Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Điều tra đánh giá sinh trưởng của loài cây Bạch đàn mô (Eucalyptus urophylla) trồng theo chương trình dự án INNOVGREEN tại huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.06 KB, 67 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
LÊ MINH ĐẠT
ĐIỀU TRA ĐÁNH GIÁ SINH TRƯỞNG CỦA LOÀI CÂY
BẠCH ĐÀN MÔ (EUCALYPTUS UROPHYLLA) TRỒNG
THEO CHƯƠNG TRÌNH DỰ ÁN INNOVGREEN
TẠI HUYỆN TIÊN YÊN, TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LÂM NGHIỆP
THÁI NGUYÊN - 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
LÊ MINH ĐẠT
ĐIỀU TRA ĐÁNH GIÁ SINH TRƯỞNG
CỦA LOÀI CÂY BẠCH ĐÀN MÔ
(EUCALYPTUS UROPHYLLA) TRỒNG
THEO CHƯƠNG TRÌNH DỰ ÁN INNOVGREEN
TẠI HUYỆN TIÊN YÊN, TỈNH QUẢNG NINH
Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60 62 02 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LÂM NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN THÁI
THÁI NGUYÊN - 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân
tôi, mọi số liệu cũng như nội dung báo cáo hoàn toàn do tôi thực hiện và chưa
từng công bố trên bất kỳ tài liệu nào khoa học nào. Tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm về bản báo cáo Luận văn của mình!
Tôi xin cam đoan!
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2014
Tác giả


Lê Minh Đạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />i

LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành tại Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên theo
chương trình đào tạo Cao học chuyên ngành Lâm học, khoá 20 (2012 - 2014).
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được sự
quan tâm giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè,
các cơ quan đơn vị nơi tác giả thực hiện nghiên cứu. Nhân dịp này, tác giả xin
chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ to lớn và có hiệu quả trên.
Trước tiên, tác giả xin đặc biệt cảm ơn TS. Nguyễn Văn Thái - người
hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong suốt quá
trình thực hiện luận văn này.
Tác giả xin tỏ lòng cám ơn sâu sắc đến Ban giám hiệu nhà trường, Phòng
quản lý Đào tạo Sau Đại học Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình học tập cũng như hoàn thành
bản luận văn thạc sĩ Lâm nghiệp.
Xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của UBND huyện Tiên Yên, các xã và
một số hộ dân trên địa bàn nghiên cứu đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả trong
việc thu thập số liệu ngoại nghiệp để thực hiện luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2014
Tác giả
Lê Minh Đạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />ii

MỤC LỤC
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2014 ii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />iii


DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
D
1.3 :
Đường kính cây ở độ cao cách mặt đất 1.3m
Dg : Đường kính bình quân quân phương
Dg
0
: Đường kính bình quân tầng trội
Dt : Đường kính trung bình tán
N : Mật độ của lâm phần
d
M :
Đường kính cây lớn nhất
d
m
: Đường kính cây nhỏ nhất
d
i
: Đường kính trung bình cỡ kính i
G : Tổng tiết diệt ngang
H : Chiều cao bình quân lâm phần
h
0 :
Chiều cao bình quân tầng trội
Hg : Chiều cao bình quân lâm phần
H
vn
: Chiều cao vút ngọn
M : Trữ lượng lâm phần
n : Tỷ lệ phần trăm số cây tỉa thửa

n

: Tỉ lệ phần trăm cây chặt
M : Trữ lượng lâm phần
OTC : Ô tiêu chuẩn
R
d
: Đường kính cây lớn nhất
r
d
: Đường kính cây nhỏ nhất
St : Đường kính tán
Si : Chỉ số cấp đất thông qua chỉ tiêu chiều cao tầng ưu thế
Y
i
: Phần trăm số cây tỉa thưa theo cỡ kính i
t : Tuổi
%KH : Tỷ lệ phần trăm theo kế hoạch
%CK : Tỷ lệ phần trăm cùng kỳ
V
cây
: Tính thể tích cây tiêu chuẩn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />iv

DANH MỤC CÁC BẢNG
B ng 3.1. B ng li t s phân b N/Dả ả ệ ố ố 36
B ng 3.2. B ng t ng h p các ph ng trình t ng quan Hvn v D1.3ả ả ổ ợ ươ ươ à
40
B ng 3.3. B ng t ng h p các ph ng trình t ng quan Dt v D1.3ả ả ổ ợ ươ ươ à
42

B ng 3.4. K t qu tính toán các ch tiêu c b n c a lâm ph n b ch ả ế ả ỉ ơ ả ủ ầ ạ
nđà 44
B ng 3.5. K t qu l p ph ng trình t ng quan gi a nhân t i u ả ế ả ậ ươ ươ ữ ố đ ề
tra 46
B ng 3.6. K t qu ki m tra s t n t i c a các ph ng trình s n ả ế ả ể ự ồ ạ ủ ươ ả
l ng trong t ng thượ ổ ể 46
B ng 3.7. K t qu ch n ph ng trình xây d ng mô hình s n l ngả ế ả ọ ươ ự ả ượ
47
B ng 3.8. K t qu tính toán các ch tiêu i u tra c b nả ế ả ỉ đ ề ơ ả 47
B ng 3.9. K t qu ki m tra tính thích ng c a các mô hình s n ả ế ả ể ứ ủ ả
l ngượ 47
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />v

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1. M t s bi u n n phân b N/D r ng tr ng B ch ộ ố ể đồ ắ ố ừ ồ ạ
n đà 38
t i Tiên Yên, Qu ng Ninhạ ả 39
Hình 3.2. Bi u th m dò m i t ng quan gi a chi u cao v ể đồ ă ố ươ ữ ề à
ng kínhđườ 41
Qua hình 3.2 cho th y khi th nghi m các mô hình t ng quan ấ ử ệ ươ
H/D chung cho to n lâm ph n B ch n b ng các d ng h m à ầ ạ đà ằ ạ à
nh : Observed; Linear; Logarithmic; Inverse; Quadratic; Cubic; ư
Compound; Power; S; Growth; Exponential v h m Logistic, k t à à ế
qu cho th y h m Linear v h m Logistic có s phù h pj h n c ả ấ à à à ự ơ ơ ả
b ng ph ng trình c th sau:ằ ươ ụ ể 41
H m Linear: HVN = 2,636 + 0,766*D1.3 R = 0,91à 41
H m Logistic: Ln HVN = 0,161 + 0,946*LnD1.3 R = 0,89à 41
3.1.3. K t qu nghiên c u t ng quan Dt v D1.3ế ả ứ ươ à 42
Hình 3.3. Bi u th m dò m i t ng quan gi a ng kính tánể đồ ă ố ươ ữ đườ
v D1.3à 43

