Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Quá trình nhập thân văn hóa tuổi ấu thơ trong xã hội truyền thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.91 KB, 62 trang )








LU ẬN V ĂN:

Văn hóa và s ự hình thành nhân cách trẻ em
( Trư ớc tuổi đi h ọc) ở nư ớc ta hiện nay













1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội Đảng lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi dấu son mới vào
thời kỳ phát triển của cách mạng nước ta, thời kỳ phát triển sức mạnh toàn dân tộc, tiếp
tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.


Một luận điểm quan trọng của Đảng về sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là "Lấy việc chăm sóc, đào tạo, phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững". Vì vậy, xây dựng con người phát triển hài hòa
toàn diện là mục tiêu hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay và lâu
dài, trong đó chiến lược phát triển toàn diện cho thế hệ trẻ được xem là nhiệm vụ quan
trọng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời cũng luôn quan tâm đặc biệt tới trẻ em xuất
phát từ yêu cầu của lịch sử và tiền đồ của dân tộc. Điều mà Bác quan tâm nhất là vấn đề
"Trồng người", "Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì hạnh phúc trăm năm phải trồng
người". Trồng cây và trồng người đều vì lợi ích dân tộc. Bác nói: "Dạy trẻ cũng như
trồng cây non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lớn lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau
này các cháu thành người tốt".
Tuổi thơ của các em là giai đoạn cực kỳ quan trọng. Nhiều nhà nghiên cứu tâm
lý, văn hóa đều cho rằng, trẻ em trước tuổi đi học là giai đoạn khởi đầu của con người
trong cách học ăn, học nói, gọi chung là giai đoạn "học làm người".
Chính vì vậy, nhà văn hóa học người Nga A.Be-lích gọi "tuổi ấu thơ là một hiện
tượng văn hóa", GS.TS Hồ Ngọc Đại gọi là "văn hóa tuổi ấu thơ", v.v
Chúng ta biết rằng, một đứa trẻ khi mới ra đời, nó còn là một sinh thể mang
thuộc tính tự nhiên có chứa đựng những dự trữ tiềm năng người. Sinh thể ấy được nuôi
dưỡng trong môi trường người thì nó trở thành nhân cách, thành con người xã hội, con
người văn hóa. Đó là quá trình "dạy học làm Người": Người lớn trao truyền, trẻ em tiếp
nhận văn hóa, nhà nhân học văn hóa Hoa Kỳ, M.J Herskovits gọi là quá trình "nhập thân
văn hóa" (Endoculturation).
2
Điều quan trọng cần nhấn mạnh là khả năng, năng khiếu và kỹ năng của con
người không phải là bẩm sinh, chỉ có một tố chất nhất định nào đó là tiền đề về sinh học.
Còn để hình thành nhân cách trở thành con người văn hóa, trẻ em phải lĩnh hội các giá
trị và chuẩn mực văn hóa, những khuôn mẫu hành vi trong quá trình hoạt động có sự
tham gia của người lớn với tư cách là "người môi giới" hay "người tổ chức giáo dục".
Trẻ em là tương lai của đất nước. Không phải ngẫu nhiên mà Việt Nam là nước

đầu tiên ở Đông Nam á và là nước thứ hai trên thế giới đã phê chuẩn và cam kết thực
hiện công ước về Quyền trẻ em do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày
12/08/1991.
Như vậy, việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được pháp luật bảo vệ nhằm
đảm bảo cho trẻ em được chăm sóc sức khỏe, được vui chơi bổ ích, được giáo dục học
hành, tạo điều kiện cho trẻ phát triển lành mạnh, có tương lai tốt đẹp.
Với những lý do vừa nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài "Văn hóa và sự hình
thành nhân cách trẻ em (Trước tuổi đi học) ở nước ta hiện nay" làm luận văn tốt
nghiệp cao học, chuyên ngành lý luận và lịch sử văn hóa. (Trong luận văn này, thuật
ngữ "nhân cách trẻ em" xin được hiểu là "trẻ em trước tuổi đi học", "quá trình nhập thân
văn hóa", hay còn gọi là "văn hóa tuổi ấu thơ" - Chú thích của tác giả).
Đã có nhiều cách tiếp cận nghiên cứu văn hóa, đề tài luận văn sẽ đi theo hướng
tiếp cận liên ngành (tâm lý, xã hội, văn hóa ) để nghiên cứu vấn đề vừa nêu trên.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong tài liệu bằng tiếng Việt đã công bố mà chúng tôi biết được hiện chưa có
công trình nào nghiên cứu trọn vẹn vấn đề "Văn hóa và sự hình thành nhân cách trẻ em
(trước tuổi đi học) ở nước ta". Đương nhiên, đã có những bài viết đăng trên tạp chí, báo,
hoặc những báo cáo khoa học tại các hội thảo, chương sách viết về tuổi ấu thơ từ các
góc độ tâm lý, xã hội học, tôn giáo
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
Mục đích
Đề xuất phương hướng nhiệm vụ nhằm nâng cao chất lượng văn hóa tuổi ấu thơ
trong sự hình thành nhân cách trẻ em ở nước ta hiện nay.
Để hoàn thành mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ:
3
+ Nghiên cứu lý thuyết văn hóa phân tích các hệ thống tác động của nó đối với
sự hình thành nhân cách trẻ em trước tuổi đi học. (Dựa vào lý thuyết "Văn hóa và nhân
cách" được đề cập trong công trình của một số tác giả như: J. Sêpanxki (Ba Lan) [28],
P.K. Bock (Hoa Kỳ) [5], E.V. Xô-cô-lốp (Liên Xô) [33], A.A. Be-lich (Nga) [4] ).
+ Miêu tả về vai trò của văn hóa đối với quá trình hình thành nhân cách trẻ em

trong xã hội truyền thống Việt Nam (Dựa vào các tài liệu ghi chép dân tộc học, nói về
quá trình nuôi dạy trẻ em trong xã hội truyền thống), qua đó nêu lên những ưu điểm,
nhược điểm của phương thức nuôi dạy trẻ em thời xưa ở nước ta.
+ Khảo sát về vai trò của văn hóa trong sự hình thành nhân cách trẻ em trước
tuổi đi học hiện nay trên cơ sở những số liệu, tài liệu, những kết quả đã nghiên cứu của
Vụ Mầm non, Trung tâm Nghiên cứu giáo dục Mầm non - Bộ Giáo dục và Đào tạo. Qua
nghiên cứu thực tế tại một số cơ sở, rút ra những nhận xét về ưu điểm, nhược điểm của
phương thức nuôi, dạy trẻ em hiện nay ở nước ta.
Giới hạn và phạm vi đề tài
Do điều kiện thời gian và khuôn khổ của luận văn cao học, đề tài sẽ tập trung
nghiên cứu "Văn hóa và sự hình thành nhân cách trẻ em của người Kinh (Việt)".
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn đứng ở góc độ lý luận văn hóa để phân tích vấn đề, tuy nhiên
đề tài sẽ kế thừa những kết quả nghiên cứu của các ngành xã hội học văn hóa, nhân học
văn hóa và tâm lý học trẻ em.
Phương pháp luận nghiên cứu đề tài là dựa vào phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Tư tưởng chỉ đạo của luận văn là dựa theo văn kiện của Đảng
và tư tưởng Hồ Chí Minh nói về xây dựng con người.
- Các phương pháp cụ thể là: phương pháp lôgíc, lịch sử, thống kê, phân tích và
khảo sát thực tế.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Nhận thấy ở nước ta chưa có công trình nào chuyên nghiên cứu vấn đề "Văn
hóa và sự hình thành nhân cách trẻ em (trước tuổi đi học) ở nước ta hiện nay", chúng tôi
hy vọng luận văn sẽ nêu được vấn đề, như một hướng nghiên cứu trong văn hóa học, để
tiếp tục nghiên cứu về sau.
4
Đây mới là bước đầu nghiên cứu văn hóa tuổi ấu thơ ở trẻ em người Kinh
(Việt), chúng tôi mong rằng, khi có điều kiện sẽ đầu tư tâm sức để nghiên cứu văn hóa
nuôi dạy trẻ ở nhiều dân tộc khác trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

- Một trong những xu hướng nghiên cứu văn hóa học hiện tại là xu hướng "Văn
hóa và Nhân cách", đã xuất hiện từ nửa đầu thế kỷ XX, với nhiều tên tuổi nổi tiếng như:
R. Benedict (1934), A. Kroeber (1948), M. Herskovits (1948), M. Mead (1964), J.
Bastide (1971), E.V. Xôcôlốp (1972)
Đề tài luận văn nằm trong xu hướng nghiên cứu trên đây, nên có thể có những
đóng góp nhất định về lý luận. Khi vận dụng lý luận trên vào hoạt động thực tiễn sẽ hình
thành nên văn hóa xây dựng con người, trong đó có văn hóa nuôi dạy trẻ trong điều kiện
hiện thời ở nước ta. Đây là ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 6 tiết.

