Dạy tác phẩm tùy bút trong trường THPT - Nhìn từ đặc
trưng thể loại
Trần Văn Minh
Khoa Sư phạm - Đại học Cần Thơ
1- Trong sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 12 nâng cao được sử dụng đại trà từ năm học 2008-
2009, có hai tác phẩm thuộc thể loại tùy bút: Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên
cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Tác phẩm của Nguyễn Tuân đã có sẵn từ trước, còn tác
phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì mới được đưa vào. Không nghi ngờ gì nữa, đây là hai tác
phẩm hay, rất xứng đáng, góp phần tăng cường chất Văn trong nội dung chương trình và đáp ứng
mục tiêu giáo dục mĩ cảm cho học sinh.
Nhưng trên thực tế ở trường phổ thông, việc dạy - học các tác phẩm này đã và đang gặp không
ít trở ngại, vướng mắc. Bởi trong suốt một quá trình dài trước đó, học sinh chủ yếu được học các tác
phẩm văn xuôi thiên về tự sự. Dần dần, cảm xúc và nhận thức của các em đã quen nương theo cốt
truyện, hệ thống nhân vật, tình tiết,… Đến khi cần cảm thụ một tác phẩm văn xuôi giàu chất trữ
tình, nghĩa là không còn những căn cứ quen thuộc để bám víu, chắc chắn các em gặp lúng túng và
mất phương hướng. Bộ công cụ mới được trang bị để mổ xẻ tác phẩm trữ tình (nhân vật trữ tình,
cái tôi trữ tình, mạch cảm xúc chủ quan; phương thức và giọng điệu trữ tình,…) khó có thể được sử
dụng một cách thành thạo ngay được. Hậu quả là, cả người dạy và người học đều ngán những tác
gia, tác phẩm tùy bút. Vì không thật sự hứng thú nên việc truyền đạt và tiếp nhận trên lớp học đối
với những nội dung này khó lòng đạt được kết quả như mong muốn.
Mặt khác, quan niệm về thể loại và định hướng tiếp cận tác phẩm tùy bút trong Sách Giáo
khoa, Sách Giáo viên (đều do Bộ Giáo Dục ấn hành năm 2007) cũng chưa được trình bày một cách
thật sáng rõ và nhất quán. Điều bất cập này chắc chắn có ảnh hưởng không nhỏ, gây nên khó khăn
trước hết đối với người giáo viên khi chuẩn bị bài giảng. Chúng tôi xin dẫn ra một số điểm chưa
hợp lý về vấn đề này, cụ thể như sau:
a- “Bài ký thực chất thuộc thể tùy bút vì hành văn phóng túng, nhân vật chính là cái tôi của
tác giả, chất trữ tình rất đậm”
(1)
.
b- “Ai đã đặt tên cho dòng sông? thực chất thuộc thể tùy bút (…). Qua bài kí Ai đã đặt tên
cho dòng sông? ta thấy nổi bật lên cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường - tài hoa, uyên bác, giàu tình
cảm và trí tưởng tượng lãng mạn, say mê cái đẹp của cảnh và người xứ Huế”
(2)
.
c- “Tùy bút thuộc thể ký (…). Tùy theo cái tôi của tác giả mà tuỳ bút có loại thiên về triết lí,
có loại thiên về thông tin khoa học (về văn hóa, văn học, lịch sử hay phong tục), có loại thiên về mô
tả phong cảnh, v.v… Cũng có loại thuần túy trữ tình”
(3)
.
d- Trong tác phẩm Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã “sử dụng thể tùy bút pha bút ký,
kết cấu phóng túng, thể hiện đậm nét cái tôi của tác giả”
(4)
.
Rõ ràng, cách trình bày của sách giáo khoa đã làm cho vấn đề trở nên khó hiểu, dễ nhầm lẫn.
Làm sao xác định được tính hệ thống, cấp độ của từng thể loại và mối liên hệ giữa tùy bút với ký
nếu dựa trên những nhận định tréo ngoe với nhau: “Bài ký thực chất thuộc thể tùy bút” và “Tùy bút
thuộc thể ký”? Vậy thì thể loại nào thuộc thể loại nào? Và nếu tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng
sông ? “thực chất thuộc thể tùy bút” thì sao không gọi đúng như thế đi, mà lại xếp nó vào thể loại
ký?
