Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tăng nguồn vốn cho doanh nghiệp Việt Nam, tiếp cận từ lý luận tích lũy tư bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.3 KB, 18 trang )

Lời nói đầu
Nghiên cứu môn kinh tế chính trị học nó giúp cho ta khả năng tư duy, giúp cho
ta nhận biết được bản chất của các xã hội, của các thời kỳ và các quá trình phát triển
kinh tế. Ngoài ra nghiên cứu môn kinh tế chính trị học nó giúp cho chúng ta kết hợp
được hài hoà giữa các yếu tố lợi ích kinh tế và giải quyết tốt được những vấn đề xã
hội.
Trong những nước phát triển, bộ môn kinh tế chính trị học rất được coi trọng
và được áp dụng, phổ biến một cách rộng rãi. Để từ đó tuỳ thuộc vào mỗi nước,
mỗi quốc gia sẽ đề ra cho mình một sách lược và những chiến lược khác nhau để
phát triển Còn ở Việt Nam do mới giành được độc lập, mới chuyển từ nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường .Vì vậy, nền kinh tế hoạt động còn
kém hiệu quả và không thực sự năng động. Chính vì lý do đó mà em đã tìm hiểu, đi sâu
và chọn đề tài nghiên cứu là “Tăng nguồn vốn cho doanh nghiệp Việt Nam, tiếp
cận từ lý luận tích lũy tư bản ". Nội dung của đề tài này nhằm giới thiệu bản chất tư
bản là gì, thực chất và động cơ tích luỹ của tư bản, những nhân tố ảnh hưởng đến quy
mô tích luỹ tư bản, quy luật và xu hướng lịch sử của tích luỹ tư bản là gì, vận dụng
những yếu tố đó trong nền kinh tế nước ta như thế nào, và nó đã đạt được thành tựu gì
trong 10 năm đổi mới đất nước. Đề tài được giới thiệu trong những chương sau đây:
Chương I : Thực chất của tích luỹ tư bản và nhưng nhân tố quyết định quy mô
của nó.
Chương II : Sự cần thiết khách quan , các giải pháp và vận dụng vào việc tăng
nguồn vốn cho doanh nghiệp Việt Nam
1
1
CHƯƠNG I
Thực chất của tích luỹ tư bản và nhân tố quyết định quy mô của nó
I. Thực chất và động cơ của tích luỹ tư bản.
1.Trước hết ta phải hiểu khái niệm tư bản là gì?
Tư bản là giá trị mà có bản năng tự tăng lên mà người chủ của nó không phải
tham gia lao động.
Như vậy, thực chất tích luỹ tư bản là tư bản hoá giá trị thặngdư.Xét một cách


cụ thể tích luỹ tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng. Sở dĩ
giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành tư bản được là vì giá trị thặng dư đã mang
sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới.
Có thể minh hoạ tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa bằng ví dụ
sau:Năm thứ nhất : 80c + 20v + 20m.Giả định 20m không bị nhà tư bản tiêu dùng
tất cả cho cá nhân, mà được phân thành 10m1 + 10m2(trong đó 10m2 giành cho
tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản, còn 10m1 dùng để tích luỹ).Phần giá trị thặng dư
10m1 dùng để tích luỹ được phân thành 8c1 +2v1. Khi đó quy mô sản xuất của năm
sau sẽ là 88c + 22v +22m(nếu m vẫn như cũ). Như vậy vào năm thứ hai, quy mô tư
bản bất biến và tư bản khả biến tăng đều lên tương ứng.
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự lớn lên không ngừng của giá trị.
Để thực hiện mục đích đó, các nhà tư bản không ngừng tích luỹ và tái sản xuất mở
rộng, xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột của người công nhân.
Mặt khác, do cạnh tranh, các nhà tư bản buộc phải không ngừng làm cho tư
bản của mình tăng lên, bằng cách tăng nhanh tư bản tích luỹ. Thật ra, trong buổi đầu
của sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự ham muốn làm giầu của nhà tư bản thường chi
phối tuyệt đối, nhưng đến một trình độ phát triển nhất định, sự tiêu dùng xa phí của
các nhà tư bản ngày càng tăng lên theo sự tích luỹ tư bản.
2. Những nhân tố quyết định quy mô tích luỹ tư bản.
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của tích luỹ phụ
thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành quỹ tiêu dùng của
nhà tư bản.
Nếu tỉ lệ phân chia đó đã có sẵn, thì rõ ràng đại lượng của tư bản tích luỹ sẽ do
2
2
đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư quyết định. Do đó những nhân tố quyết định
quy mô của tích luỹ chính là những nhân tố quyết định quy mô của khối lượng giá
trị thặng dư. Những nhân tố đó là:
Một là, mức độ bóc lột sức lao động
Nâng cao mức độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công. Khi