Chương 1
Mấy vấn đề lý luận về văn hóa và sự hình thành nhân cách trẻ em (trước tuổi đi
học)
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Thuật ngữ văn hóa đi vào khoa học xuất sinh từ phương Tây, tiếng Pháp và
tiếng Anh điều viết là Culture.
Theo nghĩa rộng, văn hóa là phương thức tồn tại đặc hữu của con người, khác
biệt với phương thức tổ chức cuộc sống của các loài sinh thể khác trên trái đất.
Nhà khoa học người Pháp Tây-ha Đơ Sác-đanh (Teihard de Chardin) cho rằng:
Sự phát triển của vũ trụ bắt đầu từ khi xuất hiện sự sống, ông gọi đó
là sinh quyển (Biosphère). Tiếp đó là sự xuất hiện của tri quyển (Noosphère)
chỉ có ở loài người. Tri quyển đó là quyển về ý thức, tinh thần, về tư duy do
loài người tạo ra. Tri quyển chính là văn hóa, biểu hiện thành "thiên nhiên
thứ hai" hoặc còn gọi là "thế giới nhân tạo" của con người [9, tr. 9].
5
Giải thích thuật ngữ văn hóa, các nhà nhân học phương Tây thường phân biệt ra
hai trường hợp: văn hóa viết hoa, số ít (Culture) và văn hóa không viết hoa, số nhiều

(cultures) [15, tr. 13].
Văn hóa viết hoa, số ít (Culture) là thuật ngữ dùng để chỉ thuộc tính chỉ có ở
loài người. Đó là khả năng học hỏi, thích ứng, sáng tạo ra những quan niệm, hành vi ứng
xử và hệ thống các biểu tượng, nhờ đó loài người có thể vận thông với nhau để tồn tại
và phát triển.
Văn hóa không viết hoa, số nhiều (cultures) là thuật ngữ dùng để chỉ các nền
văn hóa. Đó là những truyền thống, thể hiện thành những lối sống khác nhau của cộng
đồng, bao gồm các hệ thống ý niệm, hệ thống ứng xử liên quan đến giá trị, hệ thống biểu
hiện và hệ thống kỹ thuật, mà các cộng đồng ấy trong quá trình hoạt động thực tiễn đã
sáng tạo ra và học hỏi được. Hệ thống ý niệm (hệ tư tưởng) được xem là yếu tố cốt lõi
của văn hóa, đóng vai trò chi phối đối với các hệ thống khác.
Phù hợp với cách khu biệt trên đây, các nhà xã hội học cũng chia văn hóa ra:
văn hóa cá nhân và văn hóa cộng đồng [28]. Văn hóa cá nhân là toàn bộ tri thức (vốn
kinh nghiệm), quan niệm được tích lũy vào mỗi cá nhân, quy định ứng xử của nó trong
quá trình hoạt động thực tiễn - lịch sử - xã hội; văn hóa cộng đồng không phải là con số
cộng đơn giản của những văn hóa cá nhân sống trong cộng đồng xã hội ấy, mà là văn
hóa của một nhóm xã hội. Đó là toàn bộ những quan niệm và hành xử được cộng đồng
chia sẻ và chấp nhận, đã trở thành truyền thống của cộng đồng xã hội. Chính hệ thống
những quan niệm và hành xử này làm nên bản sắc văn hóa của cộng đồng xã hội ấy.
Trong luận văn này khi nói: "Tác động của văn hóa "- tức là nói đến tác động
của "văn hóa cộng đồng", đối với sự hình thành "nhân cách trẻ em"- tức là nói đến sự
hình thành "văn hóa cá nhân" ở mỗi trẻ em. Như vậy, luận văn sử dụng cả hai nghĩa của
từ văn hóa.
Để tiếp cận đối tượng nghiên cứu, đề tài sẽ phân tích văn hóa dưới góc nhìn xã
hội học và với phương pháp liên ngành: tâm lý, văn hóa, xã hội học.
Phù hợp với cách tiếp cận trên đây, đề tài vận dụng định nghĩa văn hóa (cộng
đồng) của nhà xã hội học Ba Lan Giăng Sê-pan-xki. Ông viết: "Văn hóa là toàn bộ sản
phẩm vật chất và tinh thần của hoạt động người, những hệ thống giá trị và khuôn mẫu
6
ứng xử được cộng đồng xã hội thừa nhận và truyền lại cho các cộng đồng người khác và

cho những thế hệ tương lai thông qua các thiết chế xã hội - văn hoá của nó" [28, tr. 52].
Định nghĩa trên đây xuất phát từ quan điểm mác-xít xem văn hóa là hoạt động
sáng tạo tích cực của con người, sống trong một cộng đồng xã hội nhất định. Hoạt động
sáng tạo ấy đã tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần nhằm đáp ứng các nhu cầu
tồn tại và phát triển, nó còn tạo ra những hệ thống giá trị và chuẩn mực xã hội đóng vai
trò nền tảng tinh thần, điều tiết và thúc đẩy xã hội đi lên theo hướng nhân bản. Toàn bộ
những thành quả sáng tạo ấy được tích lũy lại, thông qua các thiết chế xã hội - văn hóa
như gia đình và trường học mà truyền đạt cho các thế hệ tương lai và cho các cộng đồng
khác nữa. Như vậy, văn hóa chẳng những là chất keo liên kết làm cho xã hội bền vững
và phát triển, nó còn là cầu nối giữa các thế hệ và giữa các cộng đồng người, tạo nên sự
đa dạng và sự liên tục của đời sống xã hội.
Định nghĩa trên đây nhấn mạnh vào bốn yếu tố: những sản phẩm vật chất và
tinh thần, các hệ thống giá trị, các hệ thống khuôn mẫu ứng xử, các thiết chế xã hội -
văn hóa. Đó là những yếu tố cùng với những con người làm nên môi trường văn hóa, tác
động đến sự hình thành nhân cách tuổi ấu thơ.
1.1.2. Khái niệm nhân cách và nhân cách văn hóa
Đây là những khái niệm mới và rất khó, cho nên ở đây chúng tôi dựa theo quan
niệm của GS.TSKH Tâm lý học Phạm Minh Hạc để trình bày về các khái niệm này
[18].
Theo ông, để hiểu nhân cách là gì, trước hết cần phân biệt mấy khái niệm như:
con người, cá thể, cá nhân, nhân cách. Đây là những khái niệm mà trong đời sống thông
thường người ta hay dùng lẫn lộn.
Trong khoa học, người ta xem con người là tác phẩm kỳ diệu của thiên nhiên, là
một vũ trụ nhỏ theo quan niệm "nhân thân - tiểu vũ trụ". Con người là kẻ sáng tạo ra lịch
sử (văn hóa), đồng thời là sản phẩm của lịch sử văn hóa, văn minh nhân loại. Khi là đại
diện cho loài, con người được gọi là cá thể (cá thể/ loài). Khi là thành viên của một xã
hội, nó được gọi là cá nhân (cá nhân/ xã hội). Khi là chủ thể của hoạt động sáng tạo, con
người được gọi là nhân cách (nhân cách/ chủ thể của hoạt động).
Khi con người hoạt động, nó phải vận dụng tâm lý của bản thân, (nhận thức,
tình cảm, ghi nhớ và chú ý, tính khí và tâm trạng, lời nói và việc làm ). Chừng nào

