Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

127 Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu của Công ty cung ứng nhân lực quốc tế và thương mại SONA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.39 KB, 66 trang )

Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
Mục lục
Danh mục bảng biểu
Bảng 1.1 Các kênh tiêu thụ sản phẩm của một doanh nghiệp..............14
Bảng 2.1 Cơ cấu cán bộ công nhân viên công ty SONA......................31
Bảng 2.2 Cơ cấu bộ máy quản lý công ty………………………….....32
- 1 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
Bảng 2.3 Thực trạng kinh doanh công ty SONA giai đoạn 2005 -
2008………………………………………………………………………….38
Bảng 2.4 Doanh thu và lãi trước thuế giai đoạn 2005-2008………….39
Bảng 2.5 Khối lượng các mặt hàng xuất khẩu giai đoạn 2005-2008…39
Bảng 2.6 So sánh chỉ tiêu năng lực cạnh tranh …………………………...42
- 2 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
Danh mục từ viết tắt
TT Ký hiệu Nghĩa
Tiếng anh Tiếng việt
1 APEC Asia-Pacific Economic Cooperation Diễn đàn kinh tế hợp tác kinh tế châu
Á-Thái bình dương
2 ASEAN Association of Southeast Asian
Nations
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
3 CĐ Cao đẳng
4 C.ty Công ty
5 CNKT Công nhân kỹ thuật
6 ĐD Đại diện
7 ĐH Đại học
8 ĐT Đầu tư
9 GENERALEXIM Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu tổng
hợp I Việt Nam


10 LĐTB&XH Lao động thương binh và xã hội
11 PGĐ Phó giám đốc
12 SONA International manpower supply and trade
company
Công ty cung ứng nhân lực quốc tế và
thương mại
13 TĐCM Trình độ chuyên môn
14 T.cấp Trung cấp
15 TVDH Tư vấn du học
16 UBND Uỷ ban nhân dân
17 VNĐ Đơn vị tiền tệ việt nam (đồng )
18 VPĐD Văn phòng đại diện
19 WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới
20 XKLĐ Xuất khẩu lao động
21 XNK Xuất nhập khẩu
Lời mở đầu
1. Tính tất yếu
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu của thời đại. Đó là
một quy luật mà bất cứ quốc gia nào muốn phát triển nền kinh tế cũng phải
tuân theo bởi chống lại điều đó chính là đã tự gạt mình ra khỏi thị trường kinh
tế thế giới rộng lớn, gạt bỏ mọi cơ hội của thời đại và tự gây khó khăn, rào
- 3 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
cản cho chính mình. Hội nhập kinh tế sẽ giúp các khoảng cách, rào cản giữa
các quốc gia được san bằng. Các biện pháp cản trở sự xâm nhập của hàng hoá
sẽ bị xoá bỏ biến thế giới trở thành một thị trường chung rộng lớn cho tất cả
các quốc gia có thể tham gia. Trong thị trường chung này, các quốc gia nhỏ,
có nền kinh tế chưa phát triển cũng sẽ có tiếng nói chung đóng góp vào sự
phát triển của kinh tế thế giới. Mọi chủ thể tham gia sẽ có quyền bình đẳng
với nhau. Các mâu thuẫn xung đột sẽ được giải quyết thông qua quá trình

đàm phán, thoả thuận giữa các bên nhằm hạn chế các xung đột.
Việt Nam bắt đầu tiến hành đổi mới vào cuối những năm 80, kể từ đó,
nền kinh tế Việt Nam đã không ngừng phát triển, hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới, trở thành một bánh răng trong cỗ máy khổng lồ là nền kinh tế
chung của nhân loại. Quá trình hội nhập đó được đánh dấu bằng những điểm
nhấn như việc Việt Nam gia nhập ASEAN, APEC… và mới đây nhất chính là
sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của WTO vào cuối năm 2006.
Quá trình Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế
quốc tế đã đem đến nhiều cơ hội đên cho các doanh nghiệp, công ty trong
nước. Bên cạnh đó cũng có không ít khó khăn thách thức được đặt ra khi đối
thủ cạnh tranh của chúng ta là những công ty, tập đoàn nước ngoài với quy
mô lớn, tác phong chuyên nghiệp. Để có thể tìm cách nắm bắt những cơ hội
ấy và vượt qua mọi khó khăn thách thức thì các công ty của Việt Nam cần
phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Trong một thế giới
ngày càng phát triển hiện nay nếu chúng ta dừng lại đồng nghĩa với sự thụt lùi
so với các công ty khác.
Bài toán đặt ra đối với các doanh nghiệp, công ty của Việt Nam nói
chung và những công ty thương mại hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu hàng
hoá nói riêng là phải tiến hành những công việc gì để có thể gia tăng năng lực
cạnh tranh của mình. Đây cũng chính là lý do em chọn đề tài “Nâng cao năng
- 4 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
lực cạnh tranh hàng xuất khẩu của Công ty cung ứng nhân lực quốc tế và
thương mại SONA” làm đề tài cho chuyên đề của mình sau một thời gian
thực tập tại Công ty.
2. Mục đích
- Tìm hiểu những lý luận chung về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, các
chỉ tiêu, phương thức đánh giá năng lực cạnh tranh.
- Tìm hiểu thực trạng hoạt động, năng lực cạnh tranh của Công ty cung
ứng nhân lực quốc tế và thương mại SONA. Qua đó đề xuất một số giải pháp

với công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: lĩnh vực XK hàng hóa của Công ty cung ứng nhân lực quốc
tế và thương mại SONA.
Phạm vi: chuyên đề chỉ đề cập đến lĩnh vực hoạt động XK hàng hoá
của Công ty, và trong khoảng thời gian 2005-2008.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tổng hợp, phân tích số liệu , thu thập báo cáo, nghiên cứu tài liệu.
5. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mục lục, danh mục bảng biểu, danh mục chữ viết tắt, lời
mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng kinh doanh tại Công ty cung ứng nhân lực quốc
tế và thương mại SONA.
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty SONA

