Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

597 Nguồn nhân lực chất lượng cao, lợi thế, thách thức & xu hướng phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.71 KB, 42 trang )


A- LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nguồn nhân lực là
nhân tố trung tâm, có vai trò quyết định đối với tăng trưởng và phát triển của nền
kinh tế. Nguồn nhân lực con người với tiềm năng tri thức là lợi thế cạnh tranh
của các công ty, ngành và nền kinh tế.
Cùng với việc trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại thế giới,
Việt Nam như một con rồng châu A đang vươn mình với nhiều lợi thế như tốc độ
kinh tế cao, nguồn nhân lực dồi dào trong đó có đến 50% lao động trẻ dưới 30
tuổi.. Tuy nhiên, “nguồn nhân lực Việt Nam tuy thừa mà vẫn thiếu- thừa lượng,
thiếu chất”. Nổi cộm lên là vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay đang
thiếu hụt trầm trọng. Nguồn nhân lực chất lượng cao(NNLCLC) là nhân tố quyết
định sự thành công của quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế
tri thức ở VN trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Quốc gia nào có chiến
lược đúng đắn trong việc phát huy nguồn lực con người, chuẩn bị đựơc
NNLCLC dựa trên nền tảng tri thức hiện đại thì nền kinh tế của quốc qia đó sẽ
gia tăng mạnh mẽ năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu và phát triển
bền vững. Xã hội nào có nhiều lao động có trình độ cao thì xã hội đó càng thêm
văn minh.
Đề tài này đi sâu vào các vấn đề lý luận và thực tiễn của nguồn nhân lực chất
lượng cao được phân tích theo hệ thống các yếu tố cấu thành, đặc điểm (số
lượng, chất lượng), lợi thế, thách thức, xu hướng phát triển và từ đó đưa ra các
giải pháp nhằm thúc đẩy sự hoàn thiện và năng cao chất lượng nguồn nhân lực


1
chất lượng cao …thông qua các phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp thu
thập các tài liệu về NNLCLC…Hy vọng qua đề tài này chúng ta có thể hiểu sâu
hơn các vấn đề về nguồn nhân lực chất lượng cao.
Kết cấu của đề tài:
I- Cơ sở lý luận và những vấn đề về nguồn nhân lực chất lượng cao


II- Liên hệ thực tiễn đối với nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam
Đây là toàn bộ nội dung của đề tài em đã chọn tìm hiểu, chắc chắn bài viết còn
nhiều khiếm khuyết và sai sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của Thầy giáo
để em hoàn thiện hơn đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn!


2
B- NỘI DUNG
I- CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƯỢNG CAO
1. Khái niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao (NNLCLC)
Việt Nam cho đến nay, thuật ngữ NNLCLC chưa thấy xuất hiện trong từ điển
Bách Khoa Việt Nam cũng như các từ điển tiếng Vịêt hay từ điển kinh tế khác,
mặc dù trong thực tiễn phát triển kinh tế của đất nước, nó được dùng khá phổ
biến. Tại Hội Nghị BCHTW khoá IX, Đảng ta lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ
NNLCLC. Phát triển NNLCLC thông qua con đường phát triển, giáo dục đào
tạo, khoa học và công nghệ chính là khâu then chốt để nước ta vượt qua tình
trạng nước nghèo và kém phát triển. Đến ĐH Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta
một lần nữa nhấn mạnh thuật ngữ này khi đưa ra định hướng chính sách tập
trung phát triển nhanh NNLCLC. Trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu
nghành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kĩ thuật viên lành nghề và CNKT có
tay nghề cao. Có chính sách thu hút các nhà khoa học công nghệ giỏi trong nước
và ngoài nước, trong cộng đồng người Việt định cư ở nước ngoài. Như vậy theo
quan niệm của Đảng ta, NNLCLC bao gồm đội ngũ các nhà khoa học và công
nghệ, các công trình sư, kỹ sư, các CNKT có tay nghề cao. Trong lĩnh vực xã hội
nhân văn, các nhà nghiên cứu VN cũng đã bắt đầu hình thành nên những quan
niệm xung quanh vấn đề NNLCLC. GS.TS Phạm Minh Hạc cho rằng NNLCLC
là đội ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, là lực lưỡng xung kích tiếp nhận
chuyển giao công nghệ tiên tiến, thực hiện có kết quả việc ứng dụng vào điều



