Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Giải pháp quản lý rủi ro lãi suất tại ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (998.93 KB, 121 trang )


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi xuất phát từ
quá trình làm việc nghiêm túc dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của TS.Hà Thị
Sáu. Các kết quả, số liệu nêu trong luận văn là trung thực, tin cậy căn cứ vào
tình hình thực tế của đơn vị công tác.
Hà Nội, ngày 18 tháng 12 năm 2012
Tác giả khóa luận
Hoàng Mạnh Hà


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VIẾT TẮT NGUYÊN VĂN
ALCO Ban quản lý Tài sản có/Tài sản nợ
ALM Quản lý Tài sản có/Tài sản nợ
BCTC Báo cáo tài chính
BIDV Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
CCS Hoán đổi tiền tệ chéo (Cross Currency Swap)
DN Doanh nghiệp
FFD Nghiệp vụ kỳ hạn tiền gửi (Forward Forward Deposit)
FRA Nghiệp vụ kỳ hạn lãi suất (Forward Rate Agreement)
FTP Lãi suất/giá của hoạt động mua bán vốn
HĐQT Hội đồng Quản trị
IRS Hoán đổi lãi suất một đồng tiền (Interest Rate Swap)
LSSS Lãi suất so sánh
MIS ALCO Ban quản thông tin và hỗ trợ ALCO


NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTW Ngân hàng trung ương
ROA Lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản
ROE Lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu
TCTD Tổ chức tín dụng
TSC Tài sản có
TSN Tài sản nợ
TTLNH Thị trường liên Ngân hàng
USD Đồng đô la Mỹ
UTĐT Ủy thác đầu tư
VND Đồng Việt Nam
DANH MỤC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ
BẢNG BIỂU


Bảng 2.1: Chi phí trả lãi huy động vốn của BIDV Error: Reference source not
found
Bảng 2.2: Hoạt động tín dụng của BIDV qua các năm Error: Reference source
not found
Bảng 2.3: Thu nhập lãi từ hoạt động sử dụng vốn của BIDV Error: Reference
source not found
Bảng 2.4: Kết quả kinh doanh của BIDV Error: Reference source not found
Bảng 2.5: Khe hở nhạy cảm lãi suất và tỷ lệ khe hở nhạy cảm lãi suất lũy kế
trên tổng tài sản đối với nội tệ ở các kỳ hạn qua các năm Error:
Reference source not found
Bảng 2.6: Khe hở nhạy cảm lãi suất và tỷ lệ khe hở nhạy cảm lãi suất lũy kế
trên tổng tài sản đối với ngoại tệ ở các kỳ hạn qua các năm Error:
Reference source not found

Bảng 2.7: Mức độ biến động thu nhập ròng từ lãi đối với bộ phận tài sản nội tệ
Error: Reference source not found
Bảng 2.8: Mức độ biến động thu nhập lãi ròng đối với bộ phận tài sản ngoại tệ
Error: Reference source not found
Bảng 2.9: Độ sâu tài chính M2/GDP tại một số Quốc gia trong khu vực. .Error:
Reference source not found
ĐỒ THỊ


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của luận văn
Trong những năm vừa qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những
đổi mới sâu sắc đóng góp vào việc ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Tuy nhiên, hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường cũng gặp
nhiều khó khăn và tồn tại nhũng rủi ro tiềm ẩn gây ảnh hưởng lớn đến kết quả
kinh doanh và hoạt động của các ngân hàng, từ đó ảnh hưởng tới đời sống
kinh tế, chính trị của một quốc gia. Vì vậy, để cho hoạt động ngân hàng phát
triển vững chắc, an toàn và hiệu quả cần phải kiểm soát và hạn chế được rủi
ro thông qua công tác quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Thời gian gần đây quản lý rủi ro đã giành được sự quan tâm chu ý của
các NHTM Việt Nam, tuy nhiên chưa được xem xét một cách toàn diện. Hầu
như các ngân hàng chỉ chú trọng tới công tác quản lý rủi ro tín dụng, rủi ro
thanh khoản mà chưa đi sâu vào nghiên cứu các rủi ro đặc thù khác của
NHTM như: Rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái… Và vận dụng các biện pháp
quản lý những loại rủi ro này trong hoạt động kinh doanh .
Tuy nhiên từ năm 2008 trở lại đây, do tác động của cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế của các nước
trên thế giới trong đó có Việt Nam. Lãi suất luôn biến động và khó dự đoán,
điều này gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của nền kinh tế nói chung và
của hệ thống ngân hàng nói riêng. Việc điều hành chính sách lãi suất của

NHNN đã có nhiều thay đổi từ việc quy định khung lãi suất, trần lãi suất đến
áp dụng lãi suất cơ bản có sự khống chế biên độ và việc áp dụng cơ chế lãi
suất thỏa thuận đối với các tổ chức tín dụng. Với cơ chế lãi suất thỏa thuận,
lãi suất sẽ được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường
mà không có sự can thiệp hành chính của NHNN. Do vậy, cơ chế lãi suất thỏa
thuận một mặt tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại tăng tính tự chủ