- 5 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
Chương 1 Cơ sở lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp
1.1 Cơ sở lý luận chung về cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh
Hiện nay, cạnh tranh là một thuật ngữ được sử dụng rất phổ biến, bao
gồm cả cạnh tranh nói chung và cạnh tranh trong nền kinh tế nói riêng. Khái
- 6 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
niệm cạnh tranh được sử dụng cho cả phạm vi doanh nghiệp, ngành, một quốc
gia hay một khu vực, một nhóm liên quốc gia; sự khác biệt đó là đối với đối
tượng sử dụng khác nhau thì mục tiêu khác nhau. Đối với doanh nghiệp thì

mục tiêu của cạnh tranh chính là tìm kiếm lợi nhuận, chiếm lĩnh thị trường
còn với quốc gia đó chính là sự phát triển của nền kinh tế, nâng cao mức sống
của người dân và gia tăng phúc lợi xã hội.
Có nhiều khái niệm cạnh tranh doanh nghiệp được sử dụng trong các
chương trình giảng dạy như:
• Theo K.Marx “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các
nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu
dùng hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”
• Theo Từ điển bách khoa Việt Nam (tập 1) thì cạnh tranh trong kinh
doanh là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá giữa các
thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan
hệ cung cầu, nhằm dành các điều kiện sản xuất , tiêu thụ thị trường có lợi
nhất.
• Các tác giả trong cuốn "Các vấn đề pháp lý về thể chế và chính sách
cạnh tranh kiểm soát độc quyền kinh doanh, thuộc sự án VIE/97/016 thì cho:
Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc
giành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của
mình trên thị trường, để đạt đựơc một mục tiêu kinh doanh cụ thể, ví dụ như
lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần. Cạnh tranh trong một môi trường như vậy
đồng nghĩa với ganh đua.
Từ các khái niệm nêu trên có thể thấy rằng cạnh tranh chính là sự cố
gắng nhằm giành lấy các điều kiện thuận lợi hơn các đối thủ khác trong một
môi trường cạnh tranh, từ đó đạt được các mục tiêu đã đề ra.
1.1.2 Các loại hình cạnh tranh
- 7 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
Cạnh tranh có thể được phân chia thành nhiều loại khác nhau dựa trên
các tiêu thức sau:
♦ Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường
Cạnh tranh giữa người mua và người bán: loại hình cạnh tranh này

hình thành dựa trên cở sơ thoả thuận giá cả của hàng hoá. Trong đó, người
mua muốn mua được hàng hoá với giá thấp nhất, còn người bán thì mong
muốn có thể bán với giá cao nhất.
Cạnh tranh giữa người mua với nhau: loại hình cạnh tranh này được
hình thành dựa vào quan hệ cung-cầu trên thị trường. Trong trường hợp khi
cung thấp hơn cầu rất nhiều thì cạnh tranh diễn ra càng gay gắt, giá hàng hoá
sẽ tăng cao do người mua phải chấp nhận giá để có thể mua được hàng.
Cạnh tranh giữa người bán với nhau: là cuộc cạnh tranh giữa những
người cung cấp hàng hoá nhằm giành được khách hàng và thị trường. Cuộc
cạnh tranh này sẽ dẫn đến giá cả hàng hoá hạ xuống và chất lượng, mẫu mã
của hàng hoá không ngừng được cải tiến theo thị hiếu của người tiêu dùng.
Người bán nào không đủ năng lực sẽ bị đào thải khỏi thị trường.
♦ Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế
Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cuộc cạnh tranh diễn ra giữa các
doanh nghiệp, nhà máy trong một ngành. Các doanh nghiệp này cùng sản xuất
ra một loại sản phẩm như nhau, và kết quả của cạnh tranh sẽ dẫn đến sự phát
triển của kỹ thuật sản xuất
Cạnh tranh giữa các ngành: diễn ra giữa các doanh nghiệp trong các
ngành kinh tế khác nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Quá trình này sẽ
dẫn đến sự phân bổ lại vốn đầu tư giữa các ngành, các dòng vốn sẽ di chuyển
từ những ngành có lợi nhuận thấp sang những ngành có lợi nhuận cao.
♦ Căn cứ vào tình chất cạnh tranh
- 8 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
Cạnh tranh hoàn hảo: là cạnh tranh mà trên thị trường có nhiều người
bán khác nhau, trong đó không có người bán nào có đủ sức mạnh để khống
chế giá cả của thị trường. Các sản phẩm được bán ra tương đồng với nhau. Do
đó để cạnh tranh với các đối thủ khác thì người bán phải tìm cách giảm chi
phí, nâng cao chất lượng, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm, tạo ra được sự khác
biệt so với những người bán khác nhằm chiếm lĩnh thị trường.