nghiên cứu sự sản xuất ra giá trị thặng dư, C.Mac giả định rằng sự trao đổi giữa
công nhân và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá. Nhưng trong thực tế, công nhân bị
nhà tư sản chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, bị cắt xén một phần tiền công.
Việc cắt xén tiền công giữ vai trũ quan trọng trong quỏ trỡnh tớch luỹ tư bản.
Việc tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động rừ ràng làm tăng thêm
giá trị thặng dư, dó đó làm tăng bộ phận giá trị thặng dư được tư bản hoá tức là làm
tăng tích luỹ. ảnh hưởng này cũn thể hiện ở chỗ số lượng lao động tăng thêm mà
nhà tư bản chiếm không do tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động không
đũi hỏi phải tăng thêm tư bản một cách tương ứng (không đũi hỏi phải tăng thêm số
lượng công nhân, tăng thêm máy móc, thiết bị, mà hầu như chỉ cần tăng thêm sự
hao phí ngyên liệu).
Hai là, trình độ năng suất lao động xã hội
Sức sản xuất của lao động mà tăng lên thỡ khối lượng sản phẩm, biểu hiện một
giá trị nhất định và do đó biểu hiện một đại lượng giá trị thặng dư nhất định cũng
tăng lên.Với một tỷ suất giá trị thặngdư không thay đổi, hay thậm chí với một tỷ
suất giá trị thặng dư đang giảm xuống, thỡ khối lượng sản phẩm thặng dư vẫn tăng
lên, miễn là tỷ suất giá trị thặng dư giảm xuống chậm hơn mức tăng của sức sản
xuất của lao động. Vỡ vậy , với một tỉ lệ phân chia sản phẩm thặng dư thành thu
nhập và tư bản phụ thêm không thay đổi, sự tiêu dùng của nhà tư bản vẫn có thể
tăng lên mà không cần giảm quỹ tích luỹ. Nhưng như ta đó thấy, năng suất lao động
mà tăng lên thỡ cụng nhõn cũng trở nên rẻ đi , và do đó tỷ suất giátrị thặng dư cũng
tăng lên, ngay cả khi tiền công thực tế được nâng cao. Tiền công này không bao giờ
tăng lên theo cùng một tỷ lệ với năng suất lao động. Cũng vẫn một giá trị tư bản khả
biến ấy lại vận dụng dược nhiều sức lao động hơn, và do đó nhiều lao động hơn.
3
3
Cũng vẫn một giá trị tư bản bất biến ấy lại biểu hiện thành một lượng tư liệu sản xuất
nhiều hơn, tức là nhiều tư liệu lao động , do đó cung cấp nhiều yếu tố tạo ra sản phẩm,
cũng như nhiều yếu tố tạo ra giá trị hơn, hay nhiều yếu tố hấp thụ lao động hơn. Vỡ
vậy, khi giá trị của tư bản phụ thêm không thay đổi hay thậm chí giảm xuống, tích luỹ

cũng vẫn được đẩy nhanh. Chẳng những quy mô tái sản xuất được mở rộng về mặt vật
thể, mà sản xuất giá trị thặng dư cũng tăng lên nhanh hơn giá trị của tư bản phụ thêm
Sự phát triển sức sản xuất của lao động cũng ảnh hưởng đến số tư bản ban đầu
hay số tư bản đang nằm trong quỏ trỡnh sản xuất. Một phần của tư bản bất biến
đang hoạt động gồm những tư liệu lao động như máy móc ,vv ,là những thứ chỉ có
thể tiêu dùng hết , và do đó được tái sản xuất hay thay thế bằng những cái mới cùng
loại, sau nhữnh thời kỡ dài hơn. Nhưng mỗi năm, một phầm những tư liệu lao động
đó lại chết đi, tức là đạt tới mục đích cuối cùng của chức năng sản xuất củacủa
nó.Tái sản xuất cũng gắn liền với quỏ trỡnh phỏt triển của khoa học kĩ thuật.Khoa
học và kĩ thuật cũng ảnh hưởng đến cái phần của tư bản ban đầu đó bước vào giai
đoạn đổi mới . Dưới hỡnh thức mới của nó, tư bản chiếm không sự tiến bộ xó hội
đó diễn ra đằng sau lưng hỡnh thức cũ của nó. Trong chừng mực cạnh tranh làm cho
sự mất giá đó chở nên gay gắt, thỡ gỏnh nặng chủ yếu của nó lại trút lên đầu cụng
nhõn, vỡ nhà tư bản tỡm cỏch bự lại thiệt hại cho mỡnh bằng cách tăng cường bóc
lột họ.
Lao động đem giá trị của những tư liệu sản xuất mà nó đó tiờu dựng chuyển
vào sản phẩm. Mặt khác, giá trị và khối lượng tư liệu sản xuất do một khối lượng
lao động nhất định sử dụng, lại tăng lên tỷ lệ với năng suất lao động. Vỡ vậy, cùng
với sự tăng thêm hiệu lực, quy mô và giá trị của tư liệu sản xuất, tức là cùng với sự
tích luỹ, diễn ra cùng với sự phát triển sức sản xuất của lao động thỡ lao động cũng
bảo tồn và duy trỡ vĩnh viễn một giá trị tư bản không ngừng tăng lên dưới hỡnh
thức luôn mới. Sự tự nhiên đó của lao động thể hiện ra như là một sức tự bảo tồn
của số tư bản mà lao động nhập vào, cũng hoàn toàn giống như những sức sản xuất
xó hội của lao động lại thể hiện ra những thuộc tính của tư bản, công việc nhà tư
bản thường xuyên chiếm hữu lao động thặng dư thể hiện ra như những sức mạnh
của tư bản
4
4
Ba là,sự chênh lệch tư bản tiêu dùng và tư bản dử dụng
Tư bản tăng lên thỡ sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đó tiờu