7
những hiện tượng tâm lý ấy có thái độ riêng, và các thái độ riêng này bền vững, ổn định
như các thuộc tính của chủ thể, khi đó các thái độ ấy trở thành diện mạo tâm lý của
người này. Như vậy, nhân cách là tổ hợp các thái độ - thuộc tính riêng trong quan hệ với
hành vi ứng xử (nói năng, đi đứng, cư xử ), hành động, hoạt động với thiên nhiên với
đồ vật, người khác, cộng đồng, xã hội và bản thân. Đó chính là hệ thống thái độ làm nên
diện mạo tâm lý, tức nhân cách của con người.
Và, khi nào hệ thống thái độ ấy phản ánh và chứa đựng các giá trị văn hóa của
các cấp cộng đồng (mà cá nhân ấy sở thuộc vào), chủ yếu là cộng đồng dân tộc - quốc
gia, khi ấy ta có nhân cách văn hóa.
Từ góc nhìn văn hóa học, nhân cách văn hóa có thể hình dung như là diện mạo
tâm lý người lao động sáng tạo, người đại biểu mang vác hệ giá trị và chuẩn mực xã hội
của một cộng đồng xã hội nhất định (ở đây là cộng đồng dân tộc - quốc gia). Đặc điểm
ưu trội của nhân cách văn hóa có thể biểu hiện ở năng lực sáng tạo của nó. Lao động
sáng tạo trong văn hóa như là hình thức tự khẳng định, tự bộc lộ và phát huy "các lực
lượng bản chất người" (C. Mác) của nhân cách văn hóa.
Vấn đề xây dựng văn hóa suy cho cùng, là vấn đề con người văn hóa, nhân cách
văn hóa. Hồ Chí Minh là Một nhà văn hóa, Một nhân cách văn hóa tiêu biểu của dân tộc
Việt Nam. ở con người Bác, nhân cách văn hóa được thể hiện trước hết là các giá trị văn
hóa mang đậm bản sắc dân tộc, và điều quan trọng, nó luôn tỏa sáng, ảnh hưởng tới
trong cuộc sống mọi con người Việt Nam nói riêng và làm rung động không ít tâm hồn
con người các dân tộc trên thế giới.
Để phát triển toàn diện con người, hình thành nhân cách văn hóa ở con người,
đặc biệt ở lứa tuổi thơ, vai trò của Văn hóa và Giáo dục là cực kỳ to lớn và có ý nghĩa
then chốt trong thời kỳ phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Đưa các
giá trị văn hóa truyền thống dân tộc - hiện đại vào giáo dục gia đình, nhà trường nhằm
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và văn hóa văn minh nhân loại, hình thành nhân cách
văn hóa cho thế hệ trẻ thơ là đã đưa Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần
thứ năm (khóa VIII) của Đảng vào cuộc sống.
1.1.3. Khái niệm "trẻ em trước tuổi đi học"

Trong cuộc đời con người, có một giai đoạn được gọi là "tuổi ấu thơ", đồng thời
cũng là giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành nhân cách mà một số nhà tâm lý gọi
8
là "trẻ em trước tuổi đi học". Về mặt thuật ngữ, tuy chưa có sự thống nhất chung, nhưng
có sự thừa nhận chung trẻ em trước tuổi đi học được tính từ 0-6 tuổi.
Trong lứa tuổi này, các nhà khoa học giáo dục, tâm lý lại chia ra các giai đoạn
nhỏ với các tên gọi khác nhau trên cơ sở những đích sống và trưởng thành của cơ thể trẻ
thơ. Có thể khái quát tên gọi các thời kỳ chủ yếu của trẻ trước tuổi đi học như sau:
Thời kỳ Việt Nam Thế giới
0-6 tuổi Trẻ trước tuổi đi học hay
Tuổi mầm non
Trẻ trước tuổi học hay Tuổi
ấu thơ
0-1 tháng tuổi Tuổi sơ sinh Tuổi ấu thơ ban đầu
1 tuổi Tuổi bú mẹ Tuổi bế bồng
2 tuổi Tuổi nhà trẻ Tuổi nhà trẻ
3-4 tuổi Tuổi mẫu giáo bé Tuổi mẫu giáo
4-5 tuổi Tuổi mẫu giáo nhỡ Tuổi mẫu giáo
5-6 tuổi Tuổi mẫu giáo lớn Tuổi mẫu giáo
Đặc trưng tâm sinh lý lứa tuổi trẻ em trước tuổi đi học là một quá trình phát
triển liên tục cả về thể chất và tinh thần. Đây là thời kỳ mà con người có khả năng tiếp
thu những tác động giáo dục nhạy bén nhất - một thời kỳ phát triển khá dài với tốc độ
khá nhanh so với cả đời người. Đó là những cơ sở nhân cách ban đầu của cả cuộc đời.
Giáo dục mầm non là hình thành ở trẻ một nhân cách giàu tiềm năng trí tuệ, một cá tính
chủ động sáng tạo và những phẩm chất tốt đẹp ở con người thời đại văn minh.
1.2. Khái niệm văn hóa tuổi ấu thơ
Từ khi chào đời đến khi trưởng thành, đứa trẻ trải qua một quá trình phát triển
không ngừng cả về thể chất lẫn tinh thần. Sự phát triển các đặc điểm hình thái và sinh lý
của cơ thể trẻ em có quan hệ qua lại với sự phát triển tâm lý của chúng, tức là với sự
hoàn thiện hoạt động tiếp thu và nhận thức của não bộ các cháu. Muốn nuôi dạy trẻ có

9
kết quả, làm cho chúng khỏe mạnh và phát triển toàn diện, chúng ta không thể không
tính đến vai trò của văn hóa và nắm chắc các đặc điểm trên.
Tuy nhiên, đã có nhiều công trình nghiên cứu về sự sống của con người không
chỉ bắt đầu từ lúc chào đời, mà trước đó - thời kỳ thai nhi - vào khoảng tuần thứ tư sau
thụ thai đã xuất hiện nhịp đập của tim, và vào tháng thứ năm thì não bộ đã được hình
thành với chừng 12 tỷ tế bào thần kinh Người ta còn ghi nhận ở thai nhi sự kế tiếp
nhau của hoạt động và nghỉ ngơi mà người mẹ cảm nhận được khi thai "máy", "đạp",
"ngủ" ở trong bụng. Ngược lại, điều mà chúng ta biết chắc chắn là, những tình cảm,
những hy vọng, sự hiểu biết của người mẹ có ảnh hưởng sâu sắc đến đứa trẻ trong bụng.
Do đó, trong xã hội truyền thống, và hơn bao giờ ở xã hội hiện đại người ta đặt ra vấn đề
"thai giáo" cho các bà mẹ. Những chứng cứ trong nghiên cứu nhân học nhân thể đã
khẳng định "Một đứa trẻ khi còn nằm trong bụng mẹ nó không chỉ là một sinh thể ăn
bám và thụ động. Nó nhận ra bóng tối và ánh sáng, nó nghe và đáp ứng các tiếng ồn, nó
cảm thụ được đau đớn và phản ứng lại, nó mút ngón tay cái " (P. K. Bock) [5, tr. 5].
Như thế cho thấy, mọi tập quán xã hội có liên quan đến hiện tượng mang thai và sinh
nở, từ cách làm việc, nghỉ ngơi, ăn uống, kiêng cữ, những cảm xúc buồn vui của người
mẹ khi mang thai đều ảnh hưởng đến thai nhi.
Trẻ từ khi ra đời đến suốt thời ấu thơ, trải qua một thời kỳ phát triển rất nhanh
và phong phú về các mặt thể chất, tình cảm, trí tuệ. Đó cũng là lứa tuổi đặc biệt nhạy
cảm với mọi tác động bên ngoài, mọi ảnh hưởng của giáo dục cũng như môi trường
xung quanh. Thời kỳ ấu thơ là giai đoạn khơi dậy năng lượng đời người và là thời kỳ
quan trọng nhất đời người. Nhiều công trình nghiên cứu tâm lý - văn hóa chứng minh
việc khai thác đầy đủ năng lượng giai đoạn tuổi ấu thơ có tính quyết định làm nền tảng
thành công của mỗi con người sau này.
Như vậy, văn hóa trong nuôi dưỡng và giáo dục trẻ lứa tuổi mầm non có tầm
quan trọng đặc biệt. Ngày nay xu hướng giáo dục tiên tiến đều xem trọng việc "nuôi" và
"dạy" trẻ ở lứa tuổi này, coi đó là khâu đầu tiên đặt nền móng cho việc xây dựng con
người trong tương lai. Chính vì vậy, Nghị quyết Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam
(khóa VIII) về cải cách giáo dục đã nêu rõ: Phải làm tốt việc chăm sóc và giáo dục thế