Cạnh tranh không hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh giữa những người
bán có sản phẩm không đồng nhất với nhau. Mỗi sản phẩm sẽ gắn liền với
hình ảnh và tên tuổi công ty. Do đó để có thể tiêu thụ được sản phẩm thì
nguời bán cần phải tiến hành các biện pháp như quảng cáo, khuyến mại, cung
cấp dịch vụ kèm theo, ưa đãi về giá cả.
Cạnh tranh độc quyền: trong trưòng hợp này giá cả trên thị trường sẽ
không được quyết định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường. Sản phẩm sẽ chỉ
do một hoặc một ít người bán và họ sẽ khống chế giá cả.
♦ Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh
Cạnh tranh lành mạnh: là cạnh tranh phù hợp với luật pháp, với đạo
đức kinh doanh, với các chuẩn mực xã hội. Các biện pháp cạnh tranh được xã
hội chấp nhận và tiến hành công khai.
Cạnh tranh không lành mạnh: là cạnh tranh dựa vào các hoạt động vi
phạm pháp luật ( như buôn lậu hay trốn thuế). Đây là loại hình cạnh tranh vi
phạm vào đạo đức kinh doanh và bị lên án.
1.1.3 Các công cụ cạnh tranh
♦ Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm chính là một công cụ rất quan trọng trong cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp. Nó phản ánh sự thoả mãn các nhu cầu của khách
hàng, dẫn tới việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng khả năng chiến thắng các
đối thủ cạnh tranh khác. Trong điều kiện hiện nay, khi mà thu nhập và mức
- 9 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
sống của người dân càng ngày càng được nâng cao thì giá cả đã không còn là
yếu tố hàng đầu nữa mà chất lượng sản phẩm mới là yếu tố quan trọng quyết
định đến khả năng tiêu thụ sản phẩm.
Chất lượng của sản phẩm phụ thuộc vào công nghệ, kỹ thuật sản xuất.
Do đó để có thể cạnh tranh với các đối thủ khác thì doanh nghiệp phải không
ngừng thay đổi, phát triển kỹ thuật và công nghệ của mình. Trường hợp này
dẫn đến sự phát triển chung của cả ngành sản xuất và đem đến lợi ích cho

người tiêu dùng khi ngày càng được sử dụng những sản phẩm có chất lượng
tốt hơn.
♦ Cạnh tranh bằng giá sản phẩm
Giá cả chính là sự thể hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm, nó phụ thuộc
vào các yếu tố sau:
• Các yếu tố có thể kiểm soát: là các yếu tố có thể tính được bằng tiền
như các yếu tố đầu vào, giá thành nguyên, nhiên vật liệu, chi phí bán hàng,
chi phí lưu động, tiền lương công nhân …
• Các yếu tố không thể kiểm soát: là các yếu tố như quan hệ cung cầu
trên thị trường, chính sách điều tiết thị trường của Nhà nước.
Giá cả của hàng hoá được các doanh nghiệp sử dụng làm công cụ cạnh
tranh thông qua các chính sách định giá bán hàng hoá của mình trên thị
trường. Các chính sách định giá mà một doanh nghiệp có thể áp dụng như
sau:
– Chính sách định giá thấp
Trong trường hợp này doanh nghiệp sẽ đưa ra giá bán hàng hoá thấp
hơn so với giá thị trường. Tuỳ thuộc vào mục tiêu, tình hình sản xuất và các
biến động của thị trường mà có thể chia thành các cách sau:
• Định giá bán thấp hơn giá thị trường nhưng cao hơn giá trị sản phẩm,
doanh nghiệp chấp nhận một mức lãi thấp hơn. Phương pháp này thường
- 10 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
được áp dụng khi doanh nghiệp mới xâm nhập vào thị trường hoặc trong các
chiến dịch cạnh tranh với đối thủ.
• Định giá bán thấp hơn giá thị trường và thấp hơn cả giá trị sản phẩm,
doanh nghiệp chấp nhận bị lỗ. Cách này được áp dụng trong trường hợp
doanh nghiệp mới khai trương hoặc nhân dịp khuyến mại. Tuy nhiên, nếu sử
dụng không thích hợp sẽ dễ dẫn đến bị kiện do bán phá giá.
– Chính sách định giá cao
Đây là mức giá cao hơn mức cân bằng trên thị trưòng và cao hơn rất

nhiều so với giá trị sản phẩm. Thường được áp dụng trong các trường hợp:
• Đây là một sản phẩm mới vừa được tung ra thị trường, chưa có sự
phản hồi từ phía khách hàng, do đó có thể áp dụng giá cao và điều chỉnh dần.
• Doanh nghiệp hoạt động trong một thị trường độc quyền ( có một
hoặc một ít nhà cung cấp), áp dụng mức giá cao để thu được lợi nhuận độc
quyền siêu ngạch.
• Sản phẩm được tung ra nhằm mục đích phục vụ cho tầng lớp thượng
lưu, có nhiều đặc điểm tốt hơn so với các sản phẩm cùng loại.
• Sản phẩm không được chế tạo hàng loạt mà chỉ có số lượng rất ít
hoặc duy nhất, chỉ có thể cung cấp thông qua đặt hàng trước.
• Sản phẩm thuộc loại không khuyến khích người tiêu dùng ( ví dụ
thuốc lá), do đó áp dụng giá cao để giảm số người sử dụng và khuyến khích
người tiêu dùng sử dụng sản phẩm thay thế.
– Chính sách định giá theo giá thị trường
Doanh nghiệp sẽ căn cứ vào quan hệ cung cầu của thị trường và giá cả
của các doanh nghiệp khác mà quy định giá bán sản phẩm của mình. Do
không có sự hấp dẫn về giá nên trong trường hợp này các doanh nghiệp cần
phải xúc tiến hoạt động tiếp thị, quảng cáo, tìm cách cắt giảm chi phí sản
xuất, tăng năng suất lao động.
- 11 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
– Chính sách giá phân biệt
Cùng một loại sản phẩm nhưng doanh nghiệp sẽ áp dụng các mức giá
khác nhau dựa trên các tiêu chí khác nhau:
• Phân biệt theo lượng mua: khi khách hàng mua sản phẩm với số
lượng càng lớn thì giá càng giảm hoặc mức chiết khẩu tăng.
• Phân biệt theo chất lượng sản phẩm: cùng một loại sản phẩm sẽ được
chia thành các mức chất lượng khác nhau nhằm phục vụ các tầng lớp khách
hàng khác nhau.
• Phân biệt theo phương thức thanh toán: với phương thức thanh toán