Cách xác định đặc trưng thể loại của tùy bút trong trích dẫn (c) cũng có điểm chưa thỏa
đáng. Các loại tùy bút được liệt kê ra (loại thiên về triết lí, loại thiên về thông tin khoa học, loại
thiên về mô tả phong cảnh, loại thuần túy trữ tình) đâu phải chỉ “tùy theo cái tôi của tác giả”
(còn chịu sự chi phối của các yếu tố khác như ý đồ sáng tác, đề tài, chủ đề,…). Cách phân định
các loại tùy bút cũng chưa nhất quán về tiêu chí: khi thì căn cứ vào đề tài (loại thiên về thông
tin khoa học, loại thiên về mô tả phong cảnh), khi thì căn cứ vào cảm hứng sáng tác (loại thiên
về triết lý, loại thuần túy trữ tình). Mặt khác, cũng vì quan niệm rằng tùy bút “có loại thuần túy
trữ tình” nên các tác giả biên soạn sách đã không dứt khoát xếp Người lái đò sông Đà vào tùy
bút, mà cho là “sử dụng thể tùy bút pha bút ký”. Đột ngột đưa ra một thuật ngữ mới về thể loại
(bút ký) mà hoàn toàn không có giới thuyết khái niệm hoặc giải thích thêm cho rõ ràng, vô tình
có thể dẫn đến cách hiểu máy móc, phiến diện: trong tác phẩm “tùy bút pha bút ký”, phần
“thuần túy trữ tình” mới là tùy bút, còn thuật sự, miêu tả thì thuộc về bút ký.
Từ định hướng lý luận có vẻ phức tạp, nhập nhằng về thể loại như thế, phần hướng dẫn giảng
dạy và học tập các tác phẩm tùy bút trong Sách giáo viên, Sách giáo khoa đã không tránh khỏi thiên
lệch, chưa đảm bảo nguyên tắc cơ bản của việc cảm thụ và bình giá tác phẩm văn chương là phải
xuất phát từ đặc trưng thể loại. Những câu hỏi gợi ý để tìm hiểu cái tôi tài hoa, uyên bác của tác giả
thường chiếm tỉ lệ lớn hơn (Ví dụ: “Hãy phân tích và chứng minh những phương diện khác nhau
của tài nghệ Nguyễn Tuân trong việc mô tả tính chất hung bạo của thác dữ sông Đà. Gợi ý: Trí
tưởng tượng phong phú, khả năng quan sát tinh tường của nhà văn… Những liên tưởng so sánh có
sức diễn tả chính xác và sắc sảo như thế nào?”; “Hãy cho biết để viết được đoạn văn trích, tác giả
phải vận dụng những tri thức của các ngành văn hóa, nghệ thuật nào? Hiệu quả thẩm mỹ đạt được
ra sao?”). Phần gợi ý để cảm nhận cái tôi trữ tình, giàu cảm xúc trong tác phẩm chiếm tỉ lệ rất
khiêm tốn. Trong toàn bộ 6 câu hỏi Hướng dẫn học bài sau tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông?
chỉ có chưa tới 1 câu riêng về chất trữ tình: “Qua đoạn trích, anh (chị) có cảm nhận gì về tấm lòng
của tác giả đối với Huế, với dòng sông Hương và có nhận xét như thế nào về phong cách nghệ thuật
của ký Hoàng Phủ Ngọc Tường?”.
Trên cơ sở thực tế vừa phân tích, chúng tôi xin góp thêm ý kiến để làm sáng tỏ vấn đề, cụ thể ở
hai phương diện: phân định thể loại đối với tùy bút và hướng tiếp cận các tác phẩm tùy bút căn cứ
vào đặc trưng về loại hình của nó.
2- Tùy bút là một thể loại văn xuôi có đóng góp đáng kể vào nền văn học nước nhà, đặc biệt ở
thời kỳ hiện đại. Có thể kể ra nhiều tên tuổi lớn thuộc các thế hệ sáng tác khác nhau có tác phẩm
thành công ở thể loại này: Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, Nguyễn Trung Thành,
Nguyễn Thi, Bình Nguyên Lộc, Vũ Bằng, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Băng Sơn… Cũng không ai
phủ nhận được giá trị văn chương của những tác phẩm tùy bút tiêu biểu như Hà Nội băm sáu phố
phường, Sông Đà, Đường chúng ta đi, Dòng kinh quê hương, Thương nhớ mười hai, Ai đã đặt tên
cho dòng sông?…Từ góc nhìn văn học sử, hoàn toàn có thể khẳng định rằng thể tùy bút đã có một
quá trình hình thành và phát triển với những nét đặc thù về nội dung và nghệ thuật thể hiện, nằm
trong quy luật vận động chung của cả nền văn học.