hệ trẻ ngay từ tuổi thơ ấu cho đến lúc trưởng thành. Việc chăm sóc và giáo dục các em
10
từ tuổi sơ sinh cho đến 6 tuổi có tác dụng cực kỳ quan trọng trong sự hình thành con
người mới xã hội chủ nghĩa.
Song, một điều cần nhấn mạnh, cái gọi là năng lượng đời người (những khả
năng, năng khiếu, kỹ năng) của con người không phải là bẩm sinh hay có tính di truyền.
Chỉ có một số tố chất nhất định nào đó là tiền đề về sinh học giúp con người trong quá
trình tiếp thu thực tế. Còn nhìn chung, mỗi cá nhân bước vào cuộc sống phải hình thành
và phát triển những khả năng, năng khiếu, kỹ năng của con người bằng cách lĩnh hội các
sản phẩm cụ thể của văn hóa. Việc tiếp thu, nắm vững các cách thức hoạt động nhận
thức của con người gọi là quá trình "nhập thân văn hóa", đó cũng chính là mặt quan
trọng để hình thành con người trong xã hội. Nhập thân văn hóa ở tuổi ấu thơ, là dạy cho
trẻ cách học làm Người. Hay nói cách khác, là quá trình "khai tâm" để trẻ học làm người
lớn.
Khai thác đầy đủ khả năng năng lượng to lớn ở lứa tuổi này là tác động của văn
hóa làm sao để trẻ được chăm sóc nuôi, dạy và hoạt động đáp ứng đúng nhu cầu cuộc
sống của trẻ (về tình cảm, giao tiếp, sự an toàn), đồng thời hình thành nên văn hóa cá
nhân.
Như vậy, trẻ thơ chỉ có thể lĩnh hội được văn hóa khi có sự truyền thụ và giúp
đỡ của người lớn (như ông, bà, cha, mẹ, thày, cô giáo, người lớn) với tư cách "kẻ môi
giới". Việc hình thành nhân cách con người, không thể thực hiện được nếu chỉ riêng đưa
trẻ tiếp xúc một mình với các sự vật ở xung quanh nó. Để lĩnh hội được cách thức hoạt
động chi phối các sự vật xung quanh và biến chúng thành khả năng riêng của mình, đứa
trẻ phải có những người khác làm trung gian môi giới và được sống trong sự giao tiếp
với những người đó.
Theo Max Weber - nhà xã hội học người Đức - con người được hình thành mô
hình hành vi (khuôn mẫu tác phong) từ nhỏ để có khả năng tham gia vào giao tiếp chung
với con người, cộng đồng và xã hội. Max Weber là nhà xã hội học đại diện cho thuyết
hành động. Quan điểm văn hóa của ông không coi văn hóa như một hiện tượng có thể
mô tả được, mà là cả một hệ thống các quy định, quy tắc hướng dẫn hành vi ứng xử của

con người, quy định phương thức hành động [24].
11
Còn theo M. J. Herskovits, cùng trường phái nhân học thì đặc biệt quan tâm vấn
đề "nhập thân văn hóa". Văn hóa ở đây được quan niệm như một công cụ vận thông đặc
biệt giúp cho con người dễ dàng thích nghi với điều kiện sống.
Theo Từ điển Dân tộc học tiếng Pháp của Michel Panoff và Michel Perrin thì:
Nhập thân văn hóa - đó là quá trình hữu thức hoặc vô thức, nhờ đó một cá thể
trong suốt đời người đã hấp thụ các truyền thống, tức các mô hình ứng xử của nhóm, và
hành xử về các mặt chức năng đối với các truyền thống ấy. Nhờ có thuật ngữ này, người
ta đã xác lập được mối liên hệ giữa sự kiện xã hội, được xem xét như bản thân sự vật, với
hành vi của cá nhân, thông qua đó mà văn hóa biểu lộ ra. Thuật ngữ này thường coi như
đồng nghĩa với thuật ngữ "nhập tâm văn hóa". Một số nhà nghiên cứu khác lại thâu gộp
trong thuật ngữ "nhập thân văn hóa" cả quá trình trao truyền văn hóa, cùng với các hiện
tượng "đổi mới" (phát minh) văn hóa [26].
Bằng khái niệm "nhập thân văn hóa", có thể diễn đạt trình bày sự lĩnh hội của
trẻ em đối với các chuẩn mực văn hóa, khuôn mẫu văn hóa, giá trị văn hóa trong quá
trình hoạt động, chủ động tiếp cận với xã hội và với những cá thể khác. Nhập thân văn
hóa do đó, vừa là một cách thức để con người thích ứng hòa nhập với điều kiện sống,
vừa là cách thức để văn hóa tồn tại và phát triển.
Theo các nhà nhân học, quá trình nhập thân văn hóa kéo dài suốt
cả đời người, chỉ đến chết mới thôi (M. J. Herskovits), song giai đoạn ấu thơ là
quan trọng bậc nhất trong đời sống văn hóa của một cá thể. Theo
M. J. Herskovits, quá trình nhập thân văn hóa của tuổi ấu thơ được chia làm ba
giai đoạn: giai đoạn tiền ngôn ngữ (thời kỳ thai giáo và sau sinh 1 năm), giai đoạn ngôn
ngữ (trẻ 1- 3 tuổi) và giai đoạn tiền thao tác (trẻ 3- 6 tuổi). Sự phân chia này cũng phù
hợp với ba giai đoạn của trẻ em trước tuổi đi học ở nước ta.
- Giai đoạn tiền ngôn ngữ: truyền thống xã hội và gia đình ảnh hưởng đến đứa
bé ngay khi nó còn trong bụng mẹ. Quá trình đó gọi là "thai giáo" hay "chăm sóc thai
nghén". Căn cứ vào một số công trình nghiên cứu thực nghiệm cho biết, đứa trẻ trong
bào thai có phản ứng với ánh sáng, âm thanh và cảm thụ được sự đau đớn.

Tập quán xã hội trong cách ăn uống, kiêng cữ, làm việc, nghỉ ngơi, tình cảm vui
- buồn của mẹ đều ảnh hưởng đến thai nhi. Cụ thể và rõ ràng nhất khi người mẹ mang
12
thai có bệnh, uống thuốc dễ có những tác động đến đến con sau này. Ví dụ: mẹ mang
thai bị cảm cúm, bị bệnh tiểu đường,
Sau khi sinh nở cũng vậy, những tập quán khác nhau: chế độ ăn uống, kiêng cữ
của mẹ, chế độ cho con bú sữa ngay sau sinh hay phải chờ một thời gian nhất định nào
đó đều tạo ra các tác động khác nhau đối với trẻ.
Văn hóa nuôi - dạy trẻ trong thời kỳ tiền ngôn ngữ được biểu hiện ngay từ khi
trẻ khi lọt lòng mẹ, quan hệ gắn bó mật thiết đầu tiên là tình cảm Mẹ - Con. Con cần mẹ
- mẹ cần con như một nhu cầu tự nhiên tất yếu. Một số nghiên cứu cho biết, trẻ sơ sinh
lọt lòng không có mẹ ôm ấp, vỗ về, trò chuyện, âu yếm sẽ khôn lường trong hình
thành nhân cách trẻ. Bởi lẽ giai đoạn tiền ngôn ngữ này trẻ cực kỳ nhạy cảm, trẻ yếu ớt
mỏng manh.
Trẻ mới ra đời có rất ít khả năng tự thỏa mãn lấy các nhu cầu của bản thân ngoài
khả năng bú và bài tiết Để giúp trẻ thỏa mãn các nhu cầu ăn, mặc, vệ sinh, giao tiếp
người lớn phải là người trung gian giúp đỡ. Trẻ thời kỳ đầu sơ sinh chưa bộc lộ nhân
cách gì. Trẻ lúc này mới chỉ biết ăn, ngủ, khóc, bài tiết
Xung quanh cách nuôi - dạy trẻ, văn hóa của mỗi quốc gia, vùng miền đều ảnh
hưởng đến ứng xử của đứa bé thông qua cách đáp ứng nhu cầu của nó. Trong mỗi quốc
gia lề lối nuôi - dạy trẻ đã trở thành những khuôn mẫu ứng xử. Bằng cách đáp ứng các
nhu cầu của trẻ theo những lề lối văn hóa đã lập thành mô hình, những người lớn tuổi
trong môi trường bao quanh nó đã khuôn ứng xử của nó cho phù hợp với chuẩn giá trị
của xã hội. Khuôn mẫu hay lề lối nuôi - dạy trẻ có sự khác nhau giữa các vùng miền,
cộng đồng về tập quán do những khác nhau về địa lý, lịch sử và lề lối nuôi dạy trẻ có
những biến thiên theo thời gian khi tiền đề kỹ thuật xã hội cũ không còn phù hợp với xã
hội mới.
ở Việt Nam, giai đoạn tiền ngôn ngữ, đứa trẻ được nuôi dạy với nhiều tập tục
khi người mẹ mang thai và sau khi sinh. Do những đặc điểm địa lý, lịch sử, xã hội
truyền thống hình thành nên môi trường văn hóa trong đó đứa trẻ chịu sự tác động của