ngay giá cả sẽ thấp hơn so với trả chậm. Giữa phương thức thanh toán bằng
tiền mặt hay chuyển khoản, trả bằng hàng hoá cũng sẽ có sự khác biệt về giá.
• Phân biệt theo thời gian: đối với thời gian khác nhau, giá cả áp dụng
cho sản phẩm sẽ thay đổi.
♦ Cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm
Để hỗ trợ cho hoạt động bán hàng của mình doanh nghiệp có thể tiến
hành một số hoạt động như: tiếp thị, quảng cáo, hỗ trợ bán hàng, tổ chức hội
nghị khách hàng, tham gia vào các liên kết kinh tế…
Trong môi trường kinh tế hiện nay, mỗi một doanh nghiệp không
những cần sản xuất tốt mà còn phải biết phát triển mạng lưới phân phối sản
phẩm của mình tới tay người tiêu dùng. Có thể phát triển tốt mạng lưới này
thị khả năng tiêu thụ sản phẩm mới có thể gia tăng. Thông thường kênh tiêu
thụ sản phẩm của một doanh nghiệp được chia thành 4 loại như sau:
Bảng 1.1 Các kênh tiêu thụ sản phẩm của một doanh nghiệp

(A)
(B)
- 12 -
Người sản xuất
(Doanh nghiệp)
Người bán lẻ Người tiêu dùng
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
(C)

(D)
(A): Kênh trực tiếp ngắn, từ tay người sản xuất đến thẳng tay ngưòi
tiêu dùng.
(B): Kênh trực tiếp dài, hàng hoá qua tay người bán lẻ.
(C): Kênh gián tiếp ngắn, hàng hoá phân phối qua đại lý của doanh
nghiệp sau đó mới đến tay những người bán lẻ.

(D): Kênh gián tiếp dài, hàng hoá thông hệ thống đại lý, qua tay hệ
thống những người bán buôn rồi mới đến hệ thống bán lẻ, phân phối tới tay
người tiêu dùng.
1.2 Cơ sở lý luận chung về năng lực cạnh tranh
1.2.1 Khái niệm năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh là một khái niệm còn khá mới mẻ, lần đầu tiên
được đề cập đến là ở Mỹ vào đầu những năm 1980. Theo Aldington Report
(1985):”Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh là doanh nghiệp có thể sản
xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội và giá cả thấp hơn các đối
thủ cạnh tranh trong nước và quốc tế. Khả năng cạnh tranh đồng nghĩa với
việc đạt được lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và khả năng bảo đảm thu nhập
cho người lao động và chủ doanh nghiệp”.
Cho đến nay, có rất nhiều khái niệm về năng lực cạnh tranh được ra
đời; tuy nhiên vẫn chưa có một khái niệm thống nhất được sử dụng. Mặc dù
vậy, có thể thấy rằng các khái niệm này gắn kết với các quan niệm sau:
- 13 -
Đại lý Người bán lẻ
Đại lý Bán buôn Bán lẻ
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
• Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và mở rộng
thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là một quan niệm rất phổ biến
và được sử dụng trong nhiều công trình nghiên cứu sử dụng. Quan niệm này
có sự hạn chế là chưa bao hàm các phương thức, các yếu tố duy trì và nâng
cao năng lực cạnh tranh, chưa phản ánh một cách bao quát năng lực kinh
doanh của một doanh nghiệp.
• Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng chống chịu trước
sự tấn công của các doanh nghiệp khác. Quan niệm này mang tính định tính,
không thể lượng hoá các yếu tố làm thước đo năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
• Năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với năng suất lao động. Theo

Michael Porter, năng suất lao động là thước đo duy nhất về năng lực cạnh
tranh. Hạn chế của quan niệm này là chưa gắn với việc thực hiện các mục tiêu
và nhiệm vụ của doanh nghiệp.
• Năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với duy trì và nâng cao lợi thế cạnh
tranh. Quan điểm này được khá nhiều tác giả của Việt Nam sử dụng.
Trong cuốn sách “Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay”, tác giả Nguyễn
Hữu Thắng đưa ra khái niệm: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả
năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở
rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất
nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững”.
Theo quan điểm này, năng lực cạnh tranh không chỉ là một chỉ tiêu đơn
lẻ, duy nhất mà mang tính tổng hợp, bao gổm nhiều chỉ tiêu cấu thành.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh
1.2.2.1 Khả năng duy trì và mở rộng thị phần của doanh nghiệp
- 14 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
Đây là một chỉ tiêu tổng hợp, thường được sử dụng khi đánh giá năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này phản ánh kết quả đầu ra của
doanh nghiệp, cho dù là cạnh tranh trong nước hay quốc tế. Chỉ tiêu này bao
gồm 2 tiêu chí thành phần đó là thị phần và tốc độ gia tăng thị phần của doanh
nghiệp.
Thị phần là tiêu chí thể hiện vị thế, khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị
trường của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có thị phần lớn thì đồng nghĩa
với doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao so với các doanh nghiệp khác và
ngược lại. Tiêu chí này thường được đo bằng tỷ lệ doanh thu hoặc là số lượng
sản phẩm tiêu thụ được của doanh nghiệp trong một giai đoạn nhất định so
với tổng doanh thu hay sản lượng tiêu thụ trên thị trường, được tính qua công
thức:
Tp = D/D° * 100%