dựng cũng tăng lên. Nói một cách khác : khối lượng giá trị và khối lượng vật thể
của những tư liệu lao động như nhà xưởng, máy móc, các thứ khí tài cũng tăng lên;
nhưng những thứ đó, trong một thời kỡ dài hay ngắn, trong những quỏ trỡnh sản
xuất thường xuyên lặp đi lặp lại, đều hoạt động với toàn bộ quy mô của chúng hay
được dùng để đạt tới một hiệu quả có ích nhất định, nhưng lại chỉ hao mũn dần dần,
và do đó chỉ mất giá trị từng phần một, nghĩa là chỉ chuyển gía trị ấy từng phần một
vào sản phẩm mà thôi. Những dự phục vụ không công đó của lao động trong quá
khứ, được lao động sống nắm lấy và làm sống lại, đang được tích luỹ lại cùng với
quy mô ngày càng tăng của tích luỹ. Như vậy là ý nghĩa ngày càng khụng ngừng
tăng lên của lao động quá khứ hiện đang tham gia vào quỏ trỡnh lao động dưới
hỡnh thức tư liệu lao độngthỡ khụng được quy cho bản thân người công nhân(tư
liệu lao động chính là lao đông quá khứ và không được trả công của người đó), mà
lại quy cho một hỡnh thỏi khỏc của lao động đó, hỡnh thỏi đó tỏch ra khỏi người
công nhân, tức là hỡnh thỏi tư bản.
Bốn là, quy mô tư bản ứng trước.
Với một mức độ bóc lột sức lao động nhất định , thỡ khối lượng giá trị thặng
dư do con số công nhân bị bóc lột cùng một lúc quyết định, mà số lượng cụng nhõn
này thỡ lại tương xứng với đại lượng của tư bản, tuy là với một tỷ lệ biến đổi. Nhà
tư bản có thể nhờ đó mà sống xa hoa hơn và đồng thời lại hy sinh được nhiều hơn.
Và cuối cùng quy mô sản xuất càng mở rộng hơn cùng với khối lượng tư bản ứng
trước,thỡ tất cả động lực thúc đẩy sản xuất lại càng tác đông mạnh mẽ hơn.
Với trình độ bóc lột không đổi thỡ khối lượng giá trị thặng dư sẽ do khối
lượng giá trị thặng dư sẽ do khối lượng công nhân bị bóc lột quyết định. Do đó, quy
mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thỡ giỏ trị thặng
dư bóc lột được và quy mô tích luỹ càng lớn.
5
5
II.Quy luật chung của tích luỹ tư bản và xu hướng lịch sử của tích Tích
luỹ tư bản.
1.Cấu tạo hữu cơ của tư bản.

Quy mô của tư bản mà tăng lên thì cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng có sự biến
đổi. C.Mac phân biệt cấu tạo kĩ thuật, cấu tạo giá trị và cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Về mặt hình thái vật chất, mỗi tư bản đều gồm có tư liệu sản xuất và sức lao
động để sử dụng những tư liệu sản xuất đó. Tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và
số lượng sức lao động sử dụng những tư liệu sản xuất đó trong quá trình sản xuất
gọi là cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Để tính cấu tạo kĩ thuật của tư bản, người ta
thường dùng chỉ tiêu như số năng lượng, hoặc số lượng máy móc do một công nhân
sử dụng trong sản xuất, ví dụ: 100 kw đIện / 1 công nhân, 20 máy dệt / 1 công nhân.
Về mặt giá trị, mỗi tư bản đều chia làm hai phần: tư bản bất biến ( c ) và tư bản
khả biến ( v). Tỷ lệ giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến cần thiết để tiến hành sản
xuất gọi là cấu tạo giá trị tư bản. Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản có quan
hệ chặt chẽ với nhau. Nói chung, nhữnh sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật của tư bản
sẽ dẫn đến sự thay đổi trong cấu tạo giá trị tư bản. Để biểu hiện mối quan hệ giữa cấu
tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị tư bản. C.Mac dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ tư bản.
Cấu tạo hữu cơ tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật của tư
bản quyết định, và phản ánh những biến đổi của cấu tạo hữu cơ đó.
C.Mac viết: “ Tôi gọi kết cấu giá trị của tư bản là kết cấu hữu cơ của tư bản
trong trừng mực mà kết cấu giá trị ấy được quyết định bởi kết cấu kỹ thuật của tư
bản và phản ánh những sự biến đổi của kết cấu kỹ thuật này ’’.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên là một quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư
bản. Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, cấu tạo kỹ thuật của tư bản
ngày càng tăng, do đó cấu tạo giá trị của tư bản phản ánh cấu tạo kỹ thuật của tư
bản cũng tăng nên cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng lên. Hơn nữa,việc nâng
cao cấu tạo hữu cơ của tư bản còn do yêu cầu của quy luật giá trị thặng dư và quy
luật cạnh tranh chi phối.
2.Tích tụ và tập trung tư bản .
Quy mô của tư bản cá biệt tăng lên thông qua hai con đường tập trung và tích
6
6
tụ tư bản.

Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hoá
giá trị thặng dư . Tích tụ và tập trung tư bản có mối quan hệ với nhau, nhưng không
đồng nhất với nhau. Sự khác biệt này không chỉ về chất, mà còn khác nhau về lượng.
Tập trung tư bản tuy không làm tăng quy mô tư bản xã hội, nhưng có vai trò
rất lớn trong quá trình chuyển sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa và quá
trình chuyển chủ nghĩatư bản từ giai đoạn thấp lên giai đoạn cao.
3.Xu hướng lịch sử của tích luỹ tư bản .
Trong chừng mực mà nó không phảI là sự trực tiếp biến nô lệ và nông nô
thành công nhân làm thuê, do đó không phải là một sự thay đổi hình thức giản đơn,
thì nó chỉ là sự tước đoạt những người sản xuất trực tiếp, tức là sự xoá bỏ chế độ tư
hữu dựa trên lao động của bản thân.
Chế độ tư hữu, với tư cách là cái đối lập với chế độ sở hữu công cộng,tập thể,
chỉ tồn tại ở nơi nào mà tư liệu lao động và những đIều kiện bên ngoài của lao động
thuộc về tư nhânNhững sắc thái vô cùng tận mà nó thể hiện ra khi ta mới thoạt nhìn,
chỉ phản ánh những trạng thái trung gian nằm giữa hai cực ấy mà thôi. Quá trình đó
đã biến chế độ tư hữu nhỏ dựa trên lao động cá nhân thành chế độ sở hữu tư bản
chủ nghĩa dựa trên sự bóc lột lao động làm thuê, biến sản xuất nhỏ lạc hậu, phân tán
thành sản xuất lớn tập trung. sản xuất được xã hội hoá cao hơn, lực lượng sản xuất
được phát triển mạnh hơn .
7
7
Chương II
Sự cần thiết khách quan , các giải pháp và vận dụng vào việc
tăng nguồn vốn cho doanh nghiệp Việt Nam
I.Vai trò của tích luỹ vốn ở Việt Nam.
Từ bài học của những quốc gia phát triển trên thế giới và từ thực tiễn cách
mạng Việt Nam khẳng định tích tụ và tập trung vốn có một vị trí đặc biệt quan trọng
trong sự nghiệp hiện đại hoá đất nước cũng như đối với sản xuất kinh doanh của
nền kinh tế.
Việt Nam muốn đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,

văn minh" thì cần phải tích tụ và tập trung vốn với tỷ lệ cao để tiến hành quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Văn kiện Đại hội VIII đã chỉ ra rằng đến năm 2020 Việt Nam phải hoàn thành
nhiệm vụ công nghiệp hoá, cải biến nước ta từ một nước công nghiệp lạc hậu thành
một nước công nghiệp.
Vấn đề huy động vốn cho quá trình CNH-HĐH có ý nghĩa quan trọng đối với
nền kinh tế nước ta. Trước hết là huy động nguồn vốn từ nội bộ nền kinh tế trong
nước. Đây là nguồn vốn có tính quyết định, là nhân tố nội lực. Nhờ tăng năng suất
lao động xã hội một cách liên tục mà tạo ra nguồn vốn tự có. Nguồn vốn nội bộ còn
được tạo ra từ sự liên doanh liên kết giữa các ngành, các lĩnh vực, các miền, các
vùng của nền kinh tế đất nước. Nguồn vốn còn được tạo ra thông qua sự phát triển
mạnh mẽ của các công ty cổ phần; thông qua việc huy động các khoản tiền nhàn rỗi
của dân cư, của các cơ sở kinh tế, các tổ chức đoàn thể; thông qua các khoản thuế
nộp ngân sách Nhà nước v.v
Các quốc gia trên thế giới cũng như nước ta đều phải dùng mọi biện pháp để
thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua các hình thức: liên doanh, hợp tác kinh
doanh, vay với lãi suất thấp, vốn viện trợ. Trong điều kiện nền kinh tế tích luỹ vốn
nội bộ còn thấp thì thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài là rất quan trọng. Từ
nguồn vốn bên ngoài, biến thành nguồn lực trong nước, tạo điều kiện đẩy nhanh quá
trình CNH-HĐH, tăng trưởng và phát triển. Để với việc huy động vốn đầu tư nước
8
8
ngoài cần có cơ chế thu hút ngày càng nhiều và tranh thủ cùng với công nghệ tiên
tiến. Tuy nhiên nguồn vốn nước ngoài cũng chỉ có hạn và thường kèm theo những
ràng buộc nhất định, số nước và số cá nhân có vốn đầu tư không tương đương với
số nơi có nhu cầu nhận đầu tư, từ đó làm nảy sinh cạnh tranh. Cuộc cạnh tranh này
đưa các nước kém phát triển hơn vào lợi thế bất lợi. Còn việc vay vốn thì phải tính
đến khả năng trả nợ ngoài ra còn phải đảm bảo các yếu tố khác về độc lập chủ
quyền, kinh tế, chính trị.
Vì vậy, để quá trình CNH-HĐH và sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế

cao, để nền kinh tế phát triển bền vững, tất yếu phải bảo toàn, phát triển vốn, và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
II. Thực trạng quá trình tích luỹ vốn ở Việt Nam .
+ Trước những năm đổi mới (1986).
10 năm sau khi Tổ quốc thống nhất, nhìn chung nước ta đã có những bước
phát triển đáng kể trên nhiều lĩnh vực. Tuy vậy, xét chung trong toàn bộ nền kinh tế
quốc dân việc huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn là quá thấp. Quá trình tích tụ
và tập trung vốn ở trong các thành phần kinh tế, trong các ngành chủ yếu thông
qua ngân sách nhà nước và vay ngân hàng với lãi suất thấp, nhưng trong đó chủ yếu
vẫn là nguồn vốn từ ngân sách. Trong khi đó vốn của ngân sách Nhà nước thì có
hạn, cấp không thường xuyên, vốn vay của ngân hàng cũng có hạn. Trong khi dân
cư và toàn bộ nền kinh tế lại có tình trạng tồn đọng khá lớn lượng vốn nhàn rỗi,
nhưng chưa có một cơ chế phù hợp để tích tụ và tập trung nguồn vốn này cho toàn
bộ nền kinh tế. Bởi vì, lãi suất ở thời điểm đó quá thấp, lạm phát đang ở tốc độ “phi
mã" (biểu hiện bằng 2 con số) Điều đó chứng tỏ rằng chưa có một cơ chế phù hợp
để tích tụ và tập trung có hiệu quả nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế và sự nghiệp
hiện đại hoá đất nước.
Ở giai đoạn này, do chưa nhận thức được sự cần thiết và sự tồn tại lâu dài của
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta,
vì thế sau khi nước nhà thống nhất, chúng ta đã nóng vội, muốn xoá bỏ ngay các
thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể để đưa các doanh nghiệp quốc
doanh và các hợp tác xã ở miền Bắc lên quy mô lớn, mau chóng thực hiện quốc
9
9
doanh hoá, tập thể hoá ở miền Nam mà chưa tính đến trình độ quản lý, khả năng
trang bị kỹ thuật, khả năng về vốn trong dân và nhất là hiệu quả kinh tế, nên chúng
ta đã tạo ra quá trình tập trung vốn một cách hình thức trong toàn bộ nền kinh tế.
Vào những năm 80 Đảng và Nhà nước ta đã có sự điều chỉnh bước đầu trong nhận
thức và chủ trương trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư như : “Nội dung chính của
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong 5 năm (1981 - 1985) và những năm 80 là