1

trong hoạt động kinh doanh và hoạt động quản lý có hiệu quả, góp phần thúc
đẩy thị trường tài chính, tiền tệ phát triển. Tuy nhiên, với sự tác động của các
lực lượng thị trường sẽ làm cho lãi suất thay đổi thường xuyên và khó dự
đoán. Trong khi đó thực trạng bảng cân đối tài sản của hệ thống ngân hàng
thương mại đặc biệt là các NHTM Nhà nước phổ biến trong trạng thái chênh
lệch kỳ hạn . Như vậy, các NHTM đang đứng trước nguy cơ rủi ro lãi suất
nhiều hơn đòi hỏi cần phải có sự quan tâm thích đáng của các nhà quản lý
điều hành ngân hàng nhằm bảo đảm duy trì sự an toàn trong hoạt động kinh
doanh của các NHTM cũng như sự ổn định của hệ thống tài chính Quốc gia.
Xuất phát từ thực tế đó, việc đi sâu nghiên cứu về rủi ro lãi suất nhằm
tìm kiếm các giải pháp quản lý phù hợp để phòng ngừa và hạn chế rủi ro lãi
suất là vấn đề mang tính cấp thiết và quan trọng đối với mỗi ngân hàng đặc
biệt là trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, đề tài: “Giải pháp quản lý rủi
ro lãi suất tại ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam” có tính cấp thiết
cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với hệ thống ngân hàng thương mại nói
chung và của ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu cuả luận văn
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro lãi suất và
quản lý rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Đồng thời
nghiên cứu kinh nghiệm quản lý rủi ro lãi suất của các NHTM tại một số quốc
gia trên thế giới nhằm rút ra những bài học hữu ích đối với Việt Nam.

- Phân tích, đánh giá thực trạng rủi ro lãi suất và thực tế công tác quản lý
rủi ro lãi suất tại ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam trong thời gian vừa
qua. Trên cơ sở đó đánh giá những mặt hạn chế và tìm hiểu nguyên nhân dẫn
đến những hạn chế đó.
- Căn cứ vào kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quản lý rủi ro lãi
suất, Luận văn đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường quản
lý rủi ro lãi suất tại ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, góp phần nâng
cao hiệu quả và đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác quản lý rủi ro lãi suất
trong hoạt động của NHTM nói chung và của ngân hàng Đầu tư và phát triển
Việt Nam nói riêng một cách toàn diện bao gồm: tổ chức quản lý rủi ro, nhận
biết và phân tích nguyên nhân rủi ro, lượng hóa rủi ro bằng việc sử dụng các
mô hình đồng thời nghiên cứu hệ thống các giải pháp phòng ngừa rủi ro lãi
suất cả nội bảng và ngoại bảng. Qua đó, nghiên cứu các giải pháp tăng cường
quản lý rủi ro có thể áp dụng chung cho các NHTM.
- Phạm vi nghiên cứu được tiến hành trong phạm vi hoạt động của ngân
hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2009-2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên những phương pháp như: phương pháp
duy vật biện chứng kết hợp với lịch sử; phương pháp so sánh; phương pháp
phân tích; phương pháp thống kê; phương pháp tổng hợp để xử lý các thông
tin thu thập được, đồng thời áp dụng các mô hình định lượng để đo lường và
đánh giá, qua đó rút ra nhận xét tổng quát và tìm ra giải pháp tối ưu.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn
gồm 03 chương:

Chương 1: Rủi ro lãi suất và quản lý rủi ro lãi suất đối với NHTM.
Chuơng 2: Thực trạng quản lý rủi ro lãi suất tại ngân hàng Đầu tư và phát
triển Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường quản lý rủi ro lãi suất
tại ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.

3

CHƯƠNG 1
RỦI RO LÃI SUẤT VÀ QUẢN LÝ RỦI RO LÃI SUẤT
ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 RỦI RO LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm rủi ro lãi suất
Khi lãi suất thị trường thay đổi, ngân hàng thấy rằng những nguồn thu
chính từ danh mục cho vay và đầu tư chứng khoán cũng như chi phí đối với
tiền gửi và các nguồn vay đều bị tác động. Ngoài ra, sự thay đổi lãi suất ảnh
hưởng đến giá trị thị trường của tài sản có và nợ, làm thay đổi giá trị vốn chủ
sở hữu của ngân hàng. Vì vậy, lãi suất thay đổi tác động đến toàn bộ bảng cân
đối kế toán và báo cáo thu nhập của ngân hàng.
Như vậy, Rủi ro lãi suất là nguy cơ biến động thu nhập và giá trị ròng
của ngân hàng khi lãi suất thị trường biến động. Đây là rủi ro mang tính đặc
trưng của bất kỳ một ngân hàng thương mại nào. Chính sự không cần xứng về
kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ làm cho ngân hàng phải chịu rủi ro lãi suất
khi lãi suất trên thị trường biến động.
1.1.2 Các loại rủi ro lãi suất
Xét trên phương diện những loại thiệt hại mà biến động lãi suất thị
trường gây ra cho ngân hàng, rủi ro lãi suất có thể xem xét bao gồm hai loại
cơ bản: rủi ro thu nhập và rủi ro về giá trị.
1.1.2.1 Rủi ro về thu nhập

Rủi ro về thu nhập là khả năng suy giảm thu nhập lãi ròng của ngân
hàng khi lãi suất thị trường biến động. Rủi ro lãi suất tác động đến thu nhập
ngân hàng bao gồm các loại rủi ro sau:

4

- Rủi ro định giá lại hay là rủi ro lãi suất tái tài trợ tài sản nợ hoặc tái đầu
tư tài sản có: thực chất là rủi ro nảy sinh khi xuất hiện sự chênh lệch về kỳ
hạn của tài sản có và tài sản nợ của ngân hàng (đối với các khoản mục tài
sản có lãi suất cố định) và chênh lệch về thời điểm định giá lại tài sản (đối
với các khoản mục tài sản có lãi suất thả nổi).
- Rủi ro cơ bản: là rủi ro phát sinh khi việc định giá lại không hoàn hảo
hoặc giống nhau đối với những khoản mục khác nhau, nghĩa là xuất hiện sự
khác nhau về mức độ thay đổi lãi suất thu được từ tài sản có và lãi trả cho tài
sản nợ mặc dù những khoản mục này có cùng thời hạn định giá lại.
- Rủi ro lựa chọn: là rủi ro thay đổi về phương thức thanh toán đối với
TSC hoặc TSN khi lãi suất biến động.
1.1.2.2 Rủi ro giảm giá trị tài sản
Rủi ro giảm giá trị tài sản là khả năng giá trị ròng của ngân hàng bị suy
giảm khi lãi suất thị trường biến động. Rủi ro lãi suất tác động đến giá trị tài
sản ngân hàng bao gồm các loại sau:
- Rủi ro kỳ hạn: là rủi ro giảm giá trị ròng của ngân hàng khi tồn tại sự
không cần xứng về kỳ hạn của TSC và TSN.
Giá trị thị trường của tài sản có hay tài sản nợ là dựa trên khái niệm giá
trị hiện tại của tiền tệ. Do đó, nếu lãi suất thị trường tăng lên thì mức chiết
khấu giá trị tài sản cũng tăng lên làm cho giá trị hiện tại của tài sản có và tài
sản nợ giảm xuống. Ngược lại, nếu lãi suất thị trường giảm thì giá trị của TSC
và TSN sẽ tăng lên. Do đó, nếu kỳ hạn của TSC và TSN không cân xứng với
nhau, chẳng hạn TSC có kỳ hạn dài hơn TSN, thì khi lãi suất thị trường tăng,
giá trị của TSC sẽ giảm nhanh hơn và nhiều hơn so với giá trị của TSN.

- Rủi ro đường cong lãi suất: là rủi ro của ngân hàng trước những thay
đổi về độ dốc và hình dạng của đường cong lãi suất. Rủi ro này phát sinh khi

5

những thay đổi không dự đoán trước của đường cong lãi suất có tác động làm
giảm giá trị tài sản của ngân hàng do lãi suất của những thời hạn khác nhau
thay đổi theo những mức độ khác nhau.
1.1.3 Nguyên nhân rủi ro lãi suất đối với NHTM
1.1.3.1 Sự biến động của lãi suất thị trường
Lãi suất là giá cả của tín dụng, giá mà người cho vay đặt ra để đánh đổi
quyền sử dụng vốn cho vay của họ. Nói cách khác, lãi suất là tỷ lệ giữa mức
phí chúng ta phải trả để nhận được quyền sử dụng vốn vay trong một thời
gian nhất định trên tổng số tiền vay.
Có nhiều nhân tố khác nhau có thể tác động làm thay đổi mức lãi suất
cân bằng trên thị trường. Một sự dịch chuyển của đường cầu (hoặc cung) về
vốn xảy ra khi lượng cầu (hoặc lượng cung) về vốn thay đổi ở một mức lãi
suất cho trước để đáp ứng lại một sự thay đổi của một yếu tố khác nào đó
ngoài lãi suất sẽ dẫn đến sự thay đổi lãi suất cân bằng, xuất hiện một giá trị
cân bằng mới cho lãi suất. Có thể liệt kê một số nhân tố cơ bản làm thay đổi
mức lãi suất cân bằng như sau:
Nhân tố thứ nhất có ảnh hưởng tới lãi suất cân bằng là lạm phát dự tính.
Khi lạm phát dự tính xảy ra, lãi suất sẽ tăng. Kết quả này được gọi là hiệu ứng
Fisher, theo Irving Fisher, nhà kinh tế học đầu tiên đã nêu ra sự liên hệ giữa
lạm phát dự tính với lãi suất [4], [7]. Với một lãi suất cho trước, khi lạm phát
dự tính tăng lên, chi phí thực tế của việc vay tiền giảm xuống do đó lượng cầu
quỹ cho vay tăng lên ở bất kỳ lãi suất nào cho trước và đường cầu quỹ cho
vay dịch chuyển về bên phải. Đồng thời, khi lạm phát dự tính tăng lên, có
nghĩa là giá cả hàng hóa dự tính tăng do đó tăng lợi tức dự tính của những tài
sản thực, trong khi đó tiền tệ mất giá sẽ làm sụt giảm lợi tức dự tính của

những tài sản tài chính so với tài sản thực. Do vậy, người có tiền có xu hướng

6

chuyển sang nắm dữ nhiều hơn các tài sản thực, hạn chế việc cho vay tiền làm
lượng cung về quỹ cho vay giảm ở bất kỳ lãi suất nào cho trước và đường
cung quỹ cho vay dịch chuyển sang trái. Tổng hợp tác động của sự dịch
chuyển đường cung và đường cầu quỹ cho vay trong trường hợp này dẫn đến
sự tăng lên của lãi suất thị trường từ i
1
lên i
2
(Đồ thị 1.1).
Đồ thị 1.1: Biến động của lãi suất thị trường do tác động của lạm phát
Nhân tố thứ hai có tác động làm thay đổi lãi suất thị trường là giai đoạn
phát triển trong chu kỳ kinh doanh. Trong giai đoạn phát triển của một chu kỳ
kinh doanh, tổng số hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế
tăng lên khiến cho thu nhập quốc dân tăng lên. Nhu cầu về các sản phẩm hàng
hoá, dịch vụ trong xã hội gia tăng đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường
việc cung ứng, đồng nghĩa với việc họ sẽ có thêm rất nhiều cơ hội đầu tư
kiếm lời. Khi điều này xảy ra, các doanh nghiệp có thêm nhu cầu vay tiền vì
họ có thể có nhiều cơ hội đầu tư sinh lợi cần được tài trợ, trong khi nguồn vốn
tự tài trợ không tăng tương xứng. Thực tế này làm tăng mức cầu về quỹ cho