Trong đó : Tp: thị phần của doanh nghiệp
D : Doanh thu hoặc doanh số tiêu thụ của doanh nghiệp
D° : Tổng doanh thu hoặc doanh số tiêu thụ trên thị trường
Công thức này có ưu điểm là tại một thời điểm nhất định, nó sẽ phản
ánh rõ vị thế cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường.
Tuy nhiên, chỉ tiêu này không phải lúc nào cũng có thể tính toán được. Trong
trường hợp doanh nghiệp bé, mặt hàng cần xác định có thị phần quá ít hoặc
trong trường hợp các doanh nghiệp xuất khẩu rất khó có thể tính được thị
phần của mình tại thị trường nước ngoài. Mặt khác, chỉ tiêu này chỉ phản ánh
được năng lực cạnh tranh tại một thời điểm trong quá khứ. Vì vậy, để có thể
thấy được sự biến chuyển của năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo tời
gian, người ta thường xem xét sự biến đổi chỉ số thị phần của doanh nghiệp
qua một số năm, thường là 3-5 năm.
1.2.2.2 Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
- 15 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng tồn tại thông qua hoạt động sản xuất
và bán sản phẩm của mình. Đó có thể là hàng hoá tiêu dùng, máy móc hoặc là
những sản phẩm vô hình và các dịch vụ mà công ty cung cấp. Do đó, khả
năng cạnh tranh của sản phẩm sẽ ảnh hưởng đến doanh thu, đến khả năng duy
trì thị phần, duy trì và mở rộng quy mô doanh nghiệp, đến năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có một sản phẩm tốt, có sức cạnh
tranh cao thì mới có thể có được năng lực cạnh tranh cao. Chỉ tiêu này được
đánh giá thông qua các tiêu chí sau:
• Chất lượng sản phẩm: ngày nay, khi mức sống của con người càng
ngày càng được nâng cao, có nhiều sản phẩm đa dạng đáp ứng nhu cầu của
người tiêu dùng thì giá cả không còn là yếu tố đầu tiên khi khách hàng lựa
chọn sản phẩm, thay vào đó sự quan tâm chuyển sang chất lượng của sản
phẩm. Khách hàng sẽ sẵn sàng bỏ một thêm tiền để mua một sản phẩm có
chất lượng tốt hơn, sử dụng được lâu hơn. Chính vì vậy, doanh nghiệp phải

không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Điều này đòi hỏi cần
phải có các cải tiến về kỹ thuật, tiến hành áp dụng các công nghệ tiên tiến.
• Giá cả sản phẩm: khi mức sống nâng cao thì giá cả không còn là yếu
tố quyết định quan trọng nhất tới sự lựa chọn của khách hàng, tuy nhiên nó
vẫn có sức ảnh hưởng rất lớn. Cùng một sản phẩm, cùng một mục đích sử
dụng, cùng một mẫu mã và chất lượng tương đồng với nhau, sản phẩm nào có
giá thấp hơn sẽ là lợi thế, sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên
thị trường. Thông qua các vụ kiện chống bán phá giá hay là việc các sản phẩm
của Trung Quốc tràn lan trên thị trường Việt Nam và nhiều quốc gia khác có
thể thấy được một sản phẩm có giá thấp có lợi thế cạnh tranh như thế nào.
Muốn giảm giá, doanh nghiệp cần phải có sử dụng các nguồn lực đầu vào
hiệu quả, sử dụng công nghệ tiên tiến, quản lý sản xuất tốt và tiết kiệm tối đa
các chi phí sản xuất và phát sinh.
- 16 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
• Mức độ đáp ứng nhu cầu của khách hàng: đây là chỉ tiêu phản ánh
việc cung cấp hàng hoá cho khách hàng đầy đủ, đúng thời gian, địa điểm, chất
lượng phù hợp với đặt hàng ban đầu. Đây là một chỉ tiêu định tính. phản ánh
mức độ hài lòng của khách hàng đối với doanh nghiệp, nó thể hiện khả năng
kinh doanh, uy tín của doanh nghiệp.
• Sự khác biệt về sản phẩm: hiện nay, cùng một mục đích sử dụng sẽ có
rất nhiều loại sản phẩm của các công ty khác nhau. Nếu chất lượng và giá cả
của các sản phẩm này là khá tương đồng với nhau thì sản phẩm nào tạo ra
được sự khác biệt, sự độc đáo sẽ có khả năng tiêu thụ tốt hơn. Như cùng một
sản phẩm về sữa tươi, chúng ta có thể thấy trước đây phần lớn là các hộp sữa
180ml. Thời gian sau, có sự xuất hiện của hộp sữa 120ml, có khả năng tiêu
thụ khá tốt bởi vì nó có thể tích phù hợp cho trẻ em, và những người chỉ muốn
sử dụng ít sữa hơn hộp lớn 180ml. Đối với các sản phẩm khác cũng vậy, có
thể tạo ra được sự khác biệt trong sản phẩm của mình, doanh nghiệp sẽ có thể
nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá hơn.

• Dịch vụ đi kèm: các dịch vụ đi kèm với sản phẩm bao gồm việc hướng
dẫn sử dụng, hoạt động bảo trì và bảo hành sản phẩm. Dịch vụ hỗ trợ sau khi
bán hàng là một yếu tố quan trọng tạo niềm tin cho khách hàng, củng cố và
phát triển quan hệ với khách hàng, nhờ đó nâng cao được năng lực cạnh tranh
của hàng hoá.
1.2.2.3 Năng suất các yếu tố sản xuất
Đây là chỉ tiêu phản ánh lượng sản phẩm đầu ra so với đơn vị yếu tố
đầu vào, là chỉ tiêu phản ánh năng lực khai thác, sử dụng các yếu tố sản xuất
của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chỉ tiêu này còn phản ánh năng lực đáp ứng
nhu cầu của khách hàng, chí phí trên đơn vị sản phẩm. Do đó, năng suất các
yếu tố sản xuất là sự lượng hoá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, được
thể thiện thông qua các chỉ tiêu cụ thể như sau:
- 17 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
• Năng suất lao động: là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh trình dộ tổ chức sản
xuất – kinh doanh, năng lực sử dụng các yếu tố sản xuất, trình độ công nghệ.
Năng suất lao động được đo bằng tỷ số giữa doanh thu thuần và số lao động
trung bình trong kỳ. Chỉ tiêu này càng cao thể hiện năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp càng cao.
• Hiệu suất sử dụng vốn: là tỷ lệ giữa doanh thu thuần trên vốn kinh
doanh của doanh nghiệp
• Năng suất sử dụng toàn bộ tài sản: là tỷ số giữa doanh thu thuần trên
tổng tài sản hay tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp.
• Năng suất yếu tố tổng hợp: là nang suất của các yếu tố ngoài vốn và
lao động, thường được hiểu là năng suất của yếu tố khoa học, công nghệ. Chỉ
số này phản ánh trình độ công nghệ, hàm lượng chất xám trong sản phẩm của
doanh nghiệp.
1.2.2.4 Một số chỉ tiêu khác
• Khả năng thích ứng và đổi mới của doanh nghiệp: hiện nay, khi xu
hướng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tê ngày càng phát triển thì càng