tập trung sự phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu
+Giai đoạn 1986 - 1990
Ở giai đoạn này, Đại hội VI của Đảng (tháng 12 năm 1986) đã khẳng định:
“Nhiệm vụ bao trùm cả mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường
đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền
đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường tiếp theo ". Ba chương trình mục tiêu đó thực chất là sự chuyển hướng
chiến lược công nghiệp hoá từ việc ưu tiên công nghiệp nặng một cách ồ ạt và hình
thức sang lấy nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm
trọng tâm. Đây là một bước chuyển cực kỳ quan trọng, hợp với điều kiện phát triển
kinh tế của đất nước. Xuất phát từ những quan điểm chủ trương đổi mới trên, Đảng
ta đã chỉ rõ phải khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
quốc doanh đóng vai trò chủ đạo, kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, hình thành cơ chế kế hoạch theo phương thức định hướng là chủ yếu, sử dụng
đúng đắn các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, tiến tới quản lý bằng phương pháp kinh tế là
chủ yếu. Như vậy, ở giai đoạn nà, Đảng và Nhà nước ta đã không chỉ đề cao nguồn
vốn từ ngân sách Nhà nước mà đã thực sự tính đến vai trò rất quan trọng của mọi
tầng lớp nhân dân trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội. Chính sách tạo vốn thời
kỳ này đã chú trọng đến nguồn vốn của hàng vạn cơ sở sản xuất, của hàng triệu gia
đình xã viên, trong các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư nhân, tư bản tư nhân
và vốn của một số công nhân viên chức, vốn của những người lao động hợp tác ở
nước ngoài về, vốn đầu tư từ bên ngoài Không những thế, việc mở rộng vầ phát
triển nguồn thu và động viên thu nhập quốc dân một cách hợp lý đã đẩy mạnh quá
trình tích tụ và tập trung vốn đầu tư từ nhiều kênh khác nhau cho toàn bộ nền kinh
tế.
10
10
Điều quan trọng là ở giai đoạn này, chúng ta đã xác định được đúng hướng
đầu tư. Vốn đầu tư Nhà nước chỉ tập trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ
tầng và một số công trình then chốt để phục vụ cho 3 chương trình kinh tế và một số

chương trình phúc lợi xã hội có liên quan sống còn tới toàn bộ nền kinh tế. Đa phần
các công trình sản xuất kinh doanh khác thì việc tích tụ và tập trung vốn đầu tư
không nhất thiết phải do ngân sách Nhà nước cấp, mà phải theo nguyên tắc tự vay,
tự trả của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong giai đoạn này Nhà
nước ta đã chủ trương sắp xếp lại một bước các doanh nghiệp Nhà nước, sẵn sàng
sát nhập hoặc giải thể các doanh nghiệp nào làm ăn thua lỗ.
Đặc điểm bao trùm của quá trình tích tụ và tập trung vốn trong nước ở giai
đoạn này chính là chúng ta đã từng bước xã hội hoá được các nguồn vốn đầu tư,
khắc phục những quan điểm phiến diện trước đây là chỉ dựa vào kênh đầu tư của
ngân sách Nhà nước, còn ở giai đoạn này, các: “Nguồn lực sản xuất của xã hội được
huy động tốt hơn".
Các tổ chức trung gian tài chính cũng đã bắt đầu đổi mới hoạt động tích tụ và
tập trung vốn. Với một loạt ngân hàng thương mại được ra đời và chuyển sang hoạt
động kinh doanh tiền tệ tín đã tạo ra những yếu tố ban đầu để hình thành thị trường
vốn. Trong hệ thống này các ngân hàng thương mại đã được chủ động trong các
hoạt động kinh doanh, vì thế nó đã phát triển ngày càng đa dạng, địa bàn kinh
doanh ngày càng được mở rộng đến mọi thành phần kinh tế với các hình thức tích
tụ và tập trung vốn khá phong phú và uyển chuyển. Chẳng hạn, bên cạnh các hình
thức tích tụ và tập trung vốn theo kênh tiết kiệm truyền thống còn có các hình thức
tích tụ và tập trung mới theo tín hiệu thị trường như: Các loại kỳ phiếu ngắn hạn,
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng có mục đích, tiết kiệm xây dựng nhà ở Hệ
thống quỹ tín dụng nhân dân đã phát triển mạnh và có vai trò tích cực trong quá
trình tích tụ và tập trung vốn ngay trong những năm đầu của sự nghiệp đổi mới.
Đặc biệt trong thời gian này chính sách kinh tế nhiều thành phần của Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh thức tiềm năng kinh tế của nhân
dân qua việc phát triển mạnh mẽ tích tụ và tập trung vốn từ các hộ gia đình và nhiều
loại hình kinh tế hợp tác xã đa dạng trong việc phát triển toàn bộ nền kinh tế Chính
điều đó đã làm cho hàng triệu hộ gia đình trên khắp đất nước năng động trong sản
11
11