người lớn: ăn thế nào? ăn ở đâu? ăn những gì? và cách vận tã lót, quần áo sơ sinh. Ví
dụ: phong tục Việt Nam thường thích xin những tã lót, áo quần cũ của những đứa trẻ
khỏe mạnh, dễ nuôi, hay ăn chóng lớn của một gia đình khác để vận cho trẻ sơ sinh hy
vọng nó cũng hay ăn chóng lớn, dễ nuôi
13
Người mẹ sau sinh trong thời gian còn ở cữ (từ 1 tháng- 3 tháng) phải kiêng
khem nhiều thứ trong ăn uống, nhằm giữ sức khỏe cho cả mẹ và con.
- Giai đoạn ngôn ngữ: Đây là giai đoạn trẻ bước sang tuổi thứ hai, "Trẻ lên ba (tuổi
mụ) cả nhà tập nói" là như vậy. Giai đoạn ấu thơ này trẻ tiếp tục tiếp thu các chuẩn mực
và khuôn mẫu của xã hội. Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong đời sống văn hóa, đặt
nền tảng nhân cách ban đầu của một cá thể. Trẻ ở tuổi lên 2 - 3 được "học ăn, học nói".
Nó không còn có thể tự ngã hướng tâm mà phải tuân theo cách truyền dạy, áp đặt khuôn
mẫu mà cha mẹ, người lớn mong muốn ở nó. Đây cũng là giai đoạn phát triển mạnh mẽ
hệ thần kinh và não bộ của trẻ, do đó cái tốt trong trẻ giai đoạn này thật bền vững (có
khi theo nó suốt cả cuộc đời), nhưng cái xấu cũng thật khó sửa. Bởi vậy, truyền thống
nuôi dạy con trẻ ở các nước á Đông rất được coi trọng và gia đình được xem là hạt nhân
quan trọng quyết định tính cách, nhân cách của trẻ qua cách nuôi dưỡng và giáo dục. Trẻ
thời kỳ này phát triển mạnh mẽ tính bắt chước người lớn, tập đóng vai do đó, cha mẹ
cũng thường giáo dục con bằng các tấm gương của bản thân. Nếu giáo dục con theo
kinh nghiệm của cha truyền - con nối, trong một xã hội ít biến động, ít thay đổi về điều
kiện và tiền đề kỹ thuật trẻ không tiến được xa hơn thế hệ cha mẹ. Nó là mẫu hình của
cha mẹ, chỉ tiếp nhận một chiều thụ động, ít khả năng năng động, sáng tạo, không tự giải
quyết vấn đề và tự phục vụ bản thân.
- Giai đoạn tiền thao tác: Giai đoạn này trẻ cần được tăng cường hoạt động thông qua "sự
chơi" để luyện đôi tay khéo léo, nhập thân các vai trò xã hội để học làm Người. Giai
đoạn trẻ từ 3- 6 tuổi này có thể được mở rộng tiếp xúc giao lưu với mọi người ngoài gia
đình. Ví dụ: trẻ được đi nhà trẻ, lớp mẫu giáo. Giáo dục hoạt động thời kỳ này có vai trò
cực kỳ quan trọng phát triển trí tuệ, năng lực, năng khiếu, hiểu biết và kỹ năng sống ở
trẻ. Do đó mà ở lứa tuổi này trẻ rất cần được bổ sung những phương pháp giáo dục sư
phạm vốn bản thân giáo dục gia đình không thể thực hiện thay thế được.

Tóm lại, ba giai đoạn trên phản ánh quá trình nhập thân văn hóa của tuổi ấu thơ.
Trước hết, con người sinh ra được tiếp thu những giá trị chuẩn mực văn hóa từ gia đình.
V. Caudill nhận xét "văn hóa có thể "đâm rễ" vào cá nhân sau khi đẻ 3 tháng". Còn J.
Dunn viết: "Những khuôn mẫu âu yếm, cho ăn, trò chuyện và chơi với trẻ là một bộ
phận của một nền văn hóa" [4, tr. 182]. Thời kỳ sơ sinh và bú mẹ là thời kỳ "nhạy cảm
nhất" của tuổi thơ. Những nghiên cứu nhân học đã khám phá nếu trẻ được tiếp xúc
14
thường xuyên với mẹ giúp trí tuệ phát triển, đồng thời mang dấu ấn văn hóa của dân tộc
đó, gia đình đó. Ngược lại, trẻ không được tiếp xúc thường xuyên với mẹ sẽ kém phát
triển trí tuệ, thậm chí không may mất mẹ, trẻ dễ mắc bệnh trầm cảm.
Ngoài gia đình, ở lứa tuổi ấu thơ, trẻ còn tiếp nhận văn hóa ở nhà trẻ, lớp mẫu
giáo. Trường học là môi trường văn hóa thứ hai đồng thời là môi trường chính yếu để
mỗi cá thể nhập thân văn hóa. Nó không chỉ giúp trẻ lĩnh hội những kiến thức, mà ở lứa
tuổi này trẻ được học qua "sự chơi" nhằm phát triển tối đa khả năng sáng tạo của mình.
Trò chơi cho trẻ ở thời kỳ này là hoạt động quan trọng phát triển năng lực trí tuệ, nhận
thức và khuôn mẫu hành vi, hình thành nhân cách ban đầu và kỹ năng sống ở trẻ. Qua
hoạt động trò chơi trẻ nắm được kỹ năng có nguồn gốc văn hóa dân tộc (folklore). Ví
dụ, trẻ được học cách chơi "bịt mắt bắt dê", "nu na nu nống" hoặc cho trẻ hoạt động
ngoài trời, tham quan, du khảo những nơi có phong cảnh đẹp, có lễ hội, tiếp xúc với thế
giới động vật, qua đó hình thành ở trẻ tình yêu thiên nhiên đất nước, yêu thương con
người và bảo vệ môi sinh.
Tóm lại, tuổi ấu thơ, nói như A. Kroeber "là một sự bùng nổ văn hóa độc đáo"
[4, tr. 163], tiêu biểu nhất ở nhu cầu được khám phá thế giới sự vật, và một tiềm năng
sáng tạo to lớn. Nghiên cứu "Văn hóa tuổi ấu thơ" là chúng ta đi vào các nghi thức liên
quan đến vấn đề "thai giáo", vấn đề văn hóa nuôi, dạy trẻ đáp ứng đặc điểm cuộc sống
của trẻ thơ và yêu cầu về nguồn nhân lực đất nước. Đồng thời để đảm bảo quá trình
nhập thân văn hóa của trẻ em diễn ra hài hòa, toàn vẹn, chúng ta cần có những giải pháp
văn hóa để biến nó thành nhân tố tự điều chỉnh bên trong mỗi đứa trẻ.
Thời đại ngày nay khi khoa học - kỹ thuật không ngừng phát triển và xu thế hội
nhập văn hóa đang diễn ra từng ngày trên toàn thế giới, thì yếu tố văn hóa và sáng tạo