3
kiện nước ta là hạt nhân lĩnh vực của mình vào CNH- HĐH được mở rộng theo
kiểu “vết dầu loang” bằng cách dẫn dắt những bộ phận công nhân có trình độ và
năng lực thấp hơn, đi lên với tốc độ nhanh. Trong bài nghiên cứu “Văn hoá con
người NNL đầu thế kỉ 21”, GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn đã đưa ra khái niệm:
“Một NNL mới để chỉ một LLLĐ có học vấn, có trình độ chuyên môn cao và
nhất là khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi của công nghệ sản
xuất”..TS.Nguyễn Hữu Dũng, Viện Trưởng Viện KHLĐ- XH thì cho rằng :
“NNLCLC là NNL là lực lưỡng tinh tuý, kết tinh những gì ưu tú nhất của con
người VN”. Chỉ tiêu về NNLCLC là những con người có trình độ chuyên môn
cao, vốn tri thức và tay nghề giỏi, khả năng nhận thức và tiếp thu nhanh kiến
thức mới. Đây là chìa khoá chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học kỹ thuật và
công nghệ trên con đường phát triển chống nguy cơ tụt hậu. Hoặc một quan niệm
cụ thể khác, NNLCLC là một khái niệm để chỉ một con người, một lao động cụ
thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kĩ thuật) ứng với một nghành nghề cụ
thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn kĩ thuật nhất định.
Ngoài ra còn có những thuật ngữ cụ thể mang ý nghĩa gần gũi và được xã hội
chấp nhận. Những quan niệm này có nội hàm hẹp hơn và để chỉ người lao động
có trình độ, có chất lường, đạt hiệu quả lao động trong hai lĩnh vực lao động chủ
yếu: trong lĩnh vực sản xuất vật chất như chuyên gia, nghệ nhân…trong lĩnh vực
lao động trí óc, bên cạnh hệ thống học vị học hàm của Nhà nước còn có các thuật
ngữ như nhà chuyên môn, bác học….bên cạnh đó xã hội còn có những thuật ngữ
như nhân tài, nguyên khí quốc gia..để tôn vinh những người tài có cống hiến cho
sự phồn thịnh của đất nước.
Như vậy có thể hiểu: NNLCLC là một bộ phận đặc biệt, kết tinh những gì tinh
tuý nhất của NNL. Đó là LLLĐ có khả năng đáp ứng nhu cầu cao của thực tiễn.
Họ được đặc trưng bởi trình độ học vấn và chuyên môn cao có khả năng nhận



4
thức tiếp thu nhanh chóng những kiến thức mới, có năng lực sáng tạo, biết vận
dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào thực tiễn. Họ có phẩm chất công dân
tốt, có đạo đức nghề nghiệp và đem lại năng suất, chất lượng hiệu quả lao động
cao hơn hẳn so với NNL lao động phổ thông.
2. Phân loại (hay cấu trúc) NNLCLC
Phân loại hay xác định cấu trúc NNLCLC là quá trình xem xét từng bộ phận
cấu thành theo một hệ thống chỉnh thể, từ đó phát hiện ra cấp độ và mối quan hệ
giữa chúng tạo thành hệ thống cấu trúc NNLCLC. Bao gồm những bô phận sau:
2.1. Lực lượng nòng cốt của NNLCLC là đội ngũ tri thức, trong đó đỗi ngũ
tri thức khoa học và công nghệ giữ vai trò hạt nhân của nền kinh tế tri thức,
là nhân tố cơ bản cho sự thành công của sự nghiệp CNH-HĐH theo hướng rút
ngắn vào phát triển kinh tế tri thức. Họ có năng lực sáng tạo cả về phương diện
lý thuyết lẫn thực hành, có năng lực giải quyết những vấn đề trứơc mắt cũng như
lâu dài của nền KT- XH. Đây cũng là lực lượng xung kích đi đầu trong việc tiếp
nhận công nghệ chuyển giao công nghệ thông tin, làm chủ và thực hiện ứng
dụng có hiệu quả vào điều kiện thực tiễn đất nước. Bên cạnh đó, họ có năng lực
dẫn dắt, bồi dưỡng, đào tạo những bộ phận lao động có năng lực và trình độ thấp
hơn phát triển, bổ sung vào NNLCLC.
2.2. Lực lượng trụ cột của NNLCLC cũng là đội ngũ công nhân tri thức.
Đây là lực lượng lao động được đào tạo nghề nghiệp căn bản, có kiến thức, kỹ
năng và tay nghề giỏi, luôn thích nghi được với sự phát triển nhanh chóng của
khoa học và công nghệ, có khả năng tiếp cận, ứng dụng và làm chủ các dây
chuyền công nghệ mới của thế giới. Họ là những người trực tiếp lao động sản
xuất, cho ra đời những sản phẩm hay cung ứng cho đời sống xã hội những dịch


