Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

591 Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp thương mại 

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.02 KB, 9 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, cùng với những tiến bộ khoa hoc kỹ thuật phát
triển nhanh chóng và cuộc Cách mạng công nghệ đang từng bước làm thay đổi
bộ mặt sản xuất và đời sống xã hội, vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
trong ngành thương mại là một nhu cầu không thể thiếu đối với bất kỳ một quốc
gia nào.
Nhà kinh tế học James L.Hages đã nói rằng : “ Không còn là vấn đề
chúng ta muốn hay không mà là chúng ta nên phát triển tài nguyên nhân sự
….phát triển tài nguyên nhân sự là vấn đề sống còn của chúng ta” và đang trở
thành mục tiêu được quan tâm hàng đầu trong chính sách phát triển đất nước
trong thời kỳ CNH-HĐH.Hiện nay, nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp
thương mại ngày càng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế
nhưng cũng đang trong tình trạng khó khăn, thiếu hụt nhưng người lao động có
trình độ, năng lực, kỹ năng. Chính vì vậy chúng ta cần phải đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nguồn nhân
lực trong doanh nghiệp thương mại.
1
NỘI DUNG
Phần I : Khái quát về cơ sở lý luận của nguồn nhân lực trong doanh
nghiệp thương mại.
Nguồn nhân lực hoạt động trong ngành thương mại là một bộ phận cấu
thành lao động trong nền kinh tế quốc dân, thực hiện đưa hàng hoá từ nơi sản
xuất đến nơi tiêu dùng và cung ứng dịch vụ thương mại cho xã hội. Cùng với
quá trình hội nhập, công nghiệp tiên tiến dẫn tới hàng loạt ngành công nghiệp
mới ra đời. Vì vậy chất lượng đội ngũ nguồn nhân lực cần hướng vào đào tạo
phát triển nguồn nhân lực.
Khái niệm phát triển nguồn nhân lực bao gồm các hoạt động học tập
trang bị kiến thức kỹ năng để cho người lao động làm công việc khó khăn phức
tạp hơn và để phát triển sự nghiệp của mình. Đào tạo nguồn nhân lực là quá
trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động,
để họ có thể đảm nhận được một công việc nhất định.


Trên bứơc đường CNH-HĐH, cái cốt lõi vẫn là khẳng định vai trò không
thể thiếu công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, xác định nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc phát triển đất
nước. Cùng với sự phát triển hàng hoá và lưu thông hàng hoá, số lượng lao động
trong ngành thương mại ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng khá lớn trong
tổng số lao động đang làm việc trong ngành kinh tế quỗc dân. Lao động trong
ngành thương mại là bộ phận lao động cần thiết phục vụ và thúc đẩy nhanh quá
trình tái sản xuất xã hội. Nó được chuyên môn hoá tổ chức lưu thông hàng hóa
nên giải phóng lao động sản xuất khỏi việc thực hiện chức năng lưu thông hàng
hoá và tập trung vào sản xuất, góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội,
nắm chắc nhu cầu thị trường.
2
* Các nhân tố tác động tới công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực
của Việt Nam trong điều kiện hội nhập
* Cơ chế thị trường
Việt Nam đang trên bước đường đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ một
nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang một nền kinh tế theo cơ chế thị
trường có sự quàn lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Đây là sự
đổi mới quan trọng tác động mạnh, đến mọi hoạt động kinh tế, xã hội, trong đó
có giáo dục và đào tạo.Cơ chế thị trường tác động mạnh mẽ đến đội ngũ lao
dộng trên các mặt chủ yếu sau đây :
Sức lao động đã trở thành hàng hoá
Khi sức lao động trở thành hàng hoá dãn đến việc chập nhận sự cạnh
tranh trên thị trường lao động, người lao động muốn có việc làm phải không
ngừng học tập, nâng cao trình độ đề khỏi tụt hậu phấn đấu để sức lao động luôn
luôn là hàng hoá có chất lượng hàng đầu, mặt khác phải thường xuyên nâng cấp
để thích ứng với yêu cầu của thị trường lao động.Sự cạnh tranh gay gắt trong
mục tiêu nâng cao năng suất, chất lương, hiệu quả của nhiều thành phần kinh tế
trong cơ chế thị trường dòi hỏi người lao động phải hết sức năng động và phải
không ngừng hoàn thiện kién thức và kỹ năng lao động để đáp ứng nhu cầu thị