Qua hình 3.2 cho th y khi th nghi m các mô hình t ng quan ấ ử ệ ươ
Dt/D1.3 chung cho to n lâm ph n B ch n b ng các d ng h m à ầ ạ đà ằ ạ à
nh : Observed; Linear; Logarithmic; Inverse; Quadratic; Cubic; ư
Compound; Power; S; Growth; Exponential v h m Logistic, k t à à ế
qu cho th y h m Linear v h m Logistic có s phù h pj h n c ả ấ à à à ự ơ ơ ả
b ng ph ng trình c th sau:ằ ươ ụ ể 43
H m Linear: Dt = 2,098 + 0,91*D1.3 R = 0,88à 43
H m Logistic: Ln Dt = 0,321 + 0,636*LnD1.3 R = 0,87à 43
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />vi

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Đồ gỗ xuất khẩu là mặt hàng mang lại giá trị kinh tế cao cho nền kinh tế
trong những năm gần đây với tốc độ tăng trưởng nhanh. Năm 1996 kim ngạch
xuất khẩu gỗ chỉ đạt 61 triệu USD đến năm 2008 đã đạt 2,8 tỉ USD, tăng
459% (TTXVN, 05/05/2010. Ngành chế biến gỗ xuất nhập khẩu xứng đáng
trở thành một trong năm ngành hàng xuất nhập khẩu hàng đầu và mũi nhọn
của Việt Nam. Đồ gỗ Việt Nam đã vươn lên đứng hàng thứ 2 trong khối
ASEAN và có mặt hơn 120 nước trong thị trường thế giới. Tuy nhiên bên
cạnh sự phát triển thì ngành chế biến gỗ cũng đang phải đối mặt với những
khó khăn thách thức. Một trong những khó khăn đó là về nguyên liệu, thiếu
gỗ nguyên liệu trong nước, phải nhập khẩu và phụ thuộc vào sự bất ổn thị
trường gỗ nguyên liệu trên thế giới.
Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 đã đề
ra mục tiêu xuất khẩu sản phẩm gỗ đến năm 2010 phải đạt 5,56 tỷ USD và đạt
7 tỷ USD vào năm 2020. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của kinh
ngạch xuất khẩu gỗ vào khoảng trên 30%/năm. Con số này cho thấy nhu cầu
nguồn nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ tăng mạnh từ
nay đến năm 2020. Với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay, nhu cầu gỗ cho
xây dựng và các nhu cầu khác trên thị trường nội địa cũng được dự báo sẽ liên

tục tăng. Để đáp ứng nhu cầu sử dụng gỗ ngày càng tăng của xã hội và hướng
công nghiệp chế biến gỗ đến sự phát triển bền vững thì trồng rừng thâm canh
là biện pháp được các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp đặt ra từ
nhiều năm qua. Trong hơn 1 thập kỷ qua việc trồng rừng kinh tế đã được chú
trọng. Những loài cây trồng rừng kinh tế chủ yếu đó là những loài cây nhập
nội bởi cho năng suất cao như Keo, Bạch đàn,…
Đối với cây Bạch đàn mô được trồng phổ biến nhất, gồm các loài Bạch
đàn mô đang được phát triển rộng rãi bởi tính ưu việt của nó. Bạch đàn mô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />1

đang được nhân giống theo phương pháp vô tính. Các nhà khoa học Việt Nam
đã nhân được nhiều dòng khác nhau bao gồm giống quốc gia và giống tiến bộ
kỹ thuật. Tuy nhiên việc đưa dòng nào vào sản xuất cần được khảo nghiệm
trên từng địa phương hoặc các điều kiện lập địa khác nhau.
Trong những năm gần đây diện tích trồng rừng Bạch đàn ở Tiên Yên,
Quảng Ninh ngày càng được mở rộng nhằm cung cấp nguyên liệu cho các
Nhà máy bột giấy, Công ty chế biến gỗ. Tuy nhiên việc đánh giá khả năng
sinh trưởng làm cơ sở khoa học cho việc xác định biện pháp kỹ thuật tác động
cũng như dự báo sản lượng của rừng là cần thiết.
Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi tiến hành đề tài: “Điều tra đánh giá
sinh trưởng của loài cây Bạch đàn mô (Eucalyptus urophylla) trồng theo
chương trình dự án INNOVGREEN tại huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh”.
Để làm cơ sở lựa chọn giống cho việc trồng rừng nguyên liệu trong những
năm tới.
2. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá được sinh trưởng của cây Bạch đàn mô trồng theo chương
trình INNOV GREEN tại Tiên Yên, Quảng Ninh.
- Làm cơ sở đề xuất được một số biện pháp kỹ thuật cũng như dự báo
sản lượng rừng, phục vụ công tác trồng rừng nguyên liệu.
3. Mục tiêu nghiên cứu

- Đánh giá được tình hình sinh trưởng của rừng Bạch đàn theo tuổi tại
Tiên Yên, Quảng Ninh.
- Tìm hiểu được một số biện pháp kỹ thuật canh tác của dự án ảnh hưởng
đến sinh trưởng và tăng trưởng của rừng.
- Đề xuất một số giải pháp áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả trồng rừng
thâm canh hiện nay.
4. Ý nghĩa đề tài
4.1. Ý nghĩa học tập và nghiên cứu
- Việc nghiên cứu đề tài là phương pháp tốt để hệ thống và củng cố lại
kiến thức đã được học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />2