5
vụ có hàm lượng tri thức cao. LLLĐ này chủ yếu làm việc trong các ngành công
nghiệp dịch vụ công nghệ cao.

2.3. Lực lượng trụ cột của NNLCLC còn là đội ngũ những người thợ thủ
công mỹ nghệ lành nghề trong lĩnh vực ngành nghề truyền thống. Họ chính
là những bàn tay vàng, những nghệ nhân có trình độ kỹ năng, kỹ xạo giỏi. Sản
phẩm họ làm ra chính là sự sáng tạo hàm ẩn những giá trị truyền thống dân tộc,
vừa mang giá trị kinh tế cao. Hiện nay với chủ trương bảo tồn và phát triển các
làng nghề truyền thống của Đảng ta, LLLĐ này đang phát triển nhanh chóng về
số lượng cũng như chất lượng. Điều này được biểu hiện thông qua sự gia tăng
nhanh chóng của kim nghạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta ra
thị trường thế giới. Nói khác đi, đất nước ta không chỉ đi lên bằng CNH-HĐH
mà còn đi lên bằng những sản phẩm truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc.
2.4. Lực lượng trụ cột của NNLCLC còn là đội ngũ những người nông dân
tri thức. Họ có trình độ khoa học kỹ thuật, giàu kinh nghiệm thực tiễn trong sản
xuất, dám nghĩ, dám làm, đi đầu trong quá trình dịch chuyển cơ cấu sản xuất
nông nghiệp theo hướng hiện đại hoá nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng
nông sản theo hướng gia tăng kim nghạch xuất khẩu. Đồng thời họ có khả năng
tiếp thu, ứng dụng các thành tựu công nghệ sinh học tiên tiến của thế giới vào
thực tiễn nông nghiệp Việt Nam qua chuyển đổi, ứng dụng, lai tạo nhiều giống
cây trồng, vật nuôi cho năng suất cao, chất lượng tốt, biện pháp kỹ thuật tiên
tiến…. Hiện nay kim nghạch xuất khẩu hồ tiêu của nước ta đứng đầu thế giới, cà
phê và gạo đứng thứ hai thế giới…
3. Sự khác biệt giữa nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao
Nhận diện nguồn nhân lực chất lượng cao
Lâu nay chúng ta nói nhiều đến nguồn nhân lực chất lượng cao và mọi doanh
nghiêp đều đồng tình rằng, trong chiến lược phát triển của mình, đây là yếu tố


6
sống còn đối với DN. Nhưng dường như chưa có một định nghĩa cụ thể nào về
nguồn nhân lực chất lượng cao và thực tế là nhiều doanh nhân chưa hình dung
được thế nào là nhân viên được dán nhãn “ chất lượng cao”.

