấy rõ hơn tính
đặc thù và ý nghĩa của văn hóa làng.
2. Đình làng
Đình làng - một mảnh hồn quê, một nét đẹp của xóm làng Việt Nam, từ lâu
đã in váo tâm khảm của mỗi con người và tỏa sáng trong những áng thơ văn. "Hôm
qua tát nước đầu đình. Để quên chiếc áo trên cành hoa sen". Đã từ rất lâu rồi, khi
nói đến văn hoá làng - nét văn hoá của nông thôn Việt Nam, chúng ta liên tưởng
ngay tới những hình ảnh rất đặc trưng, làm nên biểu tượng của làng quê. Đó là
những hình ảnh của "cây đa, bến nước, sân đình, bụi tre, vườn cây, ao cá...". Từ bao
đời nay, đình làng là hình ảnh thân quen, gắn bó với tâm hồn của mọi người dân
Việt, là nơi chứng kiến những sinh hoạt, lề thói và mọi đổi thay trong đời sống xã
hội của làng quê Việt Nam qua bao thế kỷ. Đình làng trang trọng và thiêng liêng, nó
gần như là đại diện, là biểu tượng của quyền lực làng xã. Nhưng đình làng lại là nơi
tụ họp mọi người trong mọi sinh hoạt cộng đồng. Đình làng trở thành một nơi thân
quen gần gũi, là nơi ở, là cuộc sống của những người nông dân Việt Nam
2.1. Nét đặc chưng
Đình làng xưa - nét đặc trưng tiêu biểu nhất của làng quê Việt Nam:Từ xưa
đến nay, người dân Việt Nam vẫn thường gọi chung đình chùa, nhưng trên thực tế
đình và chùa không cùng một ý thức văn hóa. Chùa là nơi thờ Phật, ít nhiều có ảnh
hưởng văn hóa Phật giáo đến từ Ấn Độ, Trung Hoa. Còn đình là của cộng đồng làng
xã Việt Nam. Đình là biểu hiện sinh hoạt của người Việt Nam, nơi "cân bằng" phép
tắc của cuộc sống cộng đồng, nơi khai diễn những nét tài năng, tư duy của dân làng,
nhất là về tín ngưỡng, nơi để thờ thần Thành Hoàng làng, người có công với dân,
cứu nước, giữ nước hoặc giúp dân nghề nghiệp sinh sống. Nhìn quanh đình làng, ta
sẽ thấy lòng tri ân, trọng nghĩa, trọng tài, ''uống nước nhớ nguồn'' của người Việt
4
Văn hóa nông thôn
Nam. Tuy đình là của dân làng nhưng thần không hẳn là người của làng. Hơn nữa
người Việt Nam thừa hưởng nhiều tín ngưỡng cổ sơ, nguyên thủy nên thờ và tôn

kính rất nhiều vị thần như: thần núi, thần biển, thần nước.v.v… ở tất cả những tín
ngưỡng ấy, các thế hệ dân Việt Nam tiếp nối nhau tạo thành một nền vǎn hoá đình,
một nền vǎn hóa hỗn hợp, đa dạng, có mặt nhiều thành phần tôn giáo khiến cho
đình trở thành một tập thể siêu thần, thành một sức mạnh vô hình, tạo một niềm tin,
một niềm hy vọng, một sức mạnh vô hình của làng cộng đồng xã Việt Nam. Ở nước
ta vào đầu thời Trần, vua Trần Thái Tông xuống chiếu: "... nơi nào có đình trạm thì
phải tô tượng Phật để thờ trong đình đó" (đình trạm là những kiến trúc được dựng
lên ở các cung độ đường làm nơi cho nhà Vua đi tuần thú hoặc khách bộ hành nghỉ
ngơi). Là bởi thời đó Phật giáo đang chiếm ưu thế. Sang thời Lê, kinh tế hàng hóa
phát triển, những đình trạm cũng được sử dụng làm chợ, nên gọi là đình chợ (như
đình chợ Đông Ba - Huế, Xuân Giang - Nghệ Tĩnh).Từ thế kỷ XVI đến XIX có
những lúc không có chiến tranh, người dân có điều kiện phát triển kinh tế nên đình
được phát triển hơn. Những nơi không có chiến tranh như miền Hải Dương, Bắc
Ninh, Sơn Tây đình phát triển mạnh (đình Chu Quyền, đình Đình Bảng, đình Tây
Đằng). Dần dần những ngôi đình làng phát triển ở miền núi, vùng người Tày, người
Nùng (đình Hồng Thái, Tân Trào). Trải qua thời gian, đình làng dần dần thiên di
vào miền Trung, nhất là Bắc Trung Bộ: đình Hoàng Sơn, Chu Cân ở Nghệ An.
Nhưng càng vào Nam càng ít và đến Nam Bộ, ngôi đình chỉ còn là ngôi đền.
Đình tồn tại trên công thổ, công điền của làng. Người từ 18 tuổi trở lên được
nhận ruộng công về làm và nộp hoa lợi cho đình hoạt động. Mỗi khi ra đình phân
biệt mâm ăn và chiếu ngồi, chia phần "một miếng giữa làng hơn một sàng só bếp",
"một miếng lộc thánh bằng một gánh lộc trần"... Như vậy, đình làng diễn ra sự phân
chia đẳng cấp rất chặt chẽ, trọng tuổi hơn trọng chức sắc, là nơi quyết định về kinh
tế, chính trị và tâm tư tình cảm của người dân. Hàng năm đình có lễ hội thường
được tổ chức vào ngày sinh hoặc ngày mất của vị thần được thờ. Lễ hội gắn với
truyền thống lịch sử (sự tích thần đánh giặc, lập làng, dạy nghề), gắn với lễ nghi
nông nghiệp (lễ rước nước). Tế thần là hoạt động lễ, hội tế để biểu thị lòng biết ơn
5

×