Thực tiễn sáng tác sinh động là thế, nhưng về lý luận thì quả còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ xung
quanh thể loại tùy bút. Các nhà nghiên cứu luôn mong muốn có được sự tường minh trong thao tác
phân loại, hệ thống hóa. Nhưng đó là một điều hết sức khó khăn và phức tạp vì tính chất trung gian,
lưỡng hợp của tùy bút (giữa tự sự với trữ tình, giữa thơ với văn xuôi, giữa yếu tố chủ quan và khách
quan…) có thể khiến cho mọi cố gắng để tìm ra sự phân định rạch ròi đều trở nên bất cập hoặc
không thỏa đáng. Hậu quả là, mặc dù được công nhận như “một thể loại văn học”
(5)
nhưng trên thực
tế hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu riêng để xác định loại hình và những đặc điểm của
tùy bút.
2.1- Trước hết, cần xác định lại cách hiểu hai chữ “tùy bút”. Nếu quan niệm rằng tùy bút chỉ là
một lối viết tự do, phóng túng, “tùy theo ngòi bút mà đưa đẩy” thì có phần đúng, nhưng chưa đủ.
Tùy bút còn là một thể loại văn xuôi với những đặc điểm nội dung, nghệ thuật đặc thù, có quá trình
hình thành và phát triển lâu đời trong nền văn học Việt Nam.
Trong phần giới thiệu Nguyễn Tuân toàn tập, tập 1, Nguyễn Đăng Mạnh có nêu ra một định
nghĩa bao quát được hầu hết những đặc trưng của thể loại: “Tùy bút là gì ? Định nghĩa vừa dễ lại
vừa khó. Dễ vì khái niệm bản thân nó đã tự giải thích: là phóng bút, tùy bút mà viết chứ sao !
Nhưng chính vì thế mà khó.Vậy thì còn có thể nói gì về quy tắc thể loại của nó nữa ? Ở phương
Tây hiện đại, tùy bút rất phát triển. Nhưng càng phát triển, khái niệm tùy bút càng mơ hồ hơn. Có
người đã nói: “tự do là phép tắc duy nhất của tùy bút”. Có thể hiểu một cách đại khái thế này: người
viết tùy bút thường mượn cớ thuật lại một sự kiện, một mẩu chuyện nào đó mà mình có trải qua để
nhân đấy nêu lên những vấn đề này khác mà bàn bạc, mà nghị luận, triết luận, ném ra những suy
tưởng của mình một cách thoải mái, phóng túng”
(6)
.
Trong quyển Tam diện tùy bút, Trần Thanh Hà cũng đề xuất cách tiếp cận từ cả hai bình diện:
đặc trưng thể loại và kiểu bút pháp: “Vậy, tùy bút không chỉ dùng định danh cho một thể loại mà
còn bao hàm nhận diện một lối viết mới. Tức là nếu xem tùy bút ở mặt thể loại thì tùy bút có thể
hiểu là một thể ký ghi lại một cách tự do cảm nghĩ của người viết, kết hợp với việc phản ánh một
tâm cảnh. Còn xem tùy bút về phương diện tính chất thì có thể hiểu đó là một cách viết sáng tạo,
mới mẻ dựa trên sự phóng túng tự do của người viết”
(7)
.
2.2- Thể loại vốn là hình thức tồn tại chỉnh thể của tác phẩm, nên không thể quy kết về nó chỉ
dựa trên những quan sát đơn lẻ, phiến diện. Tuy vẫn còn dấu vết phái sinh từ ký, nhưng qua quá
trình hình thành từ thời trung đại và phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ XX, tùy bút đã tách hẳn ra
thành một thể loại văn học, mang những đặc điểm riêng biệt: “Trong văn học hiện đại, thể tùy bút
được dùng để chỉ những tác phẩm viết một cách phóng khoáng, tự do, theo dòng suy nghĩ, liên
tưởng của người viết. Tùy bút cũng là ký, là ghi chép, nhưng không chỉ ghi chép sự việc, mà ghi
chép suy nghĩ, cảm xúc của người viết khi tiếp xúc với thực tế”
(8)
. Căn cứ vào những đặc điểm nghệ
thuật của tùy bút được nêu ra trong ý kiến vừa trích dẫn, sẽ là chưa hợp lý nếu dứt khoát xếp nó vào
một trong hai loại: trữ tình hoặc tự sự.