Thông qua một số ý kiến sẽ làm sáng tỏ vấn đề trên:
- Giám đốc chiến lược Navigos: Trong quá trình xem xét một ứng viên “chất
lượng cao”, chúng tôi quan tâm đến 3 yếu tố: trình độ chuyên môn, kinh nghiệm
công tác và khả năng thích ứng tính cách cá nhân đối với công việc. Đối với
Navigos Group chúng tôi xem trọng yếu tố thứ 3 khi tìm ứng viên cho Công ty
mình, Bạn có thể dễ dàng nhận được hàng ngàn nhân viên có trình độ chuyên
môn và kinh nghiệm làm việc phù hợp với nhu cầu tuyển dụng, nhưng liệu ứng
viên đó có gắn bó lâu dài với sự nghiệp hay không đó lại là một chuyện khác.
Vấn đề này phụ thuộc rất nhiều vào tính cách của mỗi người, họ phải yêu và
sống với công việc. Chúng tôi tin rằng một ứng viên thành công phải đi cùng với
sự phát triển của công ty.
- Ông Trần Việt Dũng- Tổng Giám Đốc Công Ty GUIDE: “Tố chất của một
người được đánh giá là “chất lượng cao”, theo tôi, cần đánh giá dựa trên 3 yếu
tố: kiến thức knowledge), kỹ năng (skill), và thái độ của họ đối với môi trường
kinh doanh (attitude).
- Giám Đốc Công ty TNHH Đầu tư và Thương mại Đỗ Tuấn Anh: “Nhân lực
chất lượng cao phải được hiểu là tính cả khối văn phòng lẫn khối sản xuất. Nhân
lực chất lượng cao có thể là một CEO giỏi, một trưởng phòng bộ phận năng nổ,
nhiệt tình…nhưng cũng có thể là một người thợ lành nghề, cần mẫn, có trách
nhiệm với công việc.
- Giám Đốc Công ty CP Hoá Chất: Ngoài trình độ nhân sự chất lượng cao là
người có kỹ năng làm việc chuyên nghiệp, kỹ năng giao tiếp, ứng xử có văn hoá.
Thứ 2, nhân sự chất lượng cao còn là người dám chịu trách nhiệm đến cùng với


7
công việc của mình làm. Điều này ít gặp ở các nhân viên bình thường. Thứ 3,
còn là người chịu suy nghĩ, sáng tạo trong công việc, chứ không phải là người
chỉ biết làm những gì được giao và hoàn thành nó là đã cảm thấy mãn nguyện.
Trên thực tế, sẽ vô cùng khó nếu chúng ta cố gắng “vẽ” ra chân dung của nhân

sự chất lượng cao bởi vì mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp thường có các tiêu chí
khác nhau trong việc đánh giá kết quả công việc cũng như tiềm năng của môĩ
nhân sự. Tuy nhiên chúng ta có thể hiểu: “nhân sự chất lượng cao là người có
kiến thức, kỹ năng thái độ đủ hoàn thành suất sắc các công việc chủ yếu, mang
tính chiến lược của tổ chức, có tác phong làm việc công nghiệp, cống hiến cho tổ
chức..”. Và cuối cùng nhân sự chất lượng cao là người đạt được thành tích nhất
định trong bản đánh giá lịch sử công việc của chính họ.
4. Biểu hiện (yêu cầu) của nguồn nhân lực chất lượng cao
4.1. Thể lực của nguồn nhân lực
Một yếu tố khụng thể thiếu đối với nguồn nhõn lực chất lượng cao là sức khoẻ-
là sự phát triển hài hòa về mặt vật chất và tinh thần. Sức khoẻ ngày nay không
chỉ được hiểu là tỡnh trạng khụng cú bệnh tật, mà cũn là sự hoàn thiện về mặt
thể chất lẫn tinh thần. Người lao động có sức khoẻ tốt có thể mang lại năng suất
lao động cao nhờ sự bền bỉ, dẻo dai. Sức khoẻ chịu tác động của nhiều yếu tố: tự
nhiên, kinh tế- xã hội và được phản ánh bằng một chỉ tiêu bao gồm các chỉ tiêu
về sức khoẻ, bệnh tật, về cơ sở vật chất, và các điều kiện đảm bảo chăm sóc sức
khoẻ. CNH- HĐH gắn liền với việc áp dụng phổ biến các phương pháp sản xuất
công nghiệp, công nghệ hiện đại, do đó đòi hỏi sức khỏe và thể lực cường tráng
trên các mặt sau:
- Có sức chịu đựng dẻo dai, đáp ứng quá trình sản xuất liên tục kéo dài.


8
- Có các thông số nhân chủng học đáp ứng được các hệ thống thiết bị công nghệ
được sản xuất phổ biến và trao đổi trên thị trường khu vực và thế giới.
- Luôn tỉnh táo, sảng khoái tinh thần. Kỹ thuật tinh vi đòi hỏi sự chính xác và an
toàn cao độ.
4.2. Trí lực của nguồn nhân lực.
Trí tuệ là yếu tố thiết yếu của con người, bởi vì tất cả những gì thúc đẩy con
người hành động đều phải thông qua đầu óc của họ- tức là phải thông qua trí tuệ.