kéo theo nhiều biến động, nhiều thay đổi đòi hỏi doanh nghiệp cần phải có
khả năng thích ứng cao và đổi mới nhanh chóng. Trước hết, doanh nghiệp
phải thích ứng được với sự thay đổi về giá cả, nhu cầu, mẫu mã, chất lượng
sản phẩm của thị trường cả trong và ngoài nước. Doanh nghiệp phải tiến hành
các thay đổi, cải tổ lại bộ máy của mình để có thể đáp ứng được các nhu cầu
của thị trường, không ngừng gia tăng sức cạnh tranh để có thể duy trì và phát
triển thị phần. Bên cạnh đó, việc hội nhập sẽ dẫn đến những thay đổi trong
chính sách của chính phủ, sẽ không còn nhiều sự bảo hộ của chính phủ cho
các doanh nghiệp trong nước, không còn những rào cản ngăn chặn sự xâm
nhập của sản phẩm nước ngoài. Môi trường kinh doanh sẽ thay đổi không
ngừng, các đối tác, đối thủ kinh doanh cũng sẽ thay đổi. Điều đó đòi hỏi
- 18 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
doanh nghiệp phải phản ứng linh hoạt, nhanh chóng có sự điều chỉnh hiệu
quả. Đây chính là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Bất cứ
một doanh nghiệp nào không từ thay đổi mình cho phù hợp với các yêu cầu
của thị trường sẽ bị các quy luật thị trường đào thải.
• Khả năng thu hút nguồn lực: khả năng thu hút nguồn lực không chỉ
nhằm đảm bảo điều kiện cho hoạt động sản xuất – kinh doanh được tiến hành
bình thường mà còn thể hiện năng lực cạnh tranh thu hút đầu vào của doanh
nghiệp. Thông qua thu hút các đầu vào có chất lượng cao như nguồn nhân lực
có trình độ, tay nghề cao, công nghệ hiện đại, nguyên, nhiên vật liệu … mà
doanh nghiệp có thể nâng cao chất lượng, năng suất và hiệu quả sản xuất-
kinh doanh. Đây là một tiền đề nhằm đảm bảo nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp trong dài hạn.
• Khả năng liên kết và hợp tác của doanh nghiệp: nền kinh tế thị trường
ngày càng phát triển thì cạnh tranh càng trở nên gay gắt, nhưng đồng thời với
cạnh tranh, tiêu diệt lẫn nhau thì sự liên kết, hợp tác cũng không ngừng phát
triển. Trong điều kiện các nước đang phát triển như Việt Nam, các doanh
nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, sức cạnh tranh không cao thì liên kết

chính là một giải pháp có ý nghĩa lớn đối với sự tồn tại của doanh nghiệp. Khi
xâm nhập thị trường nước ngoài hoặc đảm bảo duy trì thị trường trong nước,
nếu một doanh nghiệp hoạt động đơn lẻ thì sức cạnh tranh kém, nguồn lực ít
sẽ dẫn đến sự thua kém đối với các doanh nghiệp nước ngoài và dễ dàng bị
đào thải. Tuy nhiên, khi các doanh nghiệp liên kết thành các tập đoàn, các
hiệp hội thì sẽ tạo ra được sức cạnh tranh to lớn. Chính vì vậy, khả năng liên
kết, hợp tác được coi là tiền đề cho hoạt động kinh doanh hiệu quả, đồng thời
cũng là một tiêu chí định tính của năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.3 Các nhân tố tác động tới năng lực cạnh tranh
1.3.1 Các nhân tố thuộc môi trường bên trong của doanh nghiệp
- 19 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
♦ Trình độ và năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp
Có thể nói rằng năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp là yếu tố quyết
định đến sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp nói chung và năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp nói riêng. Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp
được thể hiện trên các mặt:
– Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý: được hiểu không chỉ là học vấn
đơn thuần của một cá nhân, mà nó là tổng thể các kiến thức mà cá nhân đó
lĩnh hội được. Những kiến thức này không chỉ bó hẹp trong phạm vi công
việc, ngành nghề mà nó là tổng hợp các kiến thức về các ngành nghề khác
nhau, từ các kiến thức về kinh doanh doanh nghiệp tới các kiến thức về ngân
hàng, tài chính, pháp luật … Trước đây, khi nhắc đến trình độ của một cá
nhân, thường người ta chỉ đề cập đến kiến thức, tuy nhiên, cùng với sự phát
triển của nền kinh tế thì có nhiều kỹ năng đang được đánh giá cao hơn cả
trình độ chuyên môn. Đó chính là những ký năng về quản lý, sắp xếp công
việc, thời gian, kỹ năng giao tiếp, phảt triển mối quan hệ cộng đồng. Những
ký năng này tác động rất lớn tới hiệu quả công việc và được gọi là kỹ năng
“mềm”. Do đó, ngày nay nó được xếp vào một trong những tiêu chí quan
trọng khi đưa một cá nhân lên vị trị lãnh đạo.