7
i
2
i
1
0

Q
2
Q
1
Q
D
D’
s
S’
i

vay và làm dịch chuyển đường cầu quỹ cho vay sang phải, có tác động làm
tăng mức lãi suất cân bằng. Mặt khác, khi chu kỳ kinh doanh phát đạt thu
nhập của mọi chủ thể trong xã hội đều tăng lên làm tăng khả năng cung ứng
vốn tín dụng và đường cung quỹ cho vay cũng dịch chuyển sang phải có tác
động ngược lại làm giảm mức lãi suất cân bằng. Tuỳ thuộc ảnh hưởng nào lớn
hơn sẽ dẫn đến kết quả cuối cùng làm tăng hay giảm lãi suất cân bằng.
Đồ thị 1.2 cho thấy nếu chỉ xét riêng ảnh hưởng về bên cầu quỹ cho vay,
sự tăng trưởng trong chu kỳ kinh tế sẽ có tác động làm cho đường cầu quỹ
cho vay dịch chuyển sang phải từ D → D’ và ảnh hưởng này sẽ làm tăng lãi
suất thị trường lên mức i
2’
. Tuy nhiên, nếu xét tổng hợp với tác động tăng thu
nhập làm tăng khả năng cung ứng vốn trong nền kinh tế, làm đường cung quỹ
cho vay cũng dịch chuyển sang phải từ S →S’ thì ở trường hợp này lãi suất
cân bằng thị trường sẽ có kết quả tăng lên từ i
1
→i
2
.

Đồ thị 1.2: Biến động của lãi suất thị trường do tác động của chu kỳ kinh doanh

8
0
Q
i
2’
i
2
i
1
0
Q
2
Q
1
Q
D
D’
S’
S
i

Chính sách tiền tệ của NHTW cũng là một nhân tố quan trọng có tác
động thay đổi lãi suất. Theo John Maynard Keynes, lãi suất cân bằng được
xác định dựa vào lượng cung và cầu tiền tệ và việc xác dịnh lãi suất cân bằng
theo cách này có cùng kết quả với việc xác định theo lý thuyết cung cầu quỹ
cho vay. Trong khi đó, khối lượng tiền cung ứng phụ thuộc vào việc thực hiện
chính sách tiền tệ của NHTW. Khi NHTW thực hiện chính sách tiền tệ thắt
chặt (hoặc mở rộng) thông qua các công cụ như dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn,

thị trường mở, sẽ tác động đến cung tiền tệ là cho cung tiền tệ giảm xuống
(hoặc tăng lên), do đó làm giảm cung quỹ cho vay (hoặc tăng), từ đó tác động
làm tăng (hoặc giảm) lãi suất.
Hình 1.3 cho thấy khi NHTW theo đuổi chính sách tiền tệ mở rộng,
lượng tiền cung ứng tăng lên làm tăng khả năng cung ứng vốn trong nền kinh
tế và đường cung quỹ cho vay dịch chuyển sang phải từ S → S’ dẫn đến sự
suy giảm lãi suất thị trường từ i
1
→ i
2
.
Đồ thị 1.3: Biến động của lãi suất thị trường do tác động của chính sách tiền tệ

9
I
1
I
2
0
Q
1
Q
2
Q
D
S’
S
i

Một nhân tố khác có ảnh hưởng đến sự biến động lãi suất là chính sách

tài chính của nhà nước. Đó là các chính sách thuế và chi tiêu của Chính phủ.
Khi Chính phủ thực hiện một chính sách tài chính bành trướng, tăng chi tiêu
của Chính phủ sẽ trực tiếp làm tăng lượng cầu quỹ cho vay, làm dịch chuyển
đường cầu quỹ cho vay về bên phải, từ D sang D’, do đó lãi suất tăng. Đồng
thời, nhà nước có thể giảm thu thuế, mặc dù không ảnh hưởng trực tiếp đến
tổng cầu, nhưng thay vào đó lại làm tăng số thu nhập từ đầu tư mới, từ đó
kích thích đầu tư làm tăng cầu quỹ cho vay. Mặt khác, một sự giảm xuống của
thuế sẽ làm tăng số thu nhập sẵn sàng để chi tiêu, làm tăng nhu cầu chi tiêu và
do đó cũng làm tăng cầu quỹ cho vay. Kết quả của những tác động trên sẽ làm
tăng lãi suất cân bằng trên thị trường từ i
1
lên i
2
(Đồ thị 1.4).
Đồ thị 1.4: Biến động của lãi suất thị trường do tác động của chính sách tài chính
Ngoài các nguyên nhân trên còn có một số nhân tố khác cũng có tác
động đến mức lãi suất thị trường. Đó là nhân tố rủi ro và tính lỏng của các