Sự phát triển như vũ bão của KHCN yêu cầu người lao động có học vấn, trình độ
chuyên môn, kỹ thuật, làm việc chủ động, sử dụng được các công cụ hiện đại. Sự
yếu kém về trí tuệ là lực cản nguy hại nhất dẫn đến sự thất bại trong hoạt động
của con người. Năng lực trí tuệ biểu hiện ở khả năng áp dụng những thành tựu
khoa học để sáng chế ra những kỹ thuật công nghệ tiên tiến, sự nhạy bén, thích
nghi nhanh và làm chủ được kỹ thuật công nghiệp hiện đại; khả năng biến tri
thức thành kỹ năng lao động nghề nghiệp, nghĩa là kỹ năng lao động giỏi thể
hiện qua trình độ tay nghề, mức độ thành thạo chuyên môn nghề nghiệp. Quá
trình CNH- HĐH càng đi vào chiều sâu càng đòi hỏi trình độ chuyên môn hoá
cao cuả nhân lực để đạt năng suất cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh lớn hơn
nhiều lần. Lực lượng nòng cốt của đội ngũ lao động là những công nhân lành
nghề trực tiếp sản xuất hàng hoá và cung ứng dịch vụ cho người tiêu dùng trong
nước và nước ngoài. Do đó phải có trình độ trí tuệ nhất định tiếp thu làm chủ
công nghệ tiên tiến. Hơn nữa những tri thức khoa học và những kinh nghiệm
được tích luỹ yêu cầu họ sáng chế ra những liệu lao động mới, hoàn thiện kỹ
thuật và phương pháp sản xuất. Lực lượng lao động dẫn đầu là đội ngũ tri thức:
có năng lực sáng tạo, xử lý các mối quan hệ, ứng dụng thành tựu KH-CN, tiếp


9
thu tinh hoa văn hoá, văn minh thế giới. Đội ngũ tri thức phải thực hiện có hiệu
quả các chức năng: nghiên cứu, thiết kế, tham mưu, thi hành, ứng dụng, phát
triển, đào tạo, chỉ huy, lãnh đạo...Bộ phận nhân tài có vai trò thực sự trong đội
ngũ lao động- là hạt nhân có chất lượng cao, là đội ngũ các nhà khoa học đầu
đàn, tiêu biểu cho tinh thần trí tuệ của dân tộc.
Một số chỉ tiêu cơ bản đánh giá yếu tố trên là:
- Về trình độ chuyên môn, kỹ thuật: (Lao động kỹ thuật bao gồm những công
nhân kỹ thuật bậc 3 trở lên(có bằng hoặc không có bằng - nhờ kinh nghiệm thực
tế trong sản xuất mà trình độ tương đương từ bậc 3 trở lên) cho tới những người
có trình độ đại học trở lên.

- Về trình độ văn hoá
4.3 Về phẩm chất tâm lý- xã hội của nguồn nhân lực.
- Nền sản xuất cụng nghiệp cũn đũi hỏi ở người lao động hàng loạt năng lực cần
thiết như: có kỷ luật tự giác, biết tiết kiệm nguyên vật liệu và thời gian, có tinh
thần trách nhiệm trong việc bảo dưỡng thiết bị máy móc, phương tiện sản xuất,
có tinh thần hợp tác và tác phong lao động công nghiệp, lương tâm nghề nghiệp,
tinh thần trách nhiệm cao... nghĩa là phải cú lao động văn hoá cụng nghiệp. Một
trong những phẩm chất quan trọng nhất của văn hoá lao động công nghiệp là tinh
thần trách nhiệm cao đối với chất lượng sản phẩm. Vỡ chỉ cú như vậy mới đáp
ứng được lợi ích lâu dài của họ cả với tư cách là người sản xuất và người tiêu
dùng, nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế.