Trong tùy bút cũng có kể chuyện, thuật sự. Nhưng cái mạch chính, ưu trội lên, luôn là trữ tình.
Các sự việc, hiện tượng xuất hiện có vẻ bừa bộn, không theo một trật tự lôgic hình thức nào cả. Nhờ
dòng cảm xúc, ấn tượng và trường liên tưởng chủ quan của người nghệ sĩ nối kết mọi thứ lại; để rồi
từ đó mà toát lên những suy nghiệm sâu sắc về đời sống. Đó là “một sự mạch lạc cao cấp” (Hoàng
Ngọc Hiến). Không có cốt truyện, không có tình tiết éo le gay cấn, nên sức hấp dẫn của những
trang tùy bút tùy thuộc vào cách thức tác giả bộc lộ thế giới tinh thần chủ quan với những cung bậc
cảm xúc mãnh liệt, những rung động tinh tế cùng những liên tưởng bất ngờ, tài hoa, uyên bác. Cho
nên, nếu xếp tùy bút vào cùng hệ thống với các tiểu loại khác của ký thì cũng có nghĩa mặc nhiên
thừa nhận sự thất thế của nó khi phản ánh hiện thực trong tính thời sự nóng hổi. Mặt khác, dù đậm
đà màu sắc trữ tình, tùy bút vẫn chưa hội đủ các yếu tố để được công nhận là một thể loại văn xuôi
thuộc loại hình trữ tình. Bởi theo V.E. Khalizep, trong tác phẩm trữ tình “không có sự tái hiện mở
rộng và chi tiết về các sự kiện, hành vi và quan hệ qua lại của con người (…). Như vậy là trong trữ
tình, người ta trực tiếp thể hiện yếu tố chủ quan của đời sống con người” và “Tính chất trực tiếp và
thẳng thắn của tự biểu cảm là một trong những thuộc tính quan trọng nhất của trữ tình”
(9)
. Trong khi
đó, trữ tình ở tác phẩm tùy bút thường ít nhiều có màu sắc gián tiếp, thông qua những biểu hiện sinh
động của tự nhiên và đời sống.
Về hiện tượng trung gian giữa các tiểu loại của ký, Trần Đình Sử đã có quan điểm ghi nhận
thật xác đáng: “Các cách phân loại nói trên tuy có các ưu điểm khác nhau nhưng đều mang tính
tương đối. Bởi vì, trên thực tế, thể loại văn học rất đa dạng, không một lối nào bao quát được trọn
vẹn và sít sao. Trước hết là các thể loại trung gian, kết hợp loại này và loại kia, không thể quy hẳn
về một loại nào (…). Mặt khác, nhiều thể loại ký quy vào tự sự cũng không thật thích hợp, vì cốt
truyện ít phát triển, mà chất trữ tình lại cao”
(10)
.
Cũng trong tác phẩm Dẫn luận nghiên cứu văn học, L.V. Cherets đề nghị xếp những thể loại
trung gian như tùy bút vào loại hình tự sự - trữ tình: “Nhiều khi các tác phẩm tự sự về cơ bản bao
gồm những đoạn mang tính chất trữ tình: những suy nghĩ mang tính cảm xúc của tác giả xâm nhập
vào câu chuyện về các biến cố (…). Văn học đã biết không ít những tác phẩm mà yếu tố tự sự và
yếu tố trữ tình được kết hợp ở mức ngang quyền như nhau. Người ta gọi chúng là những tác phẩm
tự sự - trữ tình”
(11)
.
Thực tế văn học Việt Nam thế kỷ XX đã minh chứng cho sự linh hoạt, đa năng của thể loại tùy
bút. Nó thích ứng được ở cả thời chiến lẫn thời bình, cả sử thi hoành tráng lẫn thế sự, đời thường;
có thể phản ánh hiện thực vừa trong tính thời sự nóng hổi vừa giãi bày những hoài niệm, hồi ức đến
từ quá khứ, rồi hướng tới những ước mơ, khát vọng tốt đẹp về tương lai. Rõ ràng, vì có biểu hiện
đầy đủ của một thể loại trung gian, mang vẻ đẹp lưỡng hợp, nên xếp tùy bút vào loại hình tự sự -
trữ tình xem ra là phù hợp hơn cả.