của văn hóa càng được chú trọng trong sự nghiệp "trồng người " của mỗi quốc gia.
15
CHƯƠNG 2 Khảo sát thực trạng về văn hóa tuổi ấu thơ ở nước ta
Khảo sát thực trạng về văn hóa tuổi ấu thơ ở nước ta tác giả sẽ đi vào hai thời kỳ
chủ yếu là: Xã hội truyền thống (từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 trở về trước) và xã hội
hiện nay (từ đổi mới năm 1986 tới nay).
2.1. Văn hóa tuổi ấu thơ trong xã hội truyền thống
2.1.1. Vài đặc điểm về xã hội truyền thống
Trong tiến trình phát triển của dân tộc, những dấu ấn lịch sử của xã hội nông
nghiệp lúa nước đã ảnh hưởng và chi phối rõ rệt đến cách ứng xử của người Việt. Trải
qua hơn một nghìn năm Bắc thuộc, chính quyền phương Bắc đã ráo riết thực hiện chính
sách đồng hóa, bằng cách truyền bá một cách áp đặt những giá trị và chuẩn mực văn hóa
Hán vào nước ta. Trước tình hình đó nhân dân ta một mặt, luôn luôn tìm cách chống lại
ảnh hưởng đồng hóa của văn hóa, bằng cách giữ gìn tiếng nói, phong tục và những nét
văn hóa riêng của mình, mặt khác, tiến hành tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn
hóa Hán, để không ngừng làm giàu cho văn hóa dân tộc.
Do chính sách cai trị tàn bạo của các đế chế phương Bắc, nhân dân ta phải liên
tục nổi dậy chống lại chính quyền đô hộ, giành lại quyền tự chủ cho đất nước. Trong
cuộc đấu tranh sinh tử ấy đã xây dựng nên tinh thần đoàn kết cộng đồng - cơ sở để hình
thành nên dân tộc - quốc gia sau này. Có thể nói tính cố kết cộng đồng là đặc điểm quan
trọng nhất trong phương thức ứng xử của người Việt. Chính đặc điểm này đã có ảnh
hưởng, chi phối, dẫn dắt mọi người sống và hành động theo lợi ích của cộng đồng, củng
cố cộng đồng và ngược lại, cộng đồng giúp cho mỗi người phát triển. Xưa kia, làng là
đơn vị cơ sở. Con người sinh ra trong làng, lớn lên rồi chết đi cũng ở làng. Hoặc như có
ai đi đây đó, kinh doanh lập nghiệp, hay đạt được sự giàu sang danh vọng, niềm hãnh
diện ấy cần được khuếch trương ở làng. Làng là nơi cung cấp cho các thành viên của nó
những tri thức đầu tiên, định ra những quy tắc cho cuộc sống cộng đồng, giúp các thành
viên có cuộc sống an toàn, trong vòng tay bảo hộ của "dân làng". Nói cách khác, tư
tưởng nhân văn cộng đồng đã trở thành nếp sống, thuần phong mỹ tục của người Việt
Nam trong xã hội truyền thống. Nó đã đi vào văn chương, nghệ thuật, thấm vào tâm

hồn, tình cảm, tâm linh của con người Việt Nam.
ở Việt Nam, làng nào cũng thờ thần làng, thường gọi là Thành hoàng và nhà nào
cũng có bàn thờ tổ tiên. Chính các hình thái tín ngưỡng này liên kết cộng đồng về
16
phương diện tinh thần. Thành hoàng có thể là anh hùng liệt sĩ, cũng có thể là ông tổ lập
nên làng xóm, dạy dân cách làm ruộng, phát triển nghề, làng có một họ thì ông tổ còn là
người sáng lập ra dòng họ. Biết ơn các vị Thành hoàng và tổ tiên tức là đã có một niềm
tin sâu sắc, thiêng liêng về cội nguồn. Hàng năm vào dịp hội làng, các thành viên trong
cộng đồng "nhập thân" vào sinh hoạt tâm linh của ngày hội với niềm cộng cảm say mê,
từ đó hình thành nên ở mỗi thôn dân một tâm thức làng quê sâu sắc.
Trong đời sống xã hội, bất cứ dân tộc nào cũng thường phải định ra những
chuẩn mực ứng xử cho các thành viên xã hội. Điểm đặc biệt trong ứng xử của người
Việt Nam là dựa trên nguyên tắc tôn trọng sự đồng thuận trong cộng đồng. Vì thế, cộng
đồng thường yêu cầu các thành viên sống phải nghĩ đến gia tộc, dòng họ làng xã chứ
không được chỉ nghĩ đến bản thân. Trong xã hội cộng đồng ấy không thể có "cái tôi" cá
nhân, mà chỉ có "cái ta" cộng đồng. Điều này cũng có nghĩa là, tự do cá nhân là điều
cấm kỵ, không bao giờ được đặt ra, khi có người nào dám phản ứng thì dư luận cộng
đồng sẽ lên án. Thêm vào đó, sống ở trong làng mọi người đều rõ gốc tích của nhau nên
nếu không tuân thủ những quy định của cộng đồng thì sẽ gây nên những điều tiếng thị
phi đe dọa sự an sinh của gia đình.
Như vậy, một mặt cộng đồng giúp cho mỗi thành viên tồn tại, nhưng mặt khác,
nó lại đặt ra trước mọi người những cái "ngưỡng" mà mỗi người không thể vượt qua.
Sống trong cộng đồng, mỗi người nếu muốn được an toàn thì phải biết dẹp "cái tôi" của
mình lại để hòa vào "cái ta" cộng đồng. Xét về phương diện phát triển của mỗi người thì
đó là điều rất hạn chế, nhưng xét về mặt bảo tồn lợi ích cộng đồng trong một giai đoạn
lịch sử nhất định thì đó chính là một biện pháp cần thiết.
Trong họ mạc, láng giềng, làng xã thì tính chất quan hệ của con người vẫn nặng
về tình cảm. Cách ứng xử giữa những người trong dòng họ, làng xã chủ yếu là do khía
cạnh tình nghĩa chi phối. Sống ở làng, người ta biết rõ về nhau đến bao nhiêu đời nên
cách ứng xử của người Việt thường vị tình chứ không vị lý. Người ta không thể "cạn tàu

ráo máng", khi xử sự bao giờ cũng nhớ nguyên tắc "chém cây ai nỡ dứt chồi". Muốn tạo
ra sự ổn định và thịnh vượng cho cộng đồng làng xã, phải có những quy tắc ấn định
trách nhiệm và nghĩa vụ cụ thể cho các thành viên. Dù cho những quy tắc ấy không
thành văn nhưng các thành viên vẫn nhớ và tuân theo rất nghiêm túc, từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Đó là những tập tục in sâu trong đầu óc của mỗi thành viên. Ai làm trái
17
những quy tắc ấy nhất định sẽ bị trừng phạt. Như vậy, mô thức ứng xử trong cộng đồng
nhỏ (gia đình, làng xã) mở rộng ra thành những nguyên tắc ứng xử trong cộng đồng lớn
(dân tộc, Tổ quốc), tạo nên truyền thống văn hóa ứng xử độc đáo của người Việt.
Trong các quan hệ ứng xử đó, nhiều khi cái tình đã hết mà cái nghĩa vẫn còn,
tức mọi người vẫn phải luôn nghĩ về bổn phận. Bổn phận của mỗi người đối với ông bà,
cha mẹ, vợ con, làng xóm, dân tộc, Tổ quốc là một cái gì mang tính "thường trực" trong
tâm thức Việt Nam của xã hội truyền thống, có thể nói: con người Việt Nam luôn luôn
là con người bổn phận. Chính vì vậy, mà tính chất cộng đồng tình nghĩa luôn luôn tồn
tại trong triết lý nhân sinh, trong cách ứng xử của người Việt Nam. Nói cách khác, trong
giao tiếp ứng xử của người Việt, giá trị nhân nghĩa, tình cảm hài hòa được xem là yếu tố
ưu trội.
Khi nói tới môi trường văn hóa truyền thống không thể không nói tới môi
trường văn hóa gia đình. Gia đình ở Việt Nam có một vai trò rất lớn trong việc nuôi
dưỡng trẻ em, góp phần hình thành nhân cách trẻ em trước tuổi đi học.
Gia đình là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng tình cảm con người. Trong cộng đồng sơ
bản đó, con người do hấp thụ một cách hữu thức hoặc vô thức hệ thống ứng xử của những
người thân mà hình thành nên tình cảm, tính cách, nhu cầu, bổn phận của mình, trong
đó mối quan hệ tình- nghĩa trở nên sâu đậm nhất. Mỗi thành viên nhận được sự đùm bọc
của gia đình nhỏ trong một gia đình lớn: dòng họ, nhiều họ hợp lại thành cộng đồng làng
xã.
Gia đình truyền thống Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời làng - nước.
Trên cơ sở của nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước, người Việt Nam đã sớm định
cư theo dòng máu thành thôn xóm, thành làng - họ. Sống gắn bó với cộng đồng "nước
nhà". Nhà nghiên cứu Phan Ngọc có nhận xét: "Tâm thức Việt Nam nói "nước nhà" tức