Đội ngũ cán bộ quản lý chính là những người đề ra phương hướng,
mục tiêu phát triển cho doanh nghiệp và đưa ra các phương pháp để thực hiện.
Chính vì vậy, trình độ của họ có tác động rất lớn tới sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp; tác động trực tiếp và toàn diện tới năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp thể hiện qua việc hoạch định và thực hiện chiến lược. lựa chọn
phương pháp quản lý, tạo động lực trong doanh nghiệp … Các yếu tố này
không chỉ tác động đến năng suất sản xuất mà còn tác động tới giá thành,
chất lượng, uy tín của doanh nghiệp.
- 20 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
– Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp: được thể hiện qua việc sắp
xếp, bố trí cơ cấu bộ máy quản lý cũng như phân định rõ ràng nhiệm vụ, chức
năng của từng bộ phận. Việc xây dựng một bộ máy quản lý theo hướng tinh,
gọn, nhẹ và hiệu quả có ý rất quan trọng; đảm bảo cho các quyết định được
hình thành nhanh chóng và chính xác, làm giảm chi phí quản lý và các chi phí
trong sản xuất. Nhờ đó năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng cao.
♦ Công nghệ, thiết bị và trình độ kỹ thuật
Công nghệ, thiết bị cũng như trình độ kỹ thuật được áp dụng có ảnh
hưởng rất lớn tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sử dụng công nghệ
tiên tiến giúp cho việc rút ngắn được thời gian sản xuất, giảm chi phí, nâng
cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm; là yếu tố quyết định đến chất
lượng của sản phẩm. Công nghệ còn tác động tới tổ chức sản xuất của doanh
nghiệp, nâng cao trình độ cơ khí hoá, tự động hoá của doanh nghiệp.
♦ Trình độ lao động trong doanh nghiệp
Trong quá trình phát triển, sản xuất của con người, lao động chính là
yếu tố có tính quyết định nhất, có vai trò quan trọng trong cạnh tranh kinh tế.
Hiện nay, nền kinh tế đang phát triển theo chiều hướng nền kinh tế tri thức,
Trong một doanh nghiệp, lao động vừa là yếu tố đầu vào vừa là lực
lượng trực tiếp sử dụng phương tiện, thiết bị để sản xuất ra sản phẩm hàng
hoá và dịch vụ. Lao động cũng chính là lực lượng tham gia tích cực vào quá

trình cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá quy trình sản xuất và đóng góp những sáng
chế, cải tiến kỹ thuật .. giúp nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản
phẩm. Do đó, trình độ của lao động có tác động lớn tới độ tinh xảo của sản
phẩm, ảnh hưởng tới năng suất và chi phí của doanh nghiệp, là yếu tố tác
động trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
♦ Năng lực tài chính của doanh nghiệp
- 21 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
Năng lực tài chính của doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là quy mô
vốn và khả năng huy động vốn; nó còn bao hàm cả khả năng sử dụng vốn có
hiệu quả, năng lực quản lý tài chính trong doanh nghiệp.
Trước hết, năng lực tài chính gắn liền với vốn – là một yếu tố sản xuất
cơ bản và cũng là một yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. Do đó, cần phải huy
động vốn kịp thời để đáp ứng các nhu cầu về vật tư, thiết bị, thuê nhân công,
tổ chức bộ máy, hệ thống phân phối sản phẩm. Như vậy, năng lực tài chính
phản ánh sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp, là yêu cầu đầu tiên nếu doanh
nghiệp muốn thành công trong kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh,
phát triển và mở rộng sản xuất.
Bên cạnh đó, năng lực tài chính còn đồng nghĩa với việc sử dụng, quản
lý vốn một cách hiệu quả. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc cắt giảm chi
phí, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Việc sử dụng
vốn có hiệu quả cũng sẽ giúp cho quay vòng vốn nhanh, làm tăng lợi nhuận
cho doanh nghiệp, góp phần vào quá trình mở rộng sản xuất của công ty.
♦ Năng lực marketing của doanh nghiệp
Năng lực marketing trước hết là khả năng nắm bắt được các nhu cầu,
biến đổi của thị trường, từ đó xác định mục tiêu và chiến lược phát triển cho
doanh nghiệp. Hoạt động Marketing còn giúp điều tra ý kiến khách hàng, từ
đó tiến hàng cải tiến sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng, tăng
khả năng chiếm lĩnh thị phần. Bên cạnh đó, các hoạt động Marketing giúp
doanh nghiệp quảng bá hình ảnh, thương hiệu của mình tới đông đảo khách

hàng, tác động trực tiếp tới khả năng tiêu thụ sản phẩm.
♦ Năng lực nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp
Trong điều kiện hiện nay, khi mà khoa học công nghệ ngày càng phát
triển thì việc một doanh nghiệp có một sự vượt trội về công nghệ, kỹ thuật sẽ
chiếm được lợi thế rất lớn trong cạnh tranh. Vì vậy, hoạt động nghiên cứu và
- 22 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
phát triển đang rất được coi trọng, đặc biệt là tại các công ty, tập đoàn lớn.
Năng lực nghiên cứu và phát triển có vai trò qua trọng trong việc cải tiến công
nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động. Ngoài ra, nó
còn góp phần vào việc sáng tạo ra các sản phẩm mới, thay đổi mẫu mã, hoàn
thiện hơn nữa sản phẩm đã có để có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị
trường, làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
1.3.2 Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
♦ Thị trường
Có thể nói rằng thị trường gắn liền với sự tồn tại của một doanh nghiệp,
nếu không có thị trường thì cho dù doanh nghiệp rất lớn mạnh cũng không thể
duy trì sự hoạt động của mình. Đầu tiên, thị trường chính là nơi mà các doanh
nghiệp có thể mua các yếu tố đầu vào, đó là nguyên, nhiên vật liệu, sức lao
động, công nghệ trong sản xuất. Các yếu tố đầu vào này có ảnh hưởng rất lớn
tới chi phí sản xuất, giá thành và chất lượng của sản phẩm. Nếu thị trường có
thể cung cấp thuận lợi các yếu tố đầu vào với mức giá phù hợp sẽ giúp cho
doanh nghiệp có thể tiết kiệm được thời gian, chi phí, hạ giá, nâng cao chất
lượng của sản phẩm hay chính là nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Thị
trường cũng chính là nơi tiêu thụ các sản phẩm cho doanh nghiệp, nếu không
có một thị trường tiêu thụ ổn định thì doanh nghiệp sẽ không thể duy trì được
hoạt động sản xuất của mình và dẫn đến phá sản.
Thị trường còn chính là nơi cung cấp các thông tin về yêu cầu của
khách hàng, các biến động của nền kinh tế, từ đó thị trường đóng vai trò là
công cụ định hướng, hướng dẫn các hoạt động của doanh nghiệp thông qua