10
i
2
i
1
0
Q
1
Q
2
Q
D

D’
S
i

công cụ đầu tư. Khi tính rủi ro của các công cụ nợ tăng lên (do giá cả của
công cụ nợ bất ổn định, rủi ro vỡ nợ…) so với các công cụ đầu tư khác, sẽ
làm cho nhu cầu mua các công cụ nợ giảm đi, lượng cung quỹ cho vay giảm
tại các mức lãi suất, làm cung quỹ cho vay giảm, đường cung quỹ cho vay
dịch chuyển sang trái từ S → S’ và lãi suất cân bằng thị trường tăng.
Tính lỏng của các công cụ đầu tư là nói tới khả năng chuyển đổi thành
tiền mặt của các công cụ đó một cách nhanh chóng và ít tốn kém. Nếu tính
lỏng của các công cụ nợ cao hơn so với tính lỏng của các công cụ đầu tư khác,
thì tính hấp dẫn của các công cụ nợ tăng lên, làm tăng nhu cầu về các công cụ
nợ, tức là tăng khả năng cung ứng vốn tín dụng dẫn tới cung quỹ cho vay
tăng. Đường cung quỹ cho vay dịch chuyển sang phải từ S → S’ và lãi suất thị
trường giảm.
1.1.3.2 Sự không cân xứng về kỳ hạn giữa TSC và TSN của ngân hàng
Sự không cân xứng về kỳ hạn là tình trạng TSC của ngân hàng có kỳ hạn
dài hơn hoặc ngắn hơn so với kỳ hạn của TSN. Trên thực tế điều này xảy ra là
hoàn toàn tất yếu vì các khách hàng gửi tiền cũng như vay tiền của ngân hàng
hết sức đa dạng, mỗi người trong số họ có những nhu cầu khác nhau khi gửi
tiền hoặc vay tiền ngân hàng dẫn đến sự đa dạng về kỳ hạn của các khoản vốn
huy động và các khoản cho vay.
Mặt khác, các ngân hàng cũng có khuynh hướng duy trì thời hạn TSC dài
hơn thời hạn TSN nhằm có được lợi thế về lợi nhuận. Chẳng hạn, các ngân
hàng thường sử dụng một phần nguồn vốn ngắn hạn với lãi suất thấp để cho
vay thời hạn dài hơn với mức lãi suất cao hơn.
Ngoài ra, trong mối quan hệ với khách hàng, ngân hàng thường không
quy định các khách hàng bắt buộc phải tôn trọng thời hạn đã thoả thuận trong
hợp đồng. Tần số xuất hiện vi phạm thoả thuận về thời hạn của các khách


11

hàng gửi tiền và vay tiền thường không tương xứng với nhau và thực tế này
càng làm tăng khả năng mất cân xứng về kỳ hạn của các khoản cho vay và
các khoản vốn huy động của ngân hàng. Vì vậy, sự chênh lệch về kỳ hạn của
TSC và TSN của ngân hàng là điều không thể tránh khỏi [3], [6], [20].
1.2 QUẢN LÝ RỦI RO LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái niệm quản lý rủi ro lãi suất
Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là việc thiết lập cơ chế để
nhận biết, định lượng, giám sát và kiểm soát được các rủi ro hiện tại và rủi ro
tiềm ẩn trong kinh doanh ngân hàng một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục,
nhằm mục tiêu đạt lợi nhuận cao nhất đồng thời duy trì sự tồn tại của ngân
hàng trong những trường hợp rủi ro xấu nhất xảy ra.
Như vậy, quản lý rủi ro lãi suất là việc ngân hàng tổ chức một bộ phận
nhằm nhận biết, định lượng những tổn thất đang và sẽ gây ra từ rủi ro lãi
suất để từ đó có thể giám sát và kiểm soát rủi ro thông qua việc lập nên
những chính sách, chiến lược sử dụng những công cụ phòng ngừa và hạn chế
rủi ro lãi suất từ các hoạt động kinh doanh của ngân hàng một cách đầy đủ,
toàn diện và liên tục.
1.2.2 Sự cần thiết quản lý rủi ro lãi suất
Quản lý rủi ro lãi suất giúp các ngân hàng chủ động xây dựng kế hoạch
huy động và sử dụng vốn phù hợp nhằm hạn chế tổn thất.
Quản lý rủi ro giúp cho ngân hàng có sự nhìn nhận chính xác hơn về
triển vọng kinh doanh trong tương lai, từ đó có khả năng hoạch định chính
sách kinh doanh phù hợp. Tầm quan trọng của quản lý rủi ro lãi suất bắt
nguồn từ thực tế là nếu thiếu nó thì việc thực hiện chiến lược kinh doanh của
ngân hàng sẽ bị giới hạn bởi mục tiêu lợi nhuận mà không hề có sự cân nhắc
mối quan hệ đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro trong điều kiện biến động của


12

thị trường. Chính việc quan tâm đến những tổn thất mà ngân hàng có thể phải
gánh chịu khi lãi suất thị trường biến động đã buộc các NHTM phải chủ động
hơn trong việc xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn, hạn chế sự
chênh lệch quá lớn về kỳ hạn của TSC và TSN.
Quản lý rủi ro lãi suất tạo ra lợi thế trong cạnh tranh của các NHTM
Một lý do cơ bản khác cho việc thực hiện quản lý rủi ro lãi suất là những rủi
ro này sẽ làm phát sinh các chi phí trong tương lai cần phải được xác định bằng
cách nào đó. Trong hiện tại, những tổn thất tương lai mới chỉ là một xác suất nhất
định, nhưng sau này chúng sẽ trở thành những tổn thất thực sự. Việc kiểm soát các
chi phí cả trong tương lai cũng như trong hiện tại góp phần làm tăng thu nhập
trong hiện tại và tương lai. Chính vì lẽ đó mà quản lý rủi ro là một nhân tố quan
trọng đối với khả năng sinh lợi và lợi thế cạnh tranh của ngân hàng.
Quản lý rủi ro lãi suất tạo cơ sở xác định mức vốn tự có cần thiết nhằm
duy trì khả năng thanh toán của ngân hàng.
Thực tế cho thấy, nếu không có sự quan tâm thích đáng đến việc quản lý
rủi ro lãi suất, không dự đoán được xu hướng biến động của lãi suất thì các
ngân hàng có thể bị thiệt hại nặng nề từ loại rủi ro này. Nếu vốn tự có của
ngân hàng không đủ lớn để bù đắp tổn thất có thể đẩy ngân hàng vào tình
trạng mất khả năng thanh toán cuối cùng dẫn đến tình trạng phá sản.
1.2.3 Nội dung quản lý rủi ro lãi suất tại các Ngân hàng thương mại
Nội dung cơ bản của quản lý rủi ro lãi suất bao gồm: (i) Tổ chức quản lý
rủi ro, (ii) Nhận biết rủi ro, (iii) Lượng hoá rủi ro và (iv) Thực hiện các biện
pháp phòng ngừa rủi ro.
1.2.3.1 Tổ chức quản lý rủi ro lãi suất
Mô hình tổ chức quản lý rủi ro đơn giản hay phức tạp tuỳ thuộc vào quy
mô của từng ngân hàng. Với những ngân hàng nhỏ, giám đốc điều hành có thể
quán xuyến được toàn bộ hoạt động của ngân hàng thì không nhất thiết phải