là khi nói đến nhà (gia đình) phải xét trong quan hệ với nước, ngược lại, khi xét đến
nước phải xét trong quan hệ với nhà ". Lý do người Việt Nam, chủ yếu người Kinh
(Việt), làm ruộng nước trên đồng bằng buộc phải chống chọi với hạn hán, lũ lụt, đắp đê,
giữ đê. Hoàn cảnh này tạo nên sự gắn bó không chỉ trong gia đình mà cả với làng và
nước. Cùng với đắp đê trị thủy, người Việt Nam còn nhiệm vụ chống ngoại xâm - hai
đặc điểm lớn nhất của dân tộc Việt Nam đòi hỏi sự đoàn kết cao giữa gia đình - làng -
nước. Mặt khác, với đặc điểm cơ cấu xã hội Nhà - Làng - Nước, ở đó, con người sống
18
trong cộng đồng gia đình, gia đình trong cộng đồng làng xã, làng xã trong cộng đồng đất
nước, tạo nên nhân cách con người truyền thống chỉ là những thôn dân, dân làng, và là
con người cộng đồng. Do đó, có thể xem sự gắn bó con người - gia đình - dòng họ - làng
xã - đất nước là nét cố hữu của đời sống tinh thần người Việt trong xã hội truyền thống.
Trong xã hội truyền thống, Nho giáo có vai trò quan trọng trong đời sống chính
trị và xã hội. Điều mà gia đình Nho giáo bảo vệ là trật tự trên dưới: cha - mẹ, vợ -
chồng, anh chị em có vai trò xã hội và phận vị của mình. Đạo lý quan trọng bậc nhất
của gia đình kiểu này là giữ nghiêm trật tự kỷ cương giữa chức năng "sử" là quyền hạn
sai khiến với "sự" là nghĩa vụ phải phục tùng của bề dưới với bề trên. Ví dụ: giữa cha
mẹ (bề trên) với con cái (bề dưới), giữa chồng (bề trên) với vợ (bề dưới), giữa anh chị
(bề trên) với em (bề dưới) v.v
Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình Nho giáo được chế định thành lễ
nghĩa. Theo lễ nghĩa cũng có nghĩa là theo cái "chuẩn chung" của xã hội, chứ không
theo ý muốn riêng của bản thân mỗi người. Mọi người cho rằng, con người sống theo ý
riêng của mình là ích kỷ, là gây tổn thương tới sự hòa thuận của gia đình. Do đó, trong
đời sống cộng đồng làng xã cũng như gia đình người ta khuyến khích tinh thần "vị tha"
(vì người khác) và chê bai tính "vị kỷ", tức chỉ nghĩ đến bản thân mình.
Như vậy, gia đình truyền thống thường quan tâm đào tạo ra những con người
hiếu đễ - lễ nghĩa, tức là những thành viên hành xử theo phận vị, biết vâng lời người tôn
trưởng, nó không có quyền tự quyết, ngay cả những việc liên quan đến bản thân mình.
Có thể gọi đây là con người bổn phận phi cá tính. Song mặt khác, đây cũng là sợi dây
trói buộc, làm cho con trở lên thụ động, không dám tự thể hiện mình, vươn lên giải

phóng mọi tiềm năng sáng tạo của mình để trở thành con người chủ động, tích cực của
một nhân cách tự do.
2.1.2. Quá trình nhập thân văn hóa tuổi ấu thơ trong xã hội truyền thống
2.1.2.1. Giai đoạn tiền ngôn ngữ
- Thai giáo
Ông bà ta thường nói "dạy con từ thuở còn thơ", nhưng trong thực tế, việc quan
tâm, dạy dỗ bắt đầu từ khi đứa con còn nằm trong bụng mẹ, đó là thời kỳ "thai giáo" hay
còn gọi là thời kỳ "chăm sóc thai nghén".
19
Việc sinh con đối với người Việt Nam rất là quan trọng. Còn đối với bản thân
người phụ nữ sinh đẻ là một việc hệ trọng. Trong thành ngữ Việt có câu "người chửa
cửa mả", người phụ nữ lúc sinh nở được coi là sự "vượt cạn". Đấy là chưa kể những âu
lo ở giai đoạn nuôi trẻ sơ sinh. Bởi vậy, vấn đề thai giáo được coi là quan trọng, một
phần vì sức khỏe của cả mẹ và con, một phần vì mọi tư tưởng hành động của người mẹ
đều có ảnh hưởng tới bào thai. Vì thế, đã xuất hiện nhiều tập quán, tín ngưỡng liên quan
tới thai nghén và sinh con của người phụ nữ.
Trước hết, nói về tập quán trong ăn uống của người phụ nữ khi mang thai, trong
xã hội truyền thống, khi điều kiện vật chất và trình độ y tế còn thấp kém, thì sản phụ
thường hay gặp tai biến. Bởi vậy, người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ hầu như không
bồi dưỡng cho phụ nữ mang thai, họ quan niệm rằng: nếu tẩm bổ nhiều, thai sẽ to và sản
phụ khó đẻ. Song, nếu có bồi dưỡng, người chửa cũng chỉ được dùng những thức ăn mà
tập quán cho rằng "sau này dễ đẻ". Ví dụ, người phụ nữ mang thai huyện Quỳnh Phụ,
Thái Bình, trước khi sinh khoảng ba tháng, người chửa thường ăn cháo cá chép nấu với
vừng rang được xát vỏ. Hoặc phụ nữ ở nhiều địa phương gần tới ngày sinh thường ăn
chè vừng, ăn đu đủ chín, hoặc như muốn con sau này trắng thì ăn nhiều trứng gà luộc
v.v
Trong lúc có thai phụ nữ còn phải kiêng một số thức ăn như thịt chó vì sợ nóng,
sợ bị xúi (không may). Sách Phong tục Việt Nam của Toan ánh cho biết: kiêng ăn quả
dính đôi vì sợ sinh đôi, không ăn cua bởi sợ đẻ ngang, kiêng ăn ốc vì sợ con hay rớt rãi,
kiêng ăn khoai sọ vì sợ con thừa ngón tay ngón chân, kiêng ăn thịt thỏ để tránh con sứt