- Giúp học viên bước đầu làm, hiểu biết thêm về các kiến thức điều tra
ngoài thực tế, nâng cao kiến thức cả về lý thuyết và thực hành. Từ đó nâng cao
chất lượng học tập làm tiền đề cho mỗi học viên khi ra trường có kiến thức vững
vàng áp dụng vào công tác chỉ đạo sản xuất sau khi tốt nghiệp ra trường.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn sản xuất
- Kết quả nghiên cứu làm cơ sở để đề xuất những giải pháp kỹ thuật tối
ưu nhằm nâng cao năng suất của rừng trồng Bạch đàn tại Tiên Yên nói riêng
và Quảng Ninh nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />3

Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Khái quát về đối tượng nghiên cứu
Tên khoa học: Eucalyptus sp
Bộ: Sim - Myrtales Họ: Sim - Myrtaceae
Tên khác: Khuynh diệp
- Đặc điểm sinh vật học, sinh thái học loài Bạch đàn: Cây Bạch đàn
(Eucalyptus camaldulensis Dehn.) là cây gỗ to, vỏ mềm, bần bong thành

mảng để lộ vỏ thân màu sáng, cành non có 4 cạnh, lá non mọc đối, không
cuống, phiến lá hình trứng, màu lục như phủ sáp. Lá già mọc so le phiến lá
hình liềm hẹp và dài hơn lá non. Phiến lá có túi tiết tinh dầu. Hoa mọc ở nách
lá. Quả hình chén
Dược liệu: Lá hình mũi dáo hay hình lưỡi liềm, cuống ngắn và hơi vặn,
phiến lá dài và hẹp (ở loài E.exserta) giòn và rộng hơn (ở loài E.camaldulensis),
rộng 1 - 5 cm, dài 8 - 18 cm. Hai mặt lá đều có màu xanh ve ít vàng nhạt, lác
đác có nhiều chấm nhỏ màu vàng. Khi soi lá trước ánh sáng thấy rất nhiều túi
tiết tinh dầu nhỏ li ti. Gân cấp hai tỏa ra từ gân giữa, gặp nhau ở mép lá. Khi vò
lá có mùi thơm mạnh đặc biệt, mùi dịu hơn ở loài E. camaldulensis. Vị thơm
nóng, hơi đắng chát, sau có cảm giác mát và dễ chịu.
- Nguồn gốc, phân bố: Cây bạch đàn không phải là loại cây mọc tự
nhiên trong các lâm phận Việt Nam. Loài này xuất xứ từ nước Úc được dẫn
giống bằng hạt đem về trồng ở đất nước ta vào khoảng thập niên 1950 và
cho thấy một số loài rất thích hợp với thổ nghi và khí hậu của Việt Nam,
nhất là có thể trồng tập trung thành rừng thuần hay trồng phân tán trong đất
thổ cư của nhân dân từ vùng đồng bằng cho đến các vùng bình nguyên và
cao nguyên.
Tiền khởi ở Miền Nam, cây Bạch đàn mới du nhập được gọi là cây
Khuynh điệp vì có lá cong cong hình lưỡi liềm. Sau đó ngành lâm nghiệp chế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />4

độ cũ đặt tên là cây Bạc hà vì lá có mùi dầu Bạc hà, nhưng xin đừng nhầm lẫn
với cây rau Bạc hà (Mentha) cùng họ với cây rau Húng.
Sau ngày 30-4-1975, cây Khuynh diệp hay còn gọi là cây Bạc hà được
Bộ lâm nghiệp đặt tên là cây Bạch đàn, có tên khoa học là Eucalyptus spp.
Thuộc họ thực vật Sim (Myrtaceae). Không phải chỉ có một cây Bạch đàn mà
tại tại nước Úc nơi xuất xứ, chi eucalyptus (tức chi Bạch đàn) có ít nhất hơn 70
loài (species) mọc từ các vùng đồng bằng có độ cao ngang mực nước biển cho
đến các vùng bình nguyên cao nguyên, từ các thung lũng đến đèo núi cao.

Ở Việt nam chỉ du nhập khoảng 10 loại bạch đàn như:
+ Bạch đàn đỏ: Eucalyptus camaldulensis thích hợp vùng đồng bằng.
+ Bạch đàn trắng: E.alba, thích hợp vùng gần biển.
+ Bạch đàn lá nhỏ: E.tereticornis, thích hợp vùng đồi thừa thiên - huế.
+ Bạch đàn liễu: E.exserta, thích hợp vùng cao miền Bắc Việt Nam.
+ Bạch đàn chanh: E.citriodora, thích hợp vùng thấp, lá có chứa tinh dầu
mùi sả.
+ Bạch đàn lá bầu: E.globules, thích hợp vùng cao nguyên.
+ Bạch đàn to: E.grandis, thích hợp vùng đất phù sa.
+ Bạch đàn ướt: E.saligna, thích hợp vùng cao nguyên Ðà Lạt.
+ Bạch đàn Mai đen: E. Maidenii, thích hợp vùng cao như lâm đồng.
+ Giá trị trong lĩnh vực Y học: Lá: Có thể dùng lá bạch đàn trắng hoặc
bạch đàn liễu để thay thế lá bạch đàn xanh (E.globulus) là loại đã được sử dụng
rất lâu đời ở các nước châu Âu. Dạng dùng: Thuốc hãm, thuốc xông, hoặc pha
chế thành các dạng bào chế như xiro cồn lá bạch đàn, dùng để chữa ho, sát
khuẩn đường hô hấp, chữa các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp, ho, hen,
Tinh dầu được sử dụng như tinh dầu tràm. Tuy nhiên, đến nay Bạch đàn
ở Việt Nam chưa được khai thác ở qui mô công nghiệp như tràm. Còn ở phạm
vi nghiên cứu thăm dò và đề xuất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />5

Tinh dầu bạch đàn chanh được Khoa tai - mũi - họng - bệnh viên Bạch
Mai sử dụng nhiều trong những năm kháng chiến chống Mỹ để chữa ho, viêm
họng, sát khuẩn đường hô hấp.
Tinh dầu còn được dùng trong kỹ nghệ hương liệu để sản xuất nước hoa
và các loại chất thơm khác có mùi thơm tự nhiên của hoa, có thể thay thế tinh
dầu sả Java (Cymbopogon winterianus).
+ Trong xây dựng: làm cây chống hầm lò.
+ Trong ngành công nghiệp nội thất: làm gỗ ván dăm, đồ gia dụng.
+ Ngành công nghiệp giấy: làm nguyên liệu giấy cao cấp.