xuất kinh doanh, đã đẩy mạnh quá trình tích tụ và tích luỹ vốn.
Quá trình tích tụ và tập trung vốn của đất nước trong giai đoạn 1986 - 1990 đã
có những bước chuyển biến đáng kể, nó được tiến hành đồng qua các kênh: Kênh
ngân sách Nhà nước, kênh tín dụng, kênh đầu tư của nhân dân, kênh đầu tư từ khu
vực nước ngoài(tuynhiên với tỷ lệ còn thấp) , chứ không phụ thuộc duy nhất vào
một kênh ngân sách Nhà nước như ở các giai đoạn trước. Chính từ thực tiễn này đã
cho chúng ta những kinh nghiệm quý giá về tích tụ và tập trung vốn từ nhiều nguồn
khác nhau và càng làm bộc lộ rõ những khuyết điểm ẩn dấu trong cơ chế kế hoạch
hoá tập trung quan liêu bao cấp là đầu tư chủ yếu dựa vào nguồn vốn qua ngân sách
Nhà nước, mà không tính đến khả năng to lớn về vốn còn đang tiềm ẩn trong các
thành phần kinh tế khác.
Tuy nhiên, bên cạnh những nét khởi sắc về tích tụ và tập trung vốn trong nước
ở giai đoạn này vẫn bộc lộ một số vẫn đề cần phải tiếp tục tháo gỡ như: Người dân
chưa tích cực bỏ vốn ra đầu tư sản xuất kinh doanh vì chưa thật tin tưởng vào sự ổn
định kinh tế, còn sợ lạm phát, chưa có nhiều hình thức huy động vốn thiết thực và
linh hoạt, lãi suất chưa hấp dẫn, môi trường kinh tế, môi trường pháp lý và hệ thống
hành chính còn lắm thủ tục phiền hà, hơn nữa thị trường vốn ở nước ta chưa phát
triển, thậm chí nhiều bộ luật cần thiết cho đầu tư còn thiếu như: Luật thương mại,
luật dân sự, thiếu những quy định đồng bộ đối với những nhà đầu tư trong và ngoài
nước, đặc biệt là sự chưa rõ ràng về quyền sở hữu bất động sản, sự thiên vị về tín
dụng đối với các xí nghiệp quốc doanh Một điều đáng chú ý trong việc tích tụ và
tập trung vốn trong nước giai đoạn này là nguồn thu ngân sách Nhà nước đã được
bổ sung khá nhiều, do đó đã có những bước chuyển biến trong việc khai thác và biết
cách bồi dưỡng, duy trì nguồn thu. Đây là một trong những thành công lớn. Tuy
nhiên, Ngân sách nhà nước vẫn còn thất thu nghiêm trọng, xuất không đủ nhập, bội
chi ngân sách vẫn lớn và chưa có biện pháp bù đắp khả thi, dẫn tới lạm phát vẫn ở
mức cao. Những nguyên nhân dẫn tới tình hình trên thì khá nhiều, nhưng có nguyên
nhân quan trọng và trực tiếp, đó là do công tác tích tụ, tập trung vốn quản lý và sử
dụng vốn chưa tốt Mặt khác, ở giai đoạn này còn thiếu vắng nhiều giải pháp tích tụ
và tập trung vốn hữu hiệu. Điều quan trọng là chúng ta chưa tạo ra được một phong

trào tiết kiệm thực sự ăn sâu vào suy nghĩ và hành động của mỗi người dân, mỗi
12
12
công sở và mỗi doanh nghiệp Vì thế, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư trong tổng sản phẩm
quốc nội còn quá thấp so với các nước xung quanh. Chính những điều đó đã dẫn tới
nhiệm vụ tích tụ và tập trung vốn đặt ra trong giai đoạn này không thực hiện được
như mong muốn, vì thế tình hình kinh tế - xã hội vẫn ở trong tình trạng khủng
hoảng, lạc hậu, mức sống của người dân vẫn thấp. Thực trạng đó đòi hỏi chúng ta
phải đổi mới sâu sắc và nhanh hơn tiến trình đổi mới sâu sắc và toàn diện mọi lĩnh
vực của nền kinh tế.
+Từ 1991 đến nay.
Đảng và Nhà nước ta tiếp tục những quan điểm chủ trương chính sách đổi
mới và phát huy tối đa những kết quả bước đầu của giai đoạn trước (1986 - 1990),
do đó Đại hội Đảng lần thứ VII đã nhấn mạnh: “Để thực hiện mục tiêu dân giàu
nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng nhất là phải cải biến
căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển phát triển lực lượng sản xuất,
công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển nền công
nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất -
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao lao động xã hội và cải thiện
đời sống nhân dân .Để thực hiện được các mục tiêu đề ra chỉ trong điều kiện khi có
đủ vốn, đặc biệt là nguồn vốn trong nước, tuy nhiên cần tranh thủ vốn đầu tư từ
nước ngoài.
Có thể nói, nét nổi bật về tích tụ tập trung vốn trong giai đoạn này là sự đổi
mới trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Xuất hiện một số trung tâm tài chính
khác như công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư Đặc biệt là ngành ngân hàng ở nước ta
đã có sự chuyển biến để thích ứng với cơ chế mới, hệ thống ngân hàng được đổi
mới về tổ chức và phương thức hoạt động, đặt nền móng cho những ứng xử hiện đại
năng động và hiệu quả của hệ thống ngân hàng đã đang và sẽ vươn lên làm tốt chức
năng là trung tâm tiền tệ, tín dụng và thanh toán của các thành phần kinh tế, tích tụ
và tập trung được nguồn vốn nhàn rỗi trong các thành phần kinh tế được nhiều hơn,