trường đang không ngừng biến đổi.Khái niệm “học một nghề cho cả đời " ngày
nay đã trở nên lạc hậu và được thay thế vào đó là khái niệm “học suốt đời "
Cơ chế thị trường đòi hỏi phải thay thế phương pháp quản lý
Trong cơ chế quan liêu bao cấp, mọi việc được thực hiện theo kế hoạch
đã dược Nhà nước giao từ mặt hàng sản xuất, ngân sách, các điều kiện sản
xuát... tiêu thụ sản phẩm, vì thế người quản lý trở nên thụ động, máy móc,
thiếu sáng tạo.Nhưng với cơ chế hiện nay, tiếp thị trở thành lĩnh vực quan trọng
năng lực hiểu biết đáp ứng với cơ chế thị trường.
3
* Chủ trương mở cửa của Nhà nước.
Đây là một chủ trương quan trọng để tạo mọi thuận lợi cho đất nước ta
tiếp cận được với nền văn minh, nền sản xuất hiện đại của thế giới để có dịp học
hỏi và tìm cách vươn lên đuổi kịp và vượt họ.Chính sách mở cửa phải di cùng
với nó là một đội ngũ lao động từ người thư ký văn phòng, phiên dịch, người
công nhân...có năng lực, phẩm chất đủ để làm việc với đối tác nước ngoài. Vấn
đề này ngày càng trở nên cấp thiết hơn đặc biệt trong giai đoạn hội nhập.
* Chủ trương CNH-HĐH đất nước
Cách mạng công nghệ dang làm thay đổi tính chất và nội dung lao động
nghề nghiệp của người lao động.
Cách mạng công nghệ dẫn đến việc sử dụng những công cụ, phương tiện
hiện đại, phức tạp đã làm tăng dần tính chất lao đọng trí óc, giảm dần các nhóm
thao tác lao động chân tay. Chẳng hạn việc dùng máy tịên bán tự động thì thời
gian người công nhân dùng để quan sát, theo dõi các hoạt động của máy chiếm
40% thời gian làm việc trên máy.Đòi hỏi người lao đọng chẳng những phải đổi
mới tri thức hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo mà còn phải nâng cao trình độ hiểu biết.
Phần II : Tình hình thực tiễn của nguồn nhân lực trong doanh nghiệp
thương mại
Thực trạng về vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam
hiện nay còn gặp rất nhiều vấn đề khó khăn. Một số con số nói lên tình hình bật
cập : trong khi gần một nửa dân số là lực lượng lao động thì hơn 85%là lao động

phổ thông chưa qua đào tạo. Cơ cấu sử dụng và phân bổ lực lượng lao động đã
qua đào tạo còn nhiều bất cập. Số công nhân có tay nghề cao ít hơn cả số người
có bằng cấp đại học và sau đại học. Tỷ lệ lao động có trình độ đại học, kỹ thuật
viên nước ta là 1:1,5:2.5 so với các nước Đông Nam á là 1:4:10. Theo số liệu
thống kê tính đến 2002, tỷ lệ thất nghiệp của khu vực thành thị là 6% vẫn còn
cao so với mức phổ biến của các nước trên thế giới. Tình trạng thiếu nghề
nghiệp ở nông thôn vẫn diễn ra khá phổ biến ở trong cả nước. Điều này chứng tỏ
4
tỷ lệ đào tạo ở nước ta quá nhiều cử nhân trong khi có quá ít công nhân và kỹ
thuật viên có thề giải thích các lý do sau :
+ Trước hết nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị
cao và hệ số sử dụng thời gian lao động thực tế ở nông thôn vẫn còn thấp : là đại
bộ phận lao động của nước ta chưa qua đào tạo nghề nên khó có thể tìm được
việc làm.
+ Còn trong số những người đã qua đào tạo, có sự mất cân đối về cơ cấu.
Tình trạng khan hiếm công nhân kỹ thuật có tay nghề cao là rất phổ biến và kéo
dài, gây ra nhiều khó khăn cho người lao động cũng như doanh nghiệp.
+Do quy mô đào tạo ở các trường trung học dạy nghề quá nhỏ trên 50%,
số trường có quy mô đào tạo dưới 50% học sinh / năm.
+ Tư tưởng coi trọng bằng cấp còn tồn tại và thể hiện ở chỗ cha mẹ cố lo
cho con cái vào đại học bằng mọi giá, họ cho rằng chỉ có học đại học mới có cơ
hội làm quan mà không nghĩ rằng học xong sẽ làm gì ?
+Hệ thống đãi ngộ và việc làm hiện nay chưa khuyến khích lao động làm
việc tại nông thôn. Nhiều con em vốn từ nông thôn, đã qua đào tạo, dù không có
việc làm cũng cố ở lại thành thị để chờ thời cơ. Thực tế này không chỉ làm xói
mòn các kiến thức đã được đào tạo và lãng phí nguồn lực mà còn tạo xu thế kém
phát triền lâu dài ở các vùng nông thôn rộng lớn.
+Vấn đề bức xúc nhất là tình trạng thiếu tay nghề thích hợp, thiếu vốn,
thiếu trang thiết bị làm việc để thu hút lao động.
+Kế hoạch và chương trình giải quyết việc làm của các cấp chưa cụ thể,

chưa đồng bộ và chưa bám sát các vấn đề thực tiễn nên kết quả và chất lượng
giải quyết việc làm chưa cao.
Phần III : Giải pháp nâng cao hiệu quả nguồn nhân lực trong doanh
nghiệp thương mại.
Hiện nay nước ta là thành viên Hiệp hội ASEAN và đang từng bước tiến
ra hội nhập Tổ chức thương mại thế giới. Vì vậy nước ta cần phải giải quyết cấp
5

×