3- Từ những phân tích ở phần trên, có thể khẳng định rằng quan điểm và cách trình bày của
sách giáo khoa về các tác phẩm tùy bút đã có chỗ nhập nhằng, chưa thật nhất quán. Không thể diễn
đạt theo kiểu lập lờ, thiếu dứt khoát: “Bài ký thực chất thuộc thể tùy bút”. Bởi tùy bút, mặc dù phái
sinh từ ký, nhưng đã tồn tại trong nền văn học với tư cách một thể loại độc lập có đặc điểm nội
dung và nghệ thuật rất rõ nét. Mặt khác, là thể loại trung gian, lưỡng hợp, nên trong tùy bút tỉ lệ
giữa hai yếu tố tự sự và trữ tình không phải bất biến mà luôn biến hóa, linh hoạt. Trên cơ sở cái
mạch cảm hứng ưu trội lên là trữ tình, yếu tố tự sự có thể đậm nhạt khác nhau ở mỗi tác phẩm, mỗi
nhà văn. Tự sự trong tùy bút không chỉ mang ý nghĩa làm nền cho mạch cảm xúc, bản thân nó cũng
là một giá trị. Vì thế, cho rằng Nguyễn Tuân viết tác phẩm Người lái đò sông Đà theo thể loại “tùy
bút pha bút ký” và có loại tùy bút “thuần túy trữ tình” tức là đã phức tạp hóa vấn đề một cách không
cần thiết.
Hoàn toàn có đủ cơ sở để khẳng định dứt khoát rằng: Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên
cho dòng sông ? là hai tác phẩm tùy bút đặc sắc. Ở trang viết của Nguyễn Tuân yếu tố tự sự có
phần đậm nét, nhưng trữ tình vẫn là cốt lõi, quán xuyến toàn bộ mạch cảm xúc, tư tưởng của tác
phẩm. Những câu hỏi gợi ý trong phần Hướng dẫn học bài của sách giáo khoa hầu như chỉ nhằm
tìm hiểu về nghệ thuật khắc họa hình ảnh sông Đà, hình tượng ông lái đò Lai Châu và nét tài hoa
độc đáo, uyên bác của phong cách tùy bút Nguyễn Tuân (Câu hỏi 1: “Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân,
sông Đà như một nhân vật có hai tính cách mâu thuẫn nhau: hung bạo và trữ tình. Dựa vào cách
quan sát và diễn tả đó của nhà văn, có thể chia đoạn văn trích làm mấy phần? ”; Câu hỏi 2: “Hãy
chứng minh những phương diện khác nhau của tài nghệ Nguyễn Tuân…”; Câu hỏi 3: “Tác giả đã
dùng biện pháp gì để diễn tả…?”; Câu hỏi 4: “Diễn tả vẻ đẹp trữ tình của sông Đà, tác giả đã
chuyển giọng văn như thế nào…”; Câu hỏi 5: “Hãy cho biết để viết được đoạn văn trích, tác giả
phải vận dụng những tri thức của các ngành văn hóa, nghệ thuật nào. Hiệu quả thẩm mỹ đạt được ra
sao?”; Câu hỏi 6: “Qua đoạn trích, anh (chị) có nhận xét gì về đặc điểm phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Tuân?”). Rõ ràng, trong khi cái tôi tài hoa, uyên bác được chú trọng khai thác thì cái tôi
dào dạt, tinh tế trong cảm xúc, chân thành gắn bó với đất nước và dân tộc của một nhà văn từng có
thời kỳ dài thoát ly cuộc sống, chỉ ham mải miết trong xê dịch… ít nhiều đã bị xem nhẹ.
Giá trị đích thực của tác phẩm văn chương, suy cho cùng, không phải chỉ qua việc phản ánh,
khắc họa hiện thực mà còn ở tầm tư tưởng, cảm xúc và những suy nghiệm sâu sắc về con người, về
cuộc sống. Cái đẹp của văn tùy bút Nguyễn Tuân thể hiện rõ nét, tập trung ở Người lái đò sông Đà
là điều không thể phủ nhận. Nhưng lòng yêu mến thiết tha, thái độ trân trọng chế độ mới, cuộc sống
mới và sự thay đổi căn bản trong quan niệm thẩm mỹ mới chính là cái mạch ngầm tư tưởng, cảm
xúc có ý nghĩa quyết định đối với công việc sáng tạo của người nghệ sĩ. Cần chú ý khai thác hơn
nữa khía cạnh này khi dạy và học tác phẩm, nếu không sẽ rơi vào tình trạng thiếu nhất quán: định
hướng lý luận một đằng, triển khai tiếp cận tác phẩm cụ thể một nẻo.