13

hình thành những phòng chức năng chuyên trách về quản lý rủi ro lãi suất mà
chỉ cần một vài nhân viên chịu trách nhiệm đo lường, đánh giá mức độ rủi ro
lãi suất và trực tiếp báo cáo cho giám đốc.
Tuy nhiên, tại những ngân hàng lớn với nhiều chi nhánh, trong cơ cấu tổ
chức của ngân hàng thường hình thành khối chuyên trách quản lý rủi ro với
nhiều cấp độ quản lý. Trong trường hợp này, có sự phân định trách nhiệm rõ
ràng ở từng cấp quản lý trong ngân hàng và quản lý rủi ro là quá trình được
thực hiện cả từ trên xuống và từ dưới lên. Tại cấp cao nhất là việc xác định
mục tiêu thu nhập và giới hạn rủi ro. Trong quá trình quản lý thực hiện từ trên
xuống, mục tiêu chung của ngân hàng sẽ được cụ thể hoá bằng những chỉ dẫn
cho các bộ phận chức năng, và cho những người quản lý có trách nhiệm.
Những chỉ dẫn này bao gồm mục tiêu nhập, giới hạn rủi ro và các văn bản
hướng dẫn các chính sách quản lý rủi ro. Việc giám sát và lập báo cáo rủi ro
được định hướng từ dưới lên, bắt đầu từ các giao dịch và kết thúc với những
rủi ro đã được tổng hợp, mức thu nhập và doanh số hoạt động. Việc tổng hợp
được yêu cầu thực hiện vì mục đích giám sát và để so sánh giữa mục tiêu đặt
ra và thực tế thực hiện tại tất cả các cấp ra quyết định.
Đối với rủi ro lãi suất và rủi ro thanh khoản phải sử dụng phương pháp
quản lý Tài sản có / Tài sản nợ (ALM). ALM là một bộ phận của quá trình
quản lý rủi ro, chủ yếu tập trung vào việc quản lý định lượng rủi ro thanh
khoản và rủi ro lãi suất trong toàn ngân hàng. Những nội dung chính của
ALM bao gồm:
- Đo lường và giám sát rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất: (i) hoạch
định các mục tiêu doanh số hoạt động, (ii) xác lập các giới hạn rủi ro lãi suất.
- Huy động vốn và kiểm soát các giới hạn trong bảng cân đối tài sản: (i)
kiểm soát các giới hạn về thanh khoản, (ii) xây dựng chính sách huy động vốn
và (iii) xác định tỷ lệ an toàn vốn và khả năng thanh toán.


14

- Các chương trình phòng ngừa rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất.
1.2.3.2 Nhận biết rủi ro lãi suất
Nhận biết rủi ro là bước đầu tiên trong quá trình quản lý rủi ro của ngân
hàng. Rủi ro lãi suất được nhận biết qua những đánh giá của ngân hàng về
tình trạng không cân xứng kỳ hạn của TSC và TSN và dự báo diễn biến lãi
suất trong tương lai.
Nhận biết rủi ro lãi suất thường được xem xét trên cơ sở sự thay đổi
trạng thái kỳ hạn của toàn bộ bảng cân đối tài sản chứ không phải với riêng
từng sản phẩm. Có những giai đoạn kỳ hạn trung bình TSC của ngân hàng lớn
hơn kỳ hạn trung bình TSN, và nếu dự báo lãi suất sẽ tăng lên trong thời gian
tới thì ngân hàng có nguy cơ bị thiệt hại. Ngược lại, ở những thời kỳ TSC của
ngân hàng có kỳ hạn trung bình nhỏ hơn kỳ hạn trung bình TSN, kết hợp với
dự báo lãi suất giảm thì ngân hàng sẽ bị tổn thất do rủi ro lãi suất.
Như vậy, để nhận biết rủi ro lãi suất đối với ngân hàng thì việc dự báo lãi
suất là vấn đề hết sức quan trọng. Sự biến động của lãi suất trên thị trường có
thể được dự báo căn cứ vào đường cong lãi suất đã được công bố. Thực chất,
đường cong lãi suất chính là tập hợp các mức lãi chiết khấu (Yield Tomaturity
– YTM) của các công cụ nợ có thời hạn khác nhau, được xác định căn cứ theo
giá thị trường của các công cụ nợ đó tại mỗi thời điểm.
1.2.3.3 Phương pháp lượng hoá rủi ro lãi suất
a. Mô hình kỳ hạn đến hạn
Gọi M
A
là kỳ hạn đến hạn trung bình của danh mục tài sản có và M
L

kỳ hạn đến hạn trung bình của danh mục tài sản nợ, ta có:


=
=
n
i
AA
MM
1
A
11
.W
; và

=
=
m
j
LjjL
MM
1
L
.W

15

Trong đó:
W
Ai
là tỷ trọng của tài sản có i trong tổng tài sản có (giá trị tài sản tính
theo giá thị trường)