thúc đẩy mạnh mẽ nhịp độ tăng trưởng kinh tế, góp phần ổn định giá trị đồng tiền
Việt Nam
Ngân hàng cũng đã tiến hành một chương trình tích tụ và tập trung vốn trong
nền kinh tế và trong các tầng lớp dân cư bằng việc khuyến khích những người có
13
13
vốn mở tài khoản ở các ngân hàng và thanh toán qua ngân hàng. Đã tổ chức, cải tiến
dịch vụ thanh toán với tốc độ nhanh, giảm bớt các thủ tục phiền hà và chi phí giảm.
Các cố gắng đó đã thu hút thêm được một lượng tiền gửi khá lớn của dân cư. Triển
khai rộng rãi hình thức tích tụ và tập trung vốn bằng hình thức tiết kiệm dài hạn có
mục đích. Ngân hàng đã triển khai và khuyến khích mạnh mẽ hình thức tiết khiện
gửi một nơi, lấy nhiều nơi giúp cho người gửi thuận lợi trong gửi và rút tiền
Trong giai đoạn này nhờ đổi mới nhiều cơ chế chính sách về tài chính, tiền tệ,
ngân hàng nên việc huy động vốn cho đầu tư phát triển ngày càng cao. Năm 1995
vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội ước tính thực hiện được khoảng 62.000 tỷ
đồng, vượt dự kiến đầu năm 10% và tăng 19% so với năm 1994, trong đó nguồn
vốn do các doanh nghiệp tự đầu tư là 5.000 tỷ đồng, nhân dân đầu tư khoảng 16.000
tỷ đồng, nước ngoài đầu tư trực tiếp khoảng 1,8 tỷ USD, tương đương với 20.000 tỷ
đồng, hơn dự kiến đầu năm 20% và tăng 30%.
Về ngân sách nhà nước, nguồn thu trong nước chủ yếu là từ thuế. Công tác
thuế có nhiều chuyển biến tích cực, đã tạo ra hệ thống thuế tương đối thích hợp với
cơ chế thị trường. ở giai đoạn này đã hình thành được hệ thống thuế áp dụng thống
nhất cho các thành phần kinh tế, sửa đổi các luật thuế hoàn chỉnh như thuế doanh
thu, thuế lợi tức, thuế sử dụng đất v.v nâng tỷ lệ động viên qua thuế và phí trong
GDP tạo thành nguồn thu chính của ngân sách nhà nước. Thành tích lớn nhất là
chặn được lạm phát, chỉ giá hàng tiêu dùng và dịch vụ giảm từ 67,4% năm 1991
xuống còn 17,5% năm 1992; 5,2% năm 1993; năm 1994 và năm 1995 là 12,3%;
năm 1996 là 4,5%. Nhà nước cũng quan tâm nghiên cứu điều chỉnh, xử lý hợp lý
mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng qua ngân sách để thực hiện mục tiêu CNH-
HĐH.

Đặc biệt trong giai đoạn này, đầu tư ngoài ngân sách tăng nhanh đóng vai trò
quan trọng đối với mức tăng vốn đầu tư của toàn xã hội, trong việc giải quyết việc
làm, góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội.
Hoạt động tích tụ và tập trung vốn đầu tư trong và ngoài nước là lĩnh vực rộng
lớn và tương đối còn mới đối với Việt Nam. Trong khi đó kinh tế thế giới và khu
vực đang trong quá trình chuyển biến căn bản. Muốn hội nhập một cách tự tin và
hiệu quả vào nền kinh tế đó thì phải tích tụ và tập trung vốn, tạo cho mình một nội
14
14
lực vững vàng tích luỹ từ nội bộ của nền kinh tế, bên cạnh đó còn phải biết huy
động nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài.
III
IV III. Một số giải pháp tích luỹ vốn ở Việt Nam.
1. Tích luỹ vốn qua ngân sách .
Giải pháp hàng đầu có tính chất quyết định tới khối lượng vốn đầu tư của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân chính là tích tụ và tập trung có hiệu quả nguồn vốn qua
ngân sách Nhà nước. Nguồn vốn được huy động đó sẽ đóng vai trò quan trọng để
giải quyết các nhu cầu của Nhà nước về chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển kinh
tế Vì thế, việc nâng cao hiệu quả quá trình tích tụ tập trung vốn qua Ngân sách nhà
nước là việc làm hết sức cấp bách, cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn lớn lao. Việc
tích tụ, tập trung vốn qua kênh ngân sách nhà nước phải dựa chủ yếu vào: Thu thuế,
phí và lệ phí; phát huy tiềm năng vốn từ các nguồn tài nguyên quốc gia, từ nguồn tài
sản công còn bỏ phỉ, từ vay nợ trong đó thu thuế và phí vẫn là nguồn thu quan
trọng nhất.
2. Tích luỹ vốn qua kênh ngân hàng và thị trường chứng khoán .
Trong những năm trước mắt và cả lâu dài, việc tích tụ và tập trung vốn trong
nước qua các trung gian tài chính tín dụng( Ngân hàng thương mại, Công ty tài
chính, quỹ bảo hiểm, quỹ tín dụng các loại ) vẫn là các trung gian vốn lớn nhất
trong nền kinh tế. Vì thế, phải coi trọng và tăng cường hiệu quả huy động vốn qua
các tổ chức này, ở nước ta hiện nay khi thị trường chứng khoán còn chưa tác động