Là loại cây đem lại hiệu quả, giá trị kinh tế cao khi đầu tư trồng rừng.
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Những nghiên cứu trên thế giới
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, bước sang thế kỷ XIX ứng
dụng thành tựu khoa học kỹ thuật của các ngành hóa phân tích, hóa thực vật
các nhà khoa học đã vận dụng nguyên lý tuần hoàn vật chất trong chu trình
tuần hoàn vật chất của tự nhiên để áp dụng nghiên cứu sinh khối rừng và bước
đầu đã thu được những thành tựu đáng kể. Riley (1944) [18], Steemann
(1954) [19], Fleming (1957) [16] đã tổng kết quá trình nghiên cứu và phát
triển sinh khối rừng trong các công trình nghiên cứu của mình. Đến năm
1964, Lieth đã thể hiện năng suất trên toàn thế giới bằng bản đồ năng suất,
đồng thời với sự ra đời của chương trình sinh học quốc tế “International
Biology Program” (1964) và chương trình con người và sinh quyển “Man and
Biosphere” (1971) đã tác động mạnh mẽ tới việc nghiên cứu sinh khối.
Những nghiên cứu trong giai đoạn này tập trung vào các đối tượng đồng cỏ,
savan, rừng rụng lá, rừng mưa thường xanh.
Mô hình sinh trưởng từ những biểu đồ đơn giản nhất cho đến những
phần mềm máy tính phức tạp đã và đang là những công cụ quan trọng trong
quản lý rừng (Vanclay, 1998; Pote' and Bartelink, 2002). Sinh khối và hấp thụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />6

các bon có thể được xác định bằng mô hình sinh trưởng. Trên thế giới đã có
rất nhiều mô hình sinh trưởng đã được phát triển và không thể tìm hiểu được
phương pháp cụ thể của mỗi mô hình. Vì vậy cần phải xác định được những
điểm chung để phân loại mô hình (Vanclay, 1998). Rất nhiều tác giả đã cố
gắng để phân loại mô hình theo các nhóm khác nhau với những tiêu chuẩn
khác nhau (Pote' and Bartelink, 2002). Có thể phân loại mô hình thành các
dạng chính sau đây:
1.Mô hình thực nghiệm/thống kê (empirical model) dựa trên những đo
đếm của sinh trưởng và các điều kiện tự nhiên của thời điểm đo đếm mà

không xét đến các quá trình sinh lý học.
2.Mô hình động thái (process model)/mô hình sinh lý học mô tả đầy đủ
các cơ chế hóa sinh, lý sinh trong hệ sinh thái và sinh vật (Constable and
Friend, 2000).
3.Mô hình hỗn hợp (hybrid/mixed model), kết hợp phương pháp xây
dựng hai loại mô hình trên đây để xây dựng mô hình hỗn hợp.
Mô hình thực nghiệm đòi hỏi ít tham số (biến số) và có thể dễ dàng mô
phỏng sự đa dạng về quản lý cũng như xử lý lâm sinh, nó là công cụ định
lượng sử dụng có hiệu quả và phù hợp trong quản lý và lập kế hoạch quản lý
rừng (Landsberg and Gower, 1997; Vanclay and Skovsgaard, 1997; Vanclay,
1998). Phương pháp này có thể phù hợp để dự đoán sản lượng ngắn hạn trong
khoảng thời gian mà các điều kiện tự nhiên cho sinh trưởng của rừng được
thu thập số liệu tạo nên mô hình vẫn chưa thay đổi lớn. Mô hình thực nghiệm
thường được thể hiện bằng các phương trình quan hệ hoặc phương trình sinh
trưởng dựa trên số liệu sinh trưởng đo đếm thực nghiệm mà thông thường
không xét đến ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố môi trường vì các ảnh
hưởng này được coi như đã được tích hợp vào sinh trưởng của cây. Đối với
mô hình thực nghiệm, các phương trình sinh trưởng và biểu sản lượng có thể
phát triển thành một biểu sản lượng sinh khối hoặc các bon tương ứng. Tuy
nhiên, mô hình sinh trưởng thực nghiệm không đầy đủ. Chúng không thể sử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />7

dụng để xác định hệ quả của những thay đổi của điều kiện môi trường đến hệ
sinh thái và cây như sự tăng lên của nồng độ khí nhà kính, nhiệt độ, hoặc chế
độ nước… (Landsberg and Gower, 1997; Peng et al., 2002).
Mô hình động thái mô phỏng quá trình sinh trưởng, với đầu vào là các
yếu tố cơ bản của sinh trưởng như ánh sáng, nhiệt độ, dinh dưỡng đất,… mô
hình hóa quá trình quang hợp, hô hấp và sự phân phát những sản phẩm của
các quá trình này trên rễ, thân và lá (Landsberg and Gower, 1997; Vanclay,
1998). Nó còn gọi là mô hình cơ giới (mechanistic model) hay mô hình sinh

lý học (physiological model). Mô hình động thái phức tạp hơn rất nhiều so
với mô hình thực nghiệm nhưng có thể sử dụng để khám phá hệ quả của sự
thay đổi môi trường đến hệ sinh thái, sinh vật (Dixon et al., 1990; Landsberg
and Gower, 1997). Tuy nhiên, mô hình động thái cần một số lượng lớn các
tham số (biến số) đầu vào, nhiều tham số lại không dễ đo, cần thời gian dài để
đo và/hoặc không thể đo được với cá điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật ở các
nước đang phát triển (vd. Mô hình nổi tiếng CENTURY mô phỏng động thái
cácbon trong hệ sinh thái rừng và nông lâm kết hợp cần tới hơn 600 tham số
đầu vào (Ponce-Hernandez, 2004)).
Cho đến nay trên thế giới đã có rất nhiều mô hình động thái hay mô hình
hỗn hợp được xây dựng để mô phỏng quá trình phát triển của hệ sinh thái
rừng như BIOMASS, ProMod, 3 PG, Gen WTO, CO
2
Fix, CENTURY…
(Landsberg and Gower, 1997; Snowdon et al., 2000; Schelhaas et al., 2001).
Trong trường hợp không đủ số liệu đầu vào thu thập được từ các quá trình tự
nhiên của hệ sinh thái và cây, để sử dụng các mô hình này, người ta phải sử
dụng hàng loạt các giả định (assumptions), chính vì vậy tính chính xác của
mô hình phụ thuộc rất nhiều vào các sự phù hợp của các giả định này đối với
đối tượng nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />8