quy luật cung – cầu, sự biến dộng về giá cả. Các phản hồi từ thị trường sẽ là
tiền đề cho định hướng chiến lược, kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp.
Chính vì vậy, sự ổn định của thị trường có ý nghĩa rất quan trọng đối với
doanh nghiệp nói chung và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nói
- 23 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
riêng. Để các doanh nghiệp có thể ổn định, phát triển sản xuất và phát huy
được các yếu tố từ thị trường thì Nhà nước cần phải có những biện pháp can
thiệp thích đáng để ổn định thị trường. Thông qua các chính sách và biện
pháp thích hợp, Nhà nước cần tạo lập một thị trường cạnh tranh tích cực và
hiệu quả, chống gian lận thương mại, hạn chế độc quyền kinh doanh… Điều
quan trọng là tạo lập môi trường thị trường cạnh tranh tích cực, tạo sự thuận
lợi cho doanh nghiệp, bên cạnh đó gia tăng sức cạnh tranh làm sức ép cho
doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến, đổi mới, đa dạng hoá sản phẩm,
nâng cao năng lực cạnh tranh… tạo động lực cho doanh nghiệp phát triển.
♦ Thể chế, chính sách
Thể chế , chính sách bao gồm các quy định pháp luật, các biện pháp
hạn chế hay khuyến khích đầu tư, kinh doanh đối với hàng hoá, dịch vụ,
ngành nghề, khu vực … ; các chính sách về đầu tư, tài chính, tiền tệ, đất đai,
công nghệ, thị trường. Như vậy thể chế, chính sách có tác động điều tiết tới cả
các yếu tố đầu vào, quá trình sản xuất và đầu ra của doanh nghiệp. Do đó, đây
là nhóm yếu tố có ảnh hưởng rất quan trọng tới hoạt động của doanh nghiệp
nói chung và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng.
♦ Kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ tầng bao gồm hạ tầng vật chất - kỹ thuật và hạ tầng xã hội,
bao gồm hệ thống giao thông, mạng lưới điện, hệ thống thông tin, hệ thống
giáo dục – đào tạo … Đây là các tiền đề rất quan trọng, chúng có tác động
mạnh mẽ tới quá trình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới
giá cả và chất lượng của sản phẩm. Để đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động
bình thường và nâng cao năng lực cạnh tranh, cần có hệ thống kết cấu hạ tầng

đa dạng, có chất lượng tốt; đòi hỏi cần có sự đầu tư đúng mức của nhà nước
để phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội.
♦ Các ngành công nghiệp, dịch vụ hỗ trợ
- 24 -
Chuyên đề thực tập Lê Thế Anh
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, cùng với sự gia tăng của cạnh
tranh khốc liệt thì các mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ cũng phát triển rất mạnh
mẽ. Thực tế, khi trình độ sản xuất ngày cang hiện đại thì sự hỗ, trợ, phụ thuộc
cho nhau càng lớn. Như một sản phẩm có thể được chia ra sản xuất tại nhiều
quốc gia khác nhau hay sản phẩm của doanh nghiệp này sẽ sử dụng các phụ
tùng, linh kiện được sản xuất bởi doanh nghiệp khác. Các nghành công
nghiệp hỗ trợ cho sản xuất của doanh nghiệp có phát triển tốt thì doanh
nghiệp mới có thể rút ngắn thời gian sản xuất, tăng năng suất, chất lượng sản
phẩm và giảm giá thành. Hiện nay, ở Việt Nam các ngành công nghiệp phụ
trợ còn chưa phát triển, do đó có rất nhiều công ty liên doanh, công ty nước
ngoài có than phiền về vấn đề này. Để có thể phát triển ngành công nghiệp,
nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước thì chính phủ cần
phải có những chính sách, chủ trương thích hợp khuyến khích phát triển các
ngành công nghiệp phụ trợ.
♦ Trình độ nguồn nhân lực
Trong mọi lĩnh vực thì con người luôn là yếu tố quyết định, chính vì
vậy trình độ, chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia có vai trò rất quan trọng
đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung, và sự gia tăng khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp nói riêng. Hiện này, chúng ta đang chuyển sang một
nền kinh tế tri thức, và yếu tố quyết định sự lớn mạnh của một doanh nghiệp
không còn là anh có bao nhiêu vốn mà là nhân viên của anh có năng lực như
thế nào thì chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố được quan tâm nhất khi các
doanh nghiệp lựa chọn đầu tư. Trình độ của nguồn nhân lực thể hiện qua kiến
thức, các kỹ năng, thái độ đối với công việc của ngườì lao động. Để có thể
nâng cao trình độ nguồn nhân lực thì chính phủ cần phát triển các cơ sở đào

tạo – giáo dục, có các chính sách phát triển nguồn nhân lực phù hợp với điều
kiện của quốc gia.
- 25 -

×