Với tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? tình hình cũng giống hệt như thế. Trong số 6 câu
hỏi hướng dẫn học bài, chỉ có nửa câu đề cập tới chất trữ tình (nửa đầu câu số 6): “Qua đoạn
trích, anh (chị) có cảm nhận gì về tấm lòng của tác giả đối với Huế, với dòng sông Hương…”.
Khi chuyển hẳn yêu cầu “hình dung như thế nào về nhân vật tôi - người kể chuyện” sang phần
Bài tập nâng cao, các tác giả biên soạn sách cũng có cái lý của họ. Nhưng rõ ràng không thể vì
phải đảm bảo mức độ, khối lượng kiến thức ở từng đối tượng học sinh mà xem nhẹ đặc trưng thể
loại khi tiếp cận tác phẩm văn chương. Vả lại, làm sao xác định được phần Bài tập nâng cao
trong Sách nâng cao là để dành cho đối tượng nào? Thế là, một hệ quả không ai mong muốn có
thể sẽ xuất hiện: nội dung chương trình càng nặng nề, cồng kềnh hơn khi cố gắng đưa thêm vào
những tác phẩm giàu chất trữ tình nhưng lại định hướng khai thác yếu tố ấy một cách sơ lược,
không đúng mức.
4- Phải xuất phát từ đặc trưng thể loại, đó là một nguyên tắc cơ bản của quá trình cảm thụ và
bình giá các tác phẩm văn chương. Điều này chắc ai cũng biết. Nhưng đảm bảo nguyên tắc ấy
xuyên suốt từ khâu biên soạn sách cho đến định hướng tiếp cận và thực tiễn dạy - học với nhiều đối
tượng khác nhau ở bậc THPT như hiện nay, quả là không hề đơn giản. Thiết nghĩ, công việc phức
tạp này chỉ có thể đạt hiệu quả như mong muốn khi được nhiều người cùng quan tâm và chung tay
hành động.
Nếu đã xác định rằng trong tác phẩm tùy bút chất trữ tình bao giờ cũng chiếm ưu thế thì cần
phải chú trọng đặt nhiều vấn đề hơn, tạo nhiều tình huống hơn để khơi gợi ở học sinh sự đồng điệu,
ngưỡng vọng trước cái tôi giàu cảm xúc, tinh tế, chân thành của người nghệ sĩ. Những tình cảm cao
đẹp đối với quê hương đất nước, với tổ tiên ông bà, với gia đình, bè bạn,… chắc chắn sẽ có thêm
điều kiện để nảy sinh; góp phần vào việc hoàn thiện nhân cách cho học sinh.
Công sức và tâm huyết của các tác giả trong Hội đồng biên soạn sách giáo khoa là đáng trân
trọng. Do đó, việc nêu ra những điểm chưa hợp lý từ góc nhìn chủ quan của cá nhân không nằm
ngoài mục đích góp thêm ý kiến để rộng đường trao đổi, thảo luận; ngõ hầu tìm được tiếng nói
chung, vì sự ổn định và phát triển của nền giáo dục nước nhà1
Cần Thơ, tháng 02/2009
_____________
(1) Sách Ngữ Văn 12 nâng cao, tập một, Nxb. Giáo dục, H- 2007, tr.178.
(2) Sách giáo viên Ngữ Văn 12 nâng cao, tập một, Nxb. Giáo dục, H, 2007, tr.168.
(3) Xem chú thích số 1, tr.159.
(4) Xem chú thích số 2, tr.150.
(5) Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ biên): Từ điển văn học bộ mới, Nxb.
Thế giới, H, 2004, tr.1888.
(6) Nguyễn Đăng Mạnh (biên soạn và giới thiệu) - Nguyễn Tuân toàn tập, tập 1, Nxb. Văn học, H, 2000, tr.107.
(7) Trần Thanh Hà: Tam diện tùy bút, Nxb. Tri thức, H, 2007, tr.9.
(8) Nguyễn Văn Hạnh: Lý luận văn học, Vấn đề và suy nghĩ, Nxb. Giáo dục, 1998, tr.100.
(9) G.N. Pôxpêlôp (chủ biên): Dẫn luận nghiên cứu văn học - Những người dịch: Trần Đình Sử, Lại Nguyên
Ân, Lê Ngọc Trà, Nxb. Giáo dục, H, 1998, tr.198 và 327
(10) Trần Đình Sử: Lý luận văn học tập 2, Nxb. Giáo dục, H, 1997, tr.172.
(11) G.N. Pôxpêlôp (chủ biên), Sđd, tr.348.
Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 6/2009