Đánh giá Keo lai tại Sabah một cách tổng hợp, Pinso và Nasi (1991) thấy
cây lai có ưu thế lai và ưu thế lai này có thể chịu sự ảnh hưởng của cả yếu tố
di truyền lẫn điều kiện lập địa. Họ cũng thấy sinh trưởng của cây Keo lai tự
nhiên đời F
1
tốt hơn xuất xứ Sabah của Keo tai tượng, song kém hơn xuất xứ
ngoại lai như Oriomo (Papua New Guinea) hoặc Claudie River (Queesland,
Australia), còn sinh trưởng của những cây đời F

2
trở đi thì không đồng đều so
với trị số trung bình và còn kém hơn cả Keo tai tượng, mặc dầu một số cây có
khá hơn.
Từ năm 1991, khảo sát của Cyril Pinso đã cho thấy Keo lai có rất nhiều đặc
trưng nổi bật so với bố mẹ là nó sinh trưởng nhanh, hình thân có độ thẳng trung
gian giữa hai loài bố và mẹ, chất lượng gỗ khá hơn so với loài A.mangium. Khi
đánh giá các chỉ tiêu chất lượng của cây Keo lai Pinso và Nasi (1991) thấy rằng
độ thẳng thân, đoạn thân dưới cành, độ tròn đều của thân, ở cây Keo lai đều tốt
hơn 2 loài keo bố mẹ và cho rằng Keo lai rất phù hợp cho trồng rừng thương
mại. Cây Keo lai còn có ưu điểm là có đỉnh ngọn sinh trưởng tốt, thân cây đơn
trục và tỉa cành tự nhiên tốt (Pinyopusarerk, 1990).
Từ đại hội lần thứ XV của tổ chức các cơ quan nghiên cứu lâm nghiệp
quốc tế (IUFRO) tới nay, vấn đề mô hình hoá quy luật sinh trưởng và sản
lượng rừng đã được tranh luận rộng rãi và ngày càng hoàn thiện. Có nhiều
khái niệm hoặc định nghĩa về sinh trưởng, nhưng theo V. Bertalanfly thì: Sinh
trưởng là sự tăng lên của một đại lượng nào đó nhờ kết quả đồng hoá của một
vật sống. Trong sản lượng rừng, sinh trưởng được hiểu là sự biến đổi theo
thời gian của một đại lượng nào đó của cây cá lẻ hoặc của lâm phần. Sinh
trưởng có nghĩa là thay đổi về số lượng, kích thước, trọng lượng, thể tích theo
thời gian một cách liên tục.
Nhiệm vụ của nghiên cứu sinh trưởng là phải giải quyết các vấn đề sau:
- Quy luật sinh trưởng cây cá lẻ và lâm phần.
- Mô hình hoá quá trình sinh trưởng, dự đoán năng suất và sản lượng rừng.
- Sự phụ thuộc của sinh trưởng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />9

- Động thái sinh khối.
Nghiên cứu những quy luật cấu trúc lâm phần nói chung, quy luật sinh
trưởng cá thể nói riêng, là tạo lập cơ sở khoa học để dự đoán sản lượng rừng.

Lịch sử phát triển của khoa học sản lượng rừng bắt đầu từ thế kỷ XIX và gắn
chặt với tên tuổi và tác phẩm của những nhà khoa học: Baur, Borggreve,
Braymann, Cotta, H.Danckelmann, Draudt, Hargtig, Weise, Tiurin(1936,
1948, 1956), Chapman và Meyr (1949), Assmann (1954, 1961, 1970).
Giữa thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20, nhiều học thuyết về lập địa, về sinh
thái học, những quan điểm mới về cấu trúc ra đời, đã làm sáng tỏ rằng: Sinh
trưởng của cây rừng và lâm phần phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có biện
pháp tác động và môi trường. Mỗi tác giả đều có hướng nghiên cứu và giải quyết
vấn đề khác nhau, song mục đích chung là, tìm hiểu những quy luật sinh trưởng,
quy luật cấu trúc lâm phần, mối liên hệ giữa sinh trưởng và sản lượng để mô
phỏng những quy luật đó bằng các mô hình toán học.
Trên thế giới, cho đến nay số lượng hàm toán học mô tả quá trình sinh trưởng
rất phong phú, dưới đây thống kê một số hàm sinh trưởng đã được sử dụng:
Tác giả Năm Dạng hàm
Gompertz 1825 y = m.EXP(-c
1
.EXP(-b.x)
Verhull 1845 y = m/(1-EXP(-m.b(x-k))
Mitscherlich 1919 y = m.(1-EXP(-c
2
.x)
3

Kovessi 1929 y = m.(1-EXP(-c
2
.x) + c
3
(EXP(-c
2
.x)-EXP(-c

1
.x)
Petterson 1929 y = m-m
1
(1- EXP(-t/2).dt/2
Levacovic 1935 y = m.t
n
EXP(-t).dt/(n+1)
Korsun 1935 y = m.EXP(a/2)(lnX-lnK)
Peshel 1938 y=m.(1-(c
2
.EXP(c
1
.x)-c
1
EXP(-c
2
.x)/(c
2
-c
1
)
Korf 1939 y = m.EXP(-c
1
.x
-c2
)
Ve rkbulet 1952 y = m/(1 + EXP(a(x-b)))
Michailov 1953 y = m.EXP(-c
1