10
- Một yêu cầu quan trọng không kém quan trọng của sự phát triển NNL là năng
cao ý thức công dân, lòng yêu nước, xã hội chủ nghĩa, phong cách làm việc
công nghiệp. Những phẩm chất đó giúp con người không bị cám dỗ bởi những
mặt trái của nền kinh tế thị trường, nơi đồng tiền và lợi ích có thể làm đảo lộn
luân thường đạo lý và chà đạp lên lương tâm và phẩm hạnh của con người.
- Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế nền kinh tế thế giới, người lao động còn phải
biết chủ động hội nhập quốc tế. Khác với toàn cầu hoá, hội nhập là hành động
chủ quan, có chủ đích của con người nhằm khai thác nguồn lực bên ngoài nhằm
tăng cường sức mạnh của đất nước mình. Hội nhập KTQT cũng có nghĩa là chấp
nhận cạnh tranh với thế giới bên ngoài; hội nhập nhưng không hoà tan, vẫn bảo
tồn bản sắc văn hoá dân tộc mình và nhất là bảo vệ được nền độc lập dân tộc.
Trong điều kiện như vậy, người lao động ngoài bản lĩnh chính trị vững vàng, ý
thức dân tộc cao còn phải có trình độ trí tuệ ngang tầm đòi hỏi ít ra là của khu
vực.
Nguồn nhân lực chất lượng cao của thời kỳ CNH-HĐH phải là “những con
người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động, về tính tích

cực chính trị- xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng”. Việc xác lập các chuẩn
mực, định hướng các giá trị xã hội để xây dựng và phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao cho đáp ứng yêu cầu hội nhập KTQT là hết sức cần thiết. Chìa
khóa vạn năng để phát triển nguồn nhân lực là năng cao giáo dục toàn diện, đổi
mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học, thực
hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam.
5. Vai trò, vị trí của NNL CLC trong quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với
phát triển nền kinh tế tri thức.


11
Trong bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng và xu thế phát triển
kinh tế tri thức, lấy tri thức làm động lực phát triển hiện nay, vai trò của
NNLCLC với tư cách là bộ phận hạt nhân có ý nghĩa quyết định chất lượng của
tổng thể NNL, càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết đối với sự phát triển.
Thực tiễn đã chứng minh rằng, nguồn gốc giàu có của một quốc gia chính là tri
thức và chỉ có con người mới có khả năng nắm giữ và sản sinh tri thức.
Các
chuyên gia kinh tế khi phân tích tác động của nguồn nhân lực đến nền kinh tế
cũng cho rằng, phải coi nguồn nhõn lực là một yếu tố cạnh tranh dài hạn.
Trong quỏ trỡnh quốc tế húa sản xuất đang hỡnh thành một chuỗi giá trị toàn
cầu, vốn và công nghệ có thể sẽ không phải là vấn đề quan trọng nhất. Vỡ cỏc
nước phát triển đang có xu hướng chuyển các nhà máy sản xuất sang các nước
đang phát triển, trong đó có vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý. Riờng yếu tố lao
động thỡ cỏc nhà đầu tư không thể di chuyển sang. Do đó, để tiếp nhận công
nghệ cao bắt buộc lao động phải đủ trỡnh độ và kỹ năng làm chủ công nghệ.
Quốc gia nào có chiến lược đúng đắn trong việc phát huy nguồn lực con người
chuẩn bị đựơc NNLCLC dựa trên nền tảng tri thức hiện đại thì nền kinh tế của
quốc qia đó sẽ gia tăng mạnh mẽ năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu
và phát triển bền vững. Xã hội nào có nhiều lao động có trình độ cao thì xã hội

đó càng thêm văn minh.
Đồng thời trong thời đại tri thức toàn cầu hoá, lực lượng sản xuất sẽ không
ngừng phát triển và ngày càng mang tính quốc tế hoá cao. Điền này thể hiển ở
chỗ cùng với những thuôc tính và đặc trưng của tri thức NNLCLC vận động và
phát triển không ngừng theo hướng trao đổi, hợp tác song phương hay đa
phương giữa các quốc gia về nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao các thành tựu
KHCN hiện đại để tạo ra các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao. Đây chính là