W
Lj
là tỷ trọng của tài sản nợ j trong tổng tài sản nợ (giá trị tài sản
tính theo giá thị trường)
M
Ai
là kỳ hạn đến hạn của tài sản có i.
M
Lj
là kỳ hạn đến hạn của tài sản nợ j
Mức chênh lệch kỳ hạn = M
A
– M
L.
Công thức trên nói lên kỳ hạn đến hạn của một danh mục tài sản có hoặc
tài sản nợ bằng tỷ trọng trung bình của tất cả các kỳ hạn các cấu phần trong
danh mục tài sản. Ảnh hưởng của lãi suất lên bảng cân đối tài sản phụ thuộc
vào mức độ và tính chất của sự không cân xứng các kỳ hạn giữa danh mục tài
sản có và danh mục tài sẩn nợ của ngân hàng; tức là phụ thuộc vào: (i) mức
độ chênh lệch MA - ML và (ii) tính chất của MA - ML là lớn hơn, bằng hoặc
nhỏ hơn 0.
Mô hình kỳ hạn đến hạn là một phương pháp đơn giản, trực quan để
lượng hoá rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Qua phân
tích thấy rằng, do kỳ hạn của tài sản có vài tài sản nợ không cân xứng với
nhau, cho nên khi lãi suất thị trường thay đổi có thể làm giảm kết quả kinh
doanh của ngân hàng, thậm chí nếu lãi suất biến động mạnh, thì ngân hàng có
thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán cuối cùng.
b. Mô hình định giá lại
Nội dung của mô hình này là việc phân tích các luồng tiền dựa trên
nguyên tắc giá trị kế toán nhằm xác định chênh lệch giữa tiền lãi thu được từ

TSC và lãi phải thanh toán cho vốn huy động sau một thời gian nhất định.
Để áp dụng mô hình này, trước hết toàn bộ TSC và TSN của ngân hàng

16

sẽ được phân thành các nhóm tài sản nhạy cảm với lãi suất theo các mức kỳ
hạn (kỳ hạn định giá lại), tính trên cơ sở thời hạn còn lại của tài sản.
Cơ sở cho việc phân loại tài sản nhạy cảm và không nhạy cảm với lãi
suất dựa vào mức độ biến động của thu nhập từ lãi suất (đối với TSC) và chi
phí trả lãi (đối với TSN) khi lãi suất thị trường có sự thay đổi.
Ta có thể xác định mức độ thay đổi thu nhập lãi ròng của ngân hàng khi
lãi suất thay đổi theo mô hình định giá lại như sau:
∆NIIi = GAPi x ∆Ri
với GAPi = RSAi - RSLi
Trong đó: ∆NIIi: Sự thay đổi thu nhập ròng từ lãi suất của nhóm tài sản i
∆Ri: Mức thay đổi lãi suất của nhóm i
GAPi: Chênh lệch tài sản có và tài sản nợ của nhóm i
RSAi: Số dư tài sản có nhóm i
RSLi: Số dư tài sản nợ nhóm i
Ngân hàng có thể tính toán chênh lệch tài sản có và tài sản nợ nhạy cảm
với lãi suất theo phương pháp tích luỹ, được ứng dụng phổ biến nhất là đến 12
tháng khi đó mức độ thay đổi thu nhập lãi ròng của ngân hàng trong năm tới
khi lãi suất thay đổi được xác định như sau:
∆NII = CGAP x ∆R
Với CGAP là chênh lệch tích lũy; ∆R là tỷ lệ thay đổi lãi suất trung
bình đối với tài sản có và tài sản nợ.
Theo mô hình trên có thể thấy rằng, khi tài sản có và tài sản nợ nhạy cảm
với lãi suất của ngân hàng có sự chênh lệch, ngân hàng luôn đứng trước nguy
cơ rủi ro lãi suất mỗi khi lãi suất biến động. Ảnh hưởng của sự thay đổi lãi
suất đến thu nhập ròng của ngân hàng được tóm tắt như sau:


17

GAP Sự thay đổi lãi suất Sự thay đổi thu nhập ròng
> 0 Tăng Tăng
> 0 Giảm Giảm
< 0 Tăng Giảm
<0 Giảm Tăng
Như vậy, có thể nhận thấy không phải trong trường hợp nào sự biến
động của lãi suất thị trường cũng gây thiệt hại cho ngân hàng. Cụ thể, khi
GAP >0, nếu lãi suất thị trường tăng lên sẽ làm tăng chứ không làm giảm thu
nhập lãi ròng của ngân hàng, và tương tự như vậy, khi GAP < 0, nếu lãi suất
biến động giảm cũng có tác động làm tăng thu nhập lãi ròng. Rủi ro lãi suất
thực tế sẽ xảy ra đối với hai trường hợp còn lại, tức là khi GAP > 0 kết hợp
với sự biến động giảm của lãi suất thị trường và khi GAP < 0 kết hợp với sự
biến động tăng của lãi suất thị trường. Ở hai trường hợp này ngân hàng đều
chịu thiệt hại về thu nhập lãi ròng.
Nhận xét:
Bên cạnh những ưu điểm của mô hình định giá lại là cung cấp những
thông tin về cơ cấu tài sản có, tài sản nợ sẽ được định giá lại và xác định được
sự thay đổi của thu nhập ròng từ lãi mỗi khi lãi suất thị trường thay đổi thì
trong quá trình sử dụng mô hình này cũng có những hạn chế nhất định sau:
* Đánh giá sự nhạy cảm của tài sản với lãi suất
Để đánh giá độ nhạy cảm của tài sản không thể lúc nào cũng phân loại
được các khoản mục không có kỳ hạn xác định trước hoặc không trả lãi (ví
dụ: tiền gửi giao dịch). Xu hướng chung là các ngân hàng thường xếp những
khoản mục này vào nhóm không nhạy cảm với lãi suất. Tuy nhiên, làm như
vậy cũng không hoàn toàn chính xác vì vẫn có một phần những tài sản này
mang tính nhạy cảm với lãi suất. Khi lãi suất tăng thì khách hàng có khuynh