/x)
Drakin 1957 y = m.a(1-EXP(-k.x))
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />10

Richards 1959 y = m.(1-c
1
EXP(-c
2
.x).c
3
)
Thomasius 1965 y = m.(1-EXP(-c
1
.x(1-EXP(c
2
.x)))
n
Simex 1966 y = m.EXP(-c
1
.(x
-c2
+k
-c2
(c
2
x/(k-c
2
-1)))
Sless 1970 y = a.x
b

Sloboda 1971 y = m.EXP (c
1
(1-exp(b.x
-c2
)))
Schumacher 1980 y = m.EXP(-b/A
k
)
+ Nghiên cứu về cấp đất
Trong lĩnh vực sản lượng rừng, cấp đất được coi là một chỉ tiêu dùng để so
sánh và đánh giá sức sản xuất của các lâm phần. Trên thế giới, trải qua một thời
gian dài hình thành và phát triển, cấp đất được xây dựng theo nhiều quan điểm
khác nhau. Đầu tiên, người ta nghiên cứu tìm những nhân tố có tính chất nguyên
nhân chủ đạo, ảnh hưởng rõ rệt đến quá trình sinh trưởng của cây rừng như: Khí
hậu, địa hình, đất… Các nhân tố sinh thái luôn luôn tác động và ảnh hưởng tổng
hợp đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cây rừng, hơn nữa việc tiến hành
nghiên cứu xác định các nhân tố đó hết sức khó khăn, đòi hỏi phải có quá trình
theo dõi lâu dài và liên tục mà kết quả chưa chắc đã phản ánh quy luật sinh
trưởng và phát triển của rừng. Vì vậy, cho dù có xác định được nhân tố chủ đạo,
thì nhân tố này lại chịu tác động qua lại một cách tổng hợp với các nhân tố khác
mà qua đó tác động đến rừng. Do đó, đi theo hướng nghiên cứu này đã không
đạt kết quả mong muốn. Lại có quan điểm cho rằng, cấp đất là chỉ tiêu biểu thị
cho mức độ tốt xấu của đất, tức là chỉ đơn thuần dựa vào những tính chất lý, hoá
của đất. Cách hiểu này chỉ phù hợp với quan điểm phân chia cấp đất dựa trên
điều kiện lập địa. Nếu hiểu cấp đất theo cách này thì, cấp đất đồng nghĩa với
điều kiện lập địa hoặc độ phì như trong lĩnh vực đất rừng thì lại gặp phải những
hạn chế như đã nêu ở trên.
Tiếp theo, là hướng tìm ra hệ quả của sự tác động tổng hợp của các nhân
tố hoàn cảnh, tức là dùng kết quả để phản ánh nguyên nhân. Cụ thể căn cứ
vào trị số sản lượng và các chỉ tiêu có quan hệ chặt chẽ với sản lượng để phân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />11

chia sức sản xuất của lâm phần như trữ lượng, tăng trưởng trữ lượng…
Hướng nghiên cứu này tỏ ra có hiệu quả và được nhiều nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu và sử dụng.
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về sinh trưởng, phân
chia cấp đất làm cơ sở cho việc xây dựng các biểu quá trình sinh trưởng với
những mô hình toán học chặt chẽ, song mới tập trung vào đối tượng rừng
trồng thuần loài đồng tuổi. Nội dung chính của việc phân chia cấp đất là xác
định nhân tố biểu thị cấp đất và mối quan hệ của nó với tuổi, đồng thời có
quan hệ mật thiết với trữ lượng lâm phần, ít chịu ảnh hưởng của biện pháp tỉa
thưa trong quá trình nuôi dưỡng rừng. Qua nghiên cứu nhiều tác giả đã khẳng
định: Chiều cao của lâm phần ở một tuổi xác định là chỉ tiêu biểu thị tốt cho
sức sản xuất của lâm phần.
Theo Erichhorn (1904) các lâm phần sinh trưởng trên các điều kiện lập địa
khác nhau sẽ có cùng trữ lượng nếu chúng có cùng chiều cao bình quân. Trong
thực tế, có nhiều loại chiều cao bình quân lâm phần. Để lập biểu cấp đất việc sử
dụng chỉ tiêu chiều cao bình quân nào còn tuỳ thuộc vào từng đối tượng cụ thể.
Tại các nước châu Á, châu Phi người ta thường sử dụng chiều cao bình
quân tầng ưu thế (h
0,
h
100
, h
200
) ở tuổi nhất định để phân chia cấp đất. Theo
Alder (1980) thì đối với rừng đơn giản vùng nhiệt đới, đôi khi chiều cao ưu
thế không phải là chỉ tiêu thích hợp để phân chia cấp đất. Trường hợp này
thường xuất hiện ở những lâm phần non của các loài cây sinh trưởng nhanh
và những loài cây có biến động mạnh về sinh trưởng chiều cao, với chu kỳ

kinh doanh ngắn và không qua tỉa thưa thì, chiều cao bình quân lâm phần (hg)
lại là chỉ tiêu thích hợp.
Khi xác định mô hình sinh trưởng chiều cao theo tuổi để ứng dụng vào
lập biểu cấp đất, người ta thường sử dụng các hàm sinh trưởng để mô tả quy
luật sinh trưởng chiều cao theo tuổi của lâm phần. Hàm sinh trưởng là mô
hình sinh trưởng đơn giản nhất được sử dụng để mô tả quá trình sinh trưởng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />12