12
cơ hội, là tiền đề cho các nước chậm phát triển, đang phát triển có thể bỏ qua
những giai đoạn phát triển lịch sử quá độ nhất định, mở cửa ra thế giới, tăng
cường hợp tác quốc tế, nhanh chóng tiếp cận với kinh tế tri thức, nắm bắt các tri
thức mới của thời đại để đi nhanh, đi tắt, đón đầu rút ngắn khoảng cách tụt hậu
so với các nước phát triển. Chính vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều
có chiến lược phát triển kinh tế tri thức theo những cách riêng, mang tính đặc
thù, phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế - xã hội trong nước và xu thế
tất yếu của thời đại.
Để thực hiện thành công đường lối nói trên của Đảng thì điều kiện cần và điều
kiện đủ là Việt Nam phải gấp rút “Tập trung phát triển nhanh NNLCLC” như
Nghị Quyết ĐH X của Đảng đã chỉ rõ. Yếu tố quyết định nhất và cũng là to lớn
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội chính là con người, đặc biệt là NNLCLC.
Đào tạo NNLCLC để tạo ra lợi thế cạnh tranh về nguồn nhân lực sẽ là nguồn nội
lực là yếu tố nội sinh và động lực to lớn để phát triển đất nước. Tại Văn Miếu có
tấm bia đã khắc: “Các bậc hiền nhân tài giỏi là yếu tố cốt tử đối với một chính
thể. Khi yếu tố này dồi dào thì đất nước tăng tiến mạnh mẽ và phồn vinh. Khi
yếu tố này kém thì quyền lực của đất nước bị suy giảm…Những người tài giỏi là
một sức mạnh quan trọng đối với đất nước”. Có thể thấy rằng, nhân lực trình độ
cao không chỉ là vốn quý của bản thân người lao động có trình độ cao mà còn là
vốn quý của các cơ sở, quốc gia. Lao động có trình độ cao là lực lượng sản xuất,

là động lực quan trọng của sự phát triển kinh tế - xã hội, là quân chủ lực thực
hiện các quốc sách hàng đầu, là giới xúc tác nâng cao tiềm lực và mặt bằng trí
tuệ của các tầng lớp nhân dân. Rõ ràng khi chuyển sang nền kinh tế hiện đại,
NNLCLC là bộ phận quan trọng trực tiếp lĩnh hội và áp dụng tiến bộ khoa học,
công nghệ mới, sử dụng các nguồn lực khác trong xã hội, trở thành lực lượng


13
xung kích, đi đầu trong sự nghiệp CNH- HĐH và hội nhập. Vị trí, vai trò đặc
biệt của lao động được thể hiện nhiều mặt và trong nhiều mối quan hệ, nhất là
trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng
cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế…
Vì hiện nay thực trạng NNLCLC của Việt Nam rất yếu kém về chất lượng,
thiếu về số lượng, không đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn phát triển,
là rào cản, là thách thức lớn đối với nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập
KTQT. Thủ Tướng CP Nguyễn Tấn Dũng trong bài viết “Gia nhập tổ chức
Thương mại thế giới cơ hội, thách thức và hành động của chúng ta” đã thẳng
thắn đề cập đến thực trạng này khi chỉ ra rằng, NNL của Việt nam chỉ có cạnh
tranh lợi thế trong những ngành nghề đòi hỏi sự dụng nhiều lao động với kỹ
năng trung bình và thấp, còn ở những lĩnh vực ngành nghề có giá trị gia tăng lớn
đòi hỏi trình độ cao, lại đang rất thiếu như cơ khí chế tạo, sản xuất các sản phẩm
công nghệ cao, tư vấn thiết kế tạo mẫu và trong các ngành dịch vụ có giá trị gia
tăng cao…
Từ đó cho thấy NNLCLC là nhân tố quyết định sự thành công của quá trình
đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
6. Lợi thế của NNLCLC nước ta
NNL có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ, nhưng nhìn chung được hiểu là
nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội- đầu vào của sản xuất- là một yếu tố của
sự phát triển KT- XH. Do vậy muốn kinh tế phát triển thì phải phát triển NNL,
nhất là NNLCLC trong quá trình hội nhập KTQT - đây là nhân tố trung tâm

trong cạnh tranh. Lợi thế của NNLCLC thể hiện qua một số mặt sau:
6.1. Lao động trẻ tuổi chiếm tỷ lệ lớn trong NNL: Đây là bộ phận quan trọng
của nguồn nhân lực quốc gia, có vai trò gánh vác nhiệm vụ xung kích trong công