mạnh mẽ( bởi vì mới có quyết định thành lập ngày 28/11/1996, thủ tướng Võ Văn
Kiệt đã ban hành nghị định số 75/ CP về việc thành lập uỷ ban chứng khoán nhà
nước ), thì có nghiệm vụ tích tụ và tập trung vốn trong thời gian trước mắt vẫn là
trung tâm hoạt động của nghành ngân hàng. Việc hình thành thị trường chứng khoán
là một yêu cầu bức xúc của nền kinh tế thị trường ở nước ta. ĐIều quan trọng đối
với chúng ta hiện nay là sớm đưa thị trường chứng khoán đi vào hoạt động và mở
rộng ảnh hưởng đến sự tích tụ và tập trung vốn trong nước.
Việt Nam từ khi chuyển sang cơ chế thị trường thì trong nền kinh tế đã hình
thành hai loại thị trường tài chính : Loại thị trường phi chính thức vẫn tồn tại từ
trước tới nay, do những người dân trao đổi với nhau, cho vay và trả cho nhau. Phần
15
15
thị trường này vẫn đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế của đất
nước, đặc biệt là ở các vùng nông thôn miền núi. Điều đó đã cho thấy hệ thống cơ
sở hạ tầng về tài chính của Việt Nam còn rất yếu kém, khó đủ sức tích tụ và tập
trung đồng vốn vận động thông suốt cho nền kinh tế tăng trưởng mạnh.Như vậy,
một vấn đề cấp thiết đặt ra là làm thế nào thu hút được nguồn vốn của người dân
còn trôi nổi ở thị trường phi chính thức để tích tụ và tập trung đưa vào thị trường
chính thức qua hệ thống ngân hàng thương mại và hệ thống thị trường chứng khoán.
3. Tích luỹ vốn qua các tổ chức tài chính tín dụng.
Trong những năm trước mắt và cả về lâu dài , các tổ chức tài chính tín dụng
vẫn là các trung gian tích tụ và tập trung vốn lớn nhất trong nền kinh tế, ở nước ta
hiện nay khi mà thị trường chứng khoán chưa phát triển thì hoạt động tích tụ và tập
trung vốn chủ yếu thông qua hoạt động ngân hàng, đó chính là cầu nối để đáp ứng
mối quan hệ cung cầu giữa người có vốn dư và người cần vốn.Khi đáp ứng được
điều đó chính là ngân hàng đã chở thành nhân tố quan trọng để kích thích đầu tư
phát triển.
Kết Luận
Hoạt động tích tụ và tập trung vốn đầu tư trong nước là lĩnh vực rộng lớn và
còn tương đối mới ở Việt Nam. Vì vậy quy mô tích tụ và tập trung vốn ở nước ta

mới chỉ ở quy mô vừa và nhỏ. Nhưng không vì thế mà nó giảm tính cấp thiết của
mình. Trong quá trình phát triển nền kinh tế, thì tích tụ và tập trung vốn là một yếu
tố hết sức quan trọng và cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế.
Trong quá trình phát triển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, nhờ có sự nhận thức đúng đắn về quá trình tích tụ và tập trung vốn, mà
thông qua đó nước ta đã thu được những thành tựu đáng kể trong quá trình phát
triển. Nhờ có tích tụ vàtập trung vốn tốt mà nghành công nghiệp không ngừng được
đổi mới công nghệ, nghành nông nghiệp không ngừng được ứng dụng những thành
tựu khoa học vào trong sản xuất, nghành ngân hàng làm ăn có hiệu quả. Thị trường
chứng khoán là nơi mà các doanh nghiệp cần vốn để phát triển, thì sẽ có vốn để
16
16
phát triển mà không cần thông qua một công ty chung gian nào. Ngoài ra nó còn là
nơi mà những người có vốn sẽ biết đầu tư như thế nào là có hiệu quả. Vì vậy, muốn
tích tụ và tập trung vốn có hiệu quả thì cần phải thực hiện những điều sau :
+Thiết lập một cơ chế chặt chẽ giữa Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ thương mại,
Phòng thương mại Việt Nam, Bộ tài chính, Ngân hàng nhà nước làm sao để quá
trình cấp giấy phép lập các công ty, các văn phòng ở khắp nơi trên đất nước cũng
như các thủ tục nhanh nhất trong quá trình duyệt các dự án vay vốn đầu tư.
+ Xúc tiến các quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp.
+ Thành lập quỹ đầu tư phát triển ở các địa phương và cá quỹ hỗ trợ vốn cho
các doanh nghiệp trẻ
+ Cải cách hệ thống ngân hàng sao cho có thể thu hút vốn nhàn rỗi một cách
có hiệu quả nhất .
Chúng ta đang có những thuận lợi cơ bản, đó là những thành tựu ban đầu của
công cuộc đổi mới manglại.
17
17
Danh Mục tài Liệu Tham Khảo
Sách:

1. C.Mac - Tư bản quyển 1 - nhà xuất bản sự thật - 1975.
3. Kinh tế chính trị học - Nxb giáo dục 1998.
Internet : />cho-doanh-nghiep-viet-nam.htm?page=5
/>dung-vao-tinh-hinh-thuc-tien-o-viet-nam-trong-giai-doan-hien-nay-34506/
18
18

×