18

hướng rút tiền từ những tài khoản không hưởng lãi vì chi phí cơ hội của việc
duy trì những tài khoản này trở nên cao hơn.
* Mức độ thay đổi các loại lãi suất
Lãi suất của các khoản mục TSC và TSN khác nhau thường thay đổi với
mức độ rất khác nhau, ngay cả khi những tài sản này có cùng thời hạn.
* Hiệu ứng của giá trị thị trường
Như đã đề cập đến ở phần trên, sự thay đổi của lãi suất ngoài ảnh hưởng
đến thu nhập ròng từ lãi còn ảnh hưởng đến giá trị thị trường của tài sản có và
tài sản nợ. Mô hình định giá lại chỉ dựa trên cơ sở giá trị ghi sổ của tài sản mà
không tính đến giá trị thị trường của chúng. Do đó, mô hình này chỉ phản ánh
được một phần rủi ro lãi suất đối với ngân hàng mà thôi.
* Vấn đề kỳ định giá tích luỹ
Vấn đề phân nhóm tài sản theo một khung kỳ hạn nhất định đã phản ánh
sai lệch thông tin về cơ cấu các tài sản có và tài sản nợ trong cùng một nhóm.
Ví dụ, giá trị tài sản có và tài sản nợ trong cùng một nhóm có cùng một kỳ
hạn đến hạn có thể là bằng nhau, nhưng tài sản nợ có thể được định giá lại tại
thời điểm cuối của kỳ định giá và trong lúc đó, tài sản có lại được định giá lại
tại thời điểm đầu của kỳ định giá lại.
Rõ ràng là nếu kỳ định giá càng mau thì những hạn chế của kỳ định giá
tích luỹ càng nhỏ. Nếu kỳ định giá được tính toán hàng ngày thì sẽ cho ta một
bức tranh trung thực về sự thay đổi thu nhập lãi suất ròng. Hiện nay, các ngân
hàng lớn được nối mạng nội bộ on-line đã cho phép ngân hàng định giá lại tài
sản tại bất kỳ thời điểm nào. Xét từ góc độ này, mô hình định giá lại trở nên
có ý nghĩa hơn trong thực tế.
* Vấn đề tài sản đến hạn

19


Khi sử dụng mô hình định giá lại ta thường giả định toàn bộ các khoản
cho vay sẽ được hoàn trả một lần khi đến hạn kể cả các khoản cho vay tiêu
dùng và cho vay trung dài hạn có lãi suất cố định. Tuy nhiên, trên thực tế thì
những khoản cho vay này thường được hoàn trả theo định kỳ và ngân hàng
thường xuyên sử dụng số tiền thu hồi nợ từ những khoản cho vay này để thực
hiện những khoản cho vay mới với lãi suất thị trường hiện hành. Điều đó có
nghĩa là các khoản thu nợ theo định kỳ trong năm thuộc loại tài sản có nhạy
cảm với lãi suất. Trường hợp này có thể được xử lý bằng cách xác định tỷ lệ
thu hồi vốn trong năm của từng khoản cho vay thuộc loại này.
Cần lưu ý thêm là các khoản tiền đến hạn về bản chất là không nhạy cảm
với lãi suất (bởi vì chúng đến hạn theo quy định trong hợp đồng chứ không
phụ thuộc vào sự thay đổi lãi suất). Tuy nhiên, khi lãi suất thị trường tăng, thì
các luồng tiền đến hạn thường bị hoãn lại do những người vay tiền có xu
hướng trì hoãn việc trả nợ. Tương tự, khi lãi suất thị trường giảm, họ thường
tìm cách hoàn trả nợ trước hạn.
c. Mô hình thời lượng
Mô hình thời lượng mà cụ thể là chênh lệch giữa thời lượng của tài sản
có và tài sản nợ là phép đo rủi ro lãi suất (qua việc đo độ nhạy cảm của TSC
và TSN đối với lãi suất) chính xác hơn nhiều so với mô hình kỳ hạn đến hạn
vì nó đề cập đến yếu tố thời gian của tất cả các luồng tiền cũng như kỳ hạn
đến hạn của TSC và TSN.
Thời lượng của 1 tài sản là thước đo thời gian tồn tại luồng tiền của tài
sản này, được tính trên cơ sở các giá trị hiện tại của nó.
Công thức tổng quát:

20



=

=
=
N
t
t
N
t
t
PV
tPV
D
1
1
.
Trong đó: D là thời lượng của tài sản
N là tổng số luồng tiền phát sinh từ tài sản
PV
t
là giá trị hiện tại của luồng tiền nhận được tại thời điểm cuối kỳ t.
(1)
CF
t
là luồng tiền nhận được tại cuối kỳ t
n là số luồng tiền xảy ra trong 1 năm
R là mức lãi suất thị trường (%/năm)
t là thời điểm phát sinh luồng tiền (t = 1, 2, n)
Xét về ý nghĩa kinh tế của thời lượng, đây là phép đo trực tiếp độ nhạy
cảm của giá trị tài sản đối với lãi suất, tức là đo sự thay đổi giá trị của tài sản
khi lãi suất thị trường thay đổi. Cụ thể:
(2)

)1( R
dR
P
dP
D
+
=−
; hay








+
−=
)1( R
dR
D
P
dP

Trong đó:
P
dP
là tỷ lệ thay đổi giá trị tài sản (giá trị hiện tại)
)1( R
dR

+
là tỷ lệ thay đổi lãi suất thị trường
Công thức cho thấy khi lãi suất thay đổi, giá trị tài sản biến động ngược
chiều theo tỷ lệ thuận với độ lớn của D. Nghĩa là, với một sự thay đổi lãi suất

21

=
+
=
N
t
t
n
R
t
t
CF
pv
1
)1(

×