14
cuộc xây dựng phát triển kinh tế - xã hội. Năm 2004, trong LLLĐ trong cả nước,
lao động 15- 34 tuổi chiếm 47,6%, là thế mạnh của NNl nước ta.
6.2. Số lượng: Đội ngũ lao động có chuyên môn - kỹ thuật không ngừng tăng
lên, từ 10,4% năm 1996 lên 24,8% năm 2005; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề
tăng từ 7,5% năm 1996 lên 15,2% năm 2005. Hiện nay hàng năm tuyển mới đào
tạo nghề tăng bình quân 9%, trong đó đào tạo nghề dài hạn tăng bình quân
16%/năm, đào tạo cao đẳng, đại học tăng 4,8%/năm.
6.3.Về chất lượng lao động: Trình độ học vấn của lực lượng lao động cũng khá
cao. Theo kết quả điều tra lao động- việc làm 2005, số người đã tốt nghiệp PTCS
là 32,6%, tốt nghiệp PTTH là 21,2%(tăng 2004); ba vùng kinh tế trọng điểm có
trình độ văn hóa cao nhất; Năm 2006 tỷ lệ lao động 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo
là 31,9% tăng 6,6% so 2005; chủ yếu tăng số công nhân kỹ thuật.
6.4. Các phẩm chất trong lao động:
+ Có truyền thống chăm chỉ lao động, cần cù, chịu khó học hỏi.
+ Có truyền thống văn hóa bản sắc dân tộc tác động đến văn hoá lao động- sản
xuất của người lao động.
+ Có tính khéo léo trong công việc, bắt chước nhanh, là nguồn nhân lực thông
minh, nếu được đào tạo, huấn luyện bài bản, công phu sẽ được phát huy tốt cho
sự nghiệp CNH- HĐH và hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế thế giới.
7. Khó khăn, thách thức của nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam
hiện nay
Trong vấn đề đáp ứng nhu cầu về NNLCLC, chúng ta gặp phải thách thức lớn:
7.1. Giải quyết việc làm: Lực lượng lao động nước ta đông đảo (khoảng 40 triệu
lao động vào năm 2005), nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo cũn thấp (khoảng

23% năm 2003). Một bộ phận lớn thanh niên trong độ tuổi 18 – 23 (khoảng


15
80%) bước vào thị trường lao động, nhưng chưa qua đào tạo nghề. Lao động phổ
thông dư thừa lớn, song thiếu lao động kỹ thuật lành nghề, thiếu chuyờn gia,
doanh nhõn, nhà quản lý, cỏn bộ khoa học và cụng nghệ cú trỡnh độ cao
7.2. Tỷ lệ thất nghiệp chung của LLLĐ thành thị là 5,13%.Tỷ lệ này ở nữ cao
hơn lao động nam( 6,14% so với 5,31%). Khu vực nông thôn tính bình quân
chung cả nước trên dưới 20% trong khi mỗi năm nước ta có khoảng 1,2 triệu
người đến tuổi lao động.
7.3. Sự chuyển dịch lao động diễn ra chậm: là điều rất đáng lo ngai.
Bảng 1 Đơn vị:%
Năm Tổng số lao
động
Nông, lâm, ngư
nghiệp
Công nghiệp-
Xây dựng
Dịch vụ
1991 30.794 72.6 13.9 13.5
1996 35.792 69.2 12.5 18.3
2005 44.385 56.8 17.9 25.3
7.4. Chất lượng lao động: Hiện nay ở nước ta chỉ có 20% lao động đang làm
việc đã qua đào tạo. do vậy năng suất lao động thấp; tình trạng “Thừa thầy, thiếu
thợ” ngày càng phổ biến. Năm 2003, Thành phố Hồ Chí Minh thừa 10.000 lao
động trình độ đại học, cao đẳng, trong đó thiếu 50.000 công nhân có kỹ thuật tay
nghề. Thứ bậc xếp hạng về chất lượng nguồn nhân lực còn thấp (Việt Nam chỉ
đạt 3,79/10 so với Trung Quốc là 5,73/10 ). Tính cạnh tranh thấp trên thị trường
lao động quốc tế. Việt Nam được đánh giá đứng thứ 48/59 nước về khả năng

cạnh tranh trên thị trường lao động.


16

×