của cây rừng cũng như lâm phần. Dựa vào hàm sinh trưởng có thể tính trước
được giá trị lớn nhất của đại lượng sinh trưởng ở tuổi cuối cùng và có thể tính
trước được tốc độ sinh trưởng cực đại.
Marschall cũng như nhiều tác giả khác khẳng định rằng quy luật sinh
trưởng chiều cao của mỗi loài cây ở các vùng khác nhau có sự khác biệt rõ
nét. Từ đó ứng với một kiểu sinh trưởng chiều cao, cần xác lập một hệ thống
cấp đất tương ứng. Như vậy, ứng với một hệ thống cấp đất cần thiết phải thiết
lập một phương trình sinh trưởng chung, đại diện cho sinh trưởng chiều cao
bình quân. Từ phương trình này phân thành các đường cong sinh trưởng khác
nhau gọi là đường cong chỉ thị cấp đất. Để xác lập đường cong cấp đất có thể
bằng phương pháp biểu đồ hoặc phương pháp hồi quy. Phương pháp biểu đồ
mặc dù độ chính xác không cao, nhưng đơn giản, nhanh chóng phân chia cấp
đất cho đối tượng nào đó ngoài thực tế. Do vậy, phương pháp này phù hợp
cho công tác điều tra nhanh ngoài thực địa và nó còn được sử dụng để sơ bộ
phân đối tượng nghiên cứu thành các cấp đất khác nhau làm đơn vị tập hợp số
liệu phục vụ cho việc xác lập đường cong cấp đất theo phương pháp hồi quy.
Phương pháp hồi quy có ưu điểm là hoàn toàn khách quan, các đường
cong được xác lập có độ chính xác cao và số liệu không đòi hỏi lớn. Độ chính
xác của phương pháp chủ yếu phụ thuộc vào mức độ phù hợp của mô hình
toán học, cũng như độ chính xác khi ước lượng các tham số của mô hình.
1.2.3. Những nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.3.1. Những nghiên cứu về sinh trưởng

Ở Việt Nam, GS. Vũ Đình Phương (1970, 1972), Nguyễn Ngọc Lung
(1984, 1989) lần đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống các quy luật sinh
trưởng, năng suất, sản lượng rừng cây mọc nhanh, áp dụng cho Thông ba lá
bằng phương pháp mô hình hoá, đã lập các bảng biểu dự đoán sinh trưởng, sản
lượng không phải bằng số mà bằng một chương trình trên máy tính với đầu vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />13

là cấp đất và tuổi còn đầu ra là các chỉ tiêu mà chủ rừng quan tâm như: Tuổi tỉa
thưa, năng suất, phẩm chất, tuổi khai thác chính
Quá trình phát triển của khoa học tăng trưởng và sản lượng rừng có thể
được khái quát thành 2 phương hướng chính:
- Đo lặp các chỉ tiêu sinh trưởng trong các ô định vị đại diện cho các lâm
phần nghiên cứu để biết cả quá trình phát sinh, phát triển, già cỗi, tiêu vong.
Phương hướng này có độ chính xác cao nhưng đòi hỏi tốn kém nhiều thời
gian, công sức. Sau này được cải tiến bằng cách lựa chọn những lâm phần có
cùng hoàn cảnh sinh trưởng nhưng khác nhau về cấp tuổi gọi là nằm trong
một “dãy phát triển tự nhiên”, tức là lấy không gian thay thế thời gian.
- Giải tích thân cây đại diện cho mỗi lâm phần khác nhau về các nhân tố
cần nghiên cứu, để có số liệu tăng trưởng đầy đủ từ khi trồng. Phương pháp
này ngày càng được cải tiến, hoàn thiện để có kết quả trong một thời gian
ngắn, khi đó phương hướng thứ nhất được sử dụng lâu dài hơn làm đối chứng
và để kiểm tra.
Trong thực tiễn các nhà lâm nghiệp khi nghiên cứu tăng trưởng, sản
lượng rừng đã thường xử lý khác nhau, thứ nhất, là cách xác định dãy phát
triển tự nhiên để đặt ô tiêu chuẩn đại diện. Thứ hai, là phương pháp thu thập
và xử lý số liệu, Anotchin (1982) lấy ví dụ có các phương pháp thống kê toán
học của Baur, phương pháp phân tích của Hartig, phương pháp xử lý
Tretchiakov các phương pháp đều tính toán các chỉ tiêu tăng trưởng như
lượng tăng trưởng thường xuyên Z
t

, suất tăng trưởng Z
t
%, lượng tăng trưởng
bình quân chung ∆
t
theo con số đứt quãng với khoảng thời gian là 5, 10 hoặc
20 năm. Thứ ba, ngày nay phương pháp mô hình hoá sinh trưởng rừng và
năng suất rừng trong vòng 20 năm qua đang khắc phục được các nhược điểm
đã nêu. Phương pháp thứ ba có các đặc điểm sau đây:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />14

- Có thể kiểm tra độ chính xác của hàm số đặc trưng sinh trưởng, đây là
điểm xuất phát ban đầu mô hình hoá quá trình sinh trưởng.
- Tất cả các chỉ tiêu tăng trưởng nói trên được tính toán bằng phương
pháp giải tích từ hàm sinh trưởng, tránh được mọi sai số do phân cấp thời
gian, nắn tròn số lẻ, hoặc các sai số do sử dụng công thức gần đúng.
- Việc biểu thị các chỉ tiêu tăng trưởng và năng suất rừng, thậm chí cả
biểu sản lượng là biểu quan trọng nhất để dự báo năng suất sản lượng cũng ở
dạng mô hình bằng một chương trình phù hợp. Điều đó cho phép thu được
đầy đủ nhất những thông tin mong muốn chi tiết khi biến số thời gian là một
vô cùng bé, do đó đảm bảo tính liên tục của quá trình sinh trưởng.
Theo Armitage và Burley (1980) khi tổng kết các công trình nghiên cứu
Thông ba lá trên thế giới đã thấy các nghiên cứu về tăng trưởng sản lượng
rừng đều chia theo cấp đất, như Wightman (1969) tại Zimbabue; Revila,
Bonita (1976) tại Philippines. Anders (1978) trên cơ sở 102 cây giải tích tại
Đà Lạt, đã lập một biểu đánh giá năng suất bình quân trên ha cho lâm phần
chuẩn phụ thuộc chiều cao bình quân, trong đó quan trọng nhất là lượng gỗ
lớn xuất khẩu được tính toán tại tuổi khai thác chính cho tất cả các điều kiện
lập địa mà không phân chia lại cấp đất, đó là nhược điểm của biểu duy nhất
lập cho Thông ba lá Tây Nguyên. Viên Ngọc Hùng (1985) và Nguyễn Ngọc

Lung (1989) đã tiến hành lập biểu cấp đất cho Thông ba lá ở Tây Nguyên, đây
được xem là cơ sở để xây dựng mô hình sinh trưởng và sản lượng rừng thông.
GS.TS Vũ Tiến Hinh khi lập biểu quá trình sinh trưởng KLT đã lập biểu
cấp đất với chỉ tiêu phân chia cấp đất là chiều cao bình quân của 20% số cây
có đường kính lớn nhất trong lâm phần.[4] Với KLT, tổng tiết diện ngang của
20% số cây có đường kính lớn nhất trong lâm phần chiếm từ 34 đến 35 %
tổng tiết diện ngang lâm phần, như thế, tương ứng với tổng tiết diện ngang
của một cấp kính khi lâm phần được chia thành 3 cấp có tổng tiết diện ngang
bằng nhau. Từ đó, h
0


chiều cao của cây có tiết diện bình quân của cấp kính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />15

thứ 3 (h
3
) sẽ xấp xỉ nhau. Qua kiểm tra quan hệ giữa h
0
với h
3
cho thấy hệ số
tương quan là rất chặt r bằng 0,9996, tham số a không tồn tại, tham số b bằng
1. Như vậy, về lý luận và thực tế cho phép dùng h
3
thay cho h
0
.
Khi xây dựng mô hình trữ lượng cho loài KLT tác giả đã lựa chọn mô hình:
lnM = - 6,26021 + 2,64127lnh

0
+ 0,5319lnN
Phương trình có hệ số tương quan rất cao r bằng 0,981, từ đó tác giả đưa
ra kết luận: Ngoài nhân tố h
0
và N có thể bỏ qua các nhân tố khác khi xác định
M cho các lâm phần KLT. Mô hình tổng diện ngang và mô hình tổng diện
tích tán lâm phần đều được tác giả xác định thông qua h
0
và mật độ của lâm
phần. Từ kết quả xây dựng các mô hình sản lượng tác giả đã lập biểu quá
trình sinh trưởng cho loài KLT.
Bùi Việt Hải (1998), khi nghiên cứu sinh trưởng KLT ở miền Đông Nam
Bộ đã rút ra kết luận: Mật độ trồng rừng khác nhau có ảnh hưởng không rõ
đến sinh trưởng đường kính và chiều cao, nhưng có ảnh hưởng rõ đến sinh
trưởng của đường kính tán khi qua tuổi 5. Các loại đất khác nhau có ảnh
hưởng đến sinh trưởng D
1.3
, H
VN
. Mô hình sinh trưởng về D
1.3
, H
VN
và D
t
đều
có thể vận dụng hàm Shumacher bằng cách thay đổi hệ số k khác nhau. Có
thể chọn k= 0,25 - 0,35 cho hàm sinh trưởng D
1.3

, D
t
, k = 0,6-0,8 cho hàm
sinh trưởng H
VN
. Các hàm sinh trưởng là đường cong tăng và tăng nhanh ngay
từ những năm đầu, mang đặc tính chung của các loài cây ưa sáng.
Trịnh Đức Huy (1998) khi nghiên cứu quy luật sinh trưởng rừng Bồ đề
vùng Trung tâm ẩm đã kết luận:
- Sinh trưởng chiều cao ít phụ thuộc mật độ. Hàm sinh trưởng chiều cao
theo tuổi có độ chính xác cao nhất là dạng hàm Gompertz
H
bq
= 30Exp (-2,0354416 Exp (-0,1826A))
- Sinh trưởng chiều cao theo tuổi và các nhân tố sinh thái (chỉ số khô hạn
SAD, nguồn gốc đất trồng rừng TBC, độ dày tầng đất mặt DAY) khác:
lnHbq = 6,676-3,684/A
0,3
- 0,3087lnSAD-0,0589lnTBC +0,1389ln DAY
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />16

có hệ số tương quan rất cao (0,989), phản ánh được những đặc điểm sinh
trưởng chiều cao theo những đặc trưng sinh thái khác nhau của rừng Bồ đề.
- Sinh trưởng đường kính bình quân và và trữ lượng rừng Bồ đề cũng
chịu ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái như trên, và thêm nhân tố mật độ
rừng. Phương trình sinh trưởng đường kính có hệ số tương quan cao nhất là
0,932 và phương trình trữ lượng là 0,896. Ảnh hưởng của các nhân tố đối với
sinh trưởng đường kính và trữ lượng có thể xếp theo thứ tự giảm dần như sau:
tuổi, mật độ, (SAD-TBC), DAY.
- Trữ lượng rừng có quan hệ chặt chẽ với chiều cao bình quân, tổng diện

ngang, mật độ và đường kính bình quân:
lnM = -0,3444 + 0,9938 lnG + 0,9012lnH
M = -126,6 +12,43H + 0,03742 N
lnM = 1,321 + 1,319lnG
Trần Hậu Huệ (1996), nghiên cứu sinh trưởng của KLT tại lâm trường
Trị An tỉnh Đồng Nai, đã sử dụng hàm Schumacher để mô phỏng quy luật
sinh trưởng đường kính và chiều cao. Phương trình lập được là:
D = 6,555483.e
-6,955073/x^-0,25
R = 0,963
H = 8,449679.e
8,068782.x^-0,16
R = 0,9703
Lấy đạo hàm bậc nhất hàm Schumacher sẽ có được lượng tăng trưởng
thường xuyên hàng năm về đường kính và chiều cao.
Tóm lại, Những công trình nghiên cứu về sinh trưởng cũng như các hàm
toán học mô tả quy luật sinh trưởng của cây rừng và lâm phần rất phong phú
và đa dạng. Tuỳ từng loài cây, điều kiện cụ thể mà có thể sử dụng các hàm
toán học khác nhau để mô tả quy luật sinh trưởng. Với loài cây Keo lá tràm ở
các tỉnh miền Trung và khu vực Đông Nam Bộ các tác giả đều sử dụng hàm
Schumacher để mô tả quy luật sinh trưởng. Đây sẽ là cơ sở để vận dụng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu />17

×