môi, kiêng ăn những đồ cúng ở đám tang để tránh con bị chứng sài, kiêng những thịt ôi,
hoa quả úa, có hại cho sức khỏe và do đó tới bào thai [2, tr. 381].
Trong thai giáo nhắc nhở người mẹ phải tránh làm những việc xấu như: ăn cắp,
ăn trộm, những hành động độc ác trái luân thường đạo lý, tránh những cảnh quá xúc
động, tránh dùng lời lẽ thô tục, những thái độ giận dữ thái quá. Người mẹ cần giữ sự
thanh thản, luôn tươi cười, có ý nghĩ cao quý, nói năng dịu dàng, đi đứng khoan thai, giữ
cho tâm hồn ngay thẳng, trong sạch. Trong buồng ngủ nên treo tranh các em bé xinh
đẹp, tươi tắn, bụ bẫm dễ thương, cũng có thể treo tranh các vị anh hùng, vĩ nhân hay
tranh phong cảnh tao nhã thanh khiết.
20
Trong dân gian còn nhắc nhở người mang thai "phải năng cất nhắc, vận động,
đừng ăn không ngồi rồi, kiêng ăn nhiều chất bổ sợ thai lớn khó sinh", đặc biệt những
người phụ nữ mang thai lần đầu (gọi là con so) thì phải vận động nhiều, như câu tục
ngữ: "Chửa con so làm cho láng giềng ".
Tóm lại, mọi tập tục truyền thống xung quanh vấn đề thai giáo đều có mục đích
đảm bảo sức khỏe cho người mẹ và đứa con sinh ra. Thời kỳ dưỡng thai là hết sức quan
trọng, người ta phải làm mọi việc để đạt được "mẹ tròn, con vuông" coi đó là niềm hạnh
phúc lớn lao của gia đình, người mẹ phải được chuẩn bị đầy đủ về thể chất và tinh thần
mới có điều kiện dưỡng thai tốt. Qua người mẹ, thai nhi không những tiếp nhận các chất
bổ dưỡng mà còn nhập thân tình cảm, tâm hồn của người mẹ truyền cho.
- Chăm sóc trẻ sơ sinh
Trẻ sơ sinh theo cách tính dân gian trong vòng 0 - 2 tháng tuổi. Chúng là những
sinh thể bé bỏng và yếu ớt. Ta thường nói "nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa".
Bởi yếu ớt, nhỏ nhoi, lại không có khả năng tự thỏa mãn lấy nhu cầu của bản thân (như
ăn, mặc, ở, đi lại) nên trẻ cần tới sự giúp đỡ của người lớn. Cụ thể là người mẹ và gia
đình. Song, khi mới sinh ra, tất cả mọi đứa trẻ trên trái đất đều như nhau. Chúng chỉ
khác nhau khi tiếp nhận cách nuôi dạy của truyền thống văn hóa nơi chúng sinh ra. Mỗi
xã hội, mỗi truyền thống văn hóa có quan niệm và cách giải quyết khác nhau xung
quanh việc nuôi dạy trẻ. Chẳng hạn, cho trẻ ăn gì? cho ăn cách nào? ăn ở thời điểm nào?
Tất cả những cách thức đó tạo nên những khác biệt bởi định hướng của các truyền thống

văn hóa khác nhau. Trong sự mặc của trẻ sơ sinh cũng vậy. Từ đời sống thực vật trong
bụng mẹ, một môi trường tương đối ổn định, đứa trẻ ra đời như đột ngột bị đẩy vào hoàn
cảnh mới mẻ của môi trường không khí với vô số kích thích của thế giới bên ngoài. Việc
mặc của trẻ sơ sinh ở ta thường là dùng tã lót (bằng vải thô hay áo cũ) quấn chặt hai
cánh tay trẻ vào thân để tránh trẻ khỏi giật mình, sợ hãi khi có tiếng động mạnh. Suốt
thời kỳ sơ sinh, trẻ được quấn tã lót và phải được ở nơi kín đáo, thậm chí ít ánh sáng rọi
vào, vừa là để tránh gió, vừa để tránh người "dữ vía" làm trẻ quấy khóc. Ngược lại, ở
phương Tây, trẻ sơ sinh khi ra đời sau ngày đầu quấn tã trẻ được mặc quần áo ngay.
Quan niệm của họ phải để trẻ tự do hoạt động chân tay chỉ cần giữ chặt phần bụng. Mặc
dù là sơ sinh, trẻ phương Tây thường được người lớn đưa ra ngoài tiếp xúc với thiên
nhiên, với con người. Theo họ, như vậy trẻ sớm thích nghi với môi trường sống và xung
quanh tạo cho trẻ tính bạo dạn, tự do phát triển và cơ thể khỏe mạnh.
21
Trẻ sơ sinh trong thời kỳ này, sữa mẹ là nguồn thức ăn duy nhất của bé. Do đó,
người mẹ phải có sữa cho con bú. Nếu sữa chậm "về" hay thiếu sữa người mẹ phải rửa
vú bằng nước lá mít - dùng nước lá này để thoa vú (bài thuốc dân gian), hay phải tẩm bổ
bằng cách ăn chân giò lợn nấu thông thảo, ăn cháo móng dê, cháo bẹ hoa chuối tây v.v
khi nuôi con, người mẹ phải tránh những đồ ăn độc không phải cho riêng mình mà cho
cả đứa con bú sữa mình.
Trong xã hội truyền thống người Việt nông thôn Bắc Bộ, quan niệm việc ăn
uống của người phụ nữ sau đẻ không chỉ liên quan tới sức khỏe mẹ mà còn liên quan và
quyết định sức khỏe của con sau khi sinh cho tới khi con cai sữa.
Theo nghiên cứu của Vương Xuân Tình (Tạp chí Dân tộc học, số
3-1992) phụ nữ Việt nông thôn đồng bằng Bắc Bộ có nhiều chế độ ăn uống và
kiêng cữ nhằm phục vụ sức khỏe cho mẹ và con thông qua nguồn sữa. Người phụ nữ
sau đẻ, có một quỹ thời gian gọi là ở cữ. Quan niệm cữ của một số địa phương có khác
nhau. Có nhiều nơi cho rằng hết cữ là qua 7 ngày (với đẻ con trai) hoặc 9 ngày (nếu sinh
con gái). Có nơi thời gian ở cữ là
3 tháng (như ở các huyện Quỳnh Phụ, Đông Hưng, Thái Bình). Song, dù cữ
ngắn (7 hay 9 ngày), hay cữ dài (3 tháng), thì thời gian cần thận trọng trong ăn uống

thường phải kéo dài từ 3 - 4 tháng. Thậm chí, có món ăn sản phụ phải kiêng tới 6 tháng
trở lên, ví dụ: như các món ốc, cua. Quan niệm "Cua giốc, ốc mòn" là chỉ người sản phụ
trong vòng 6 tháng sau sinh đã ăn cua, ốc dễ bị hậu sản (sức khỏe suy sụp khi chưa đến
tuổi già).
Thức ăn của sản phụ sau khi sinh tùy theo điều kiện sinh thái, vật chất và tập
quán của mỗi vùng. Chẳng hạn, tại vùng nước lợ ở các huyện Quỳnh Phụ, Đông Hưng,
Thái Bình, người ta hay làm mắm cáy với quan niệm cho rằng: loại mắm này ăn lành
cho sản phụ. Mắm cáy dùng nấu thịt, canh, chấm rau hoặc ăn với cơm. ở cư dân vùng
biển sản phụ sử dụng mắm cá. ở các vùng Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phú, ngoại thành
Hà Nội lại hay làm tương cho sản phụ. Gia đình nào khá giả thì làm rượu nếp cái. Đây
là thứ ăn dùng để tẩm bổ sau khi đẻ. Rượu nếp ủ lên men, được để vào hũ, cho thêm
trứng gà sống (để nguyên vỏ), chuối tiêu (đã bóc vỏ), và một số vị thuốc như táo tầu,
sâm, thục rồi hạ thổ (chôn dưới nền nhà hoặc nền bếp). Hạ thổ khoảng vài ba tháng
trước khi sinh - sau sinh, đem hũ rượu đó cho sản phụ dùng.
22
Về đại thể, thức ăn cho sản phụ được quan niệm có thức ăn lành và thức ăn độc.
Thức ăn độc sẽ gây tác hại đến sức khỏe của người mẹ và ảnh hưởng tới sức khỏe của
con thông qua nguồn sữa.
Thức ăn được coi là lành và khuyến khích dùng cho sản phụ trong truyền thống,
trước hết phải kể tới muối nướng. Cách nướng muối ở một số vùng có khác nhau, thông
thường, người ta để muối tinh vào hòn ngói rồi đặt lên than hoa đượm hồng. Còn ở An
Hiệp, Quỳnh Phụ, Thái Bình họ bọc muối trong lá ré để vùi vào bếp lửa.
Trong các loại rau, thì rau diếp, rau ngót được người đẻ ưa dùng hơn cả. ở nhiều
địa phương của tỉnh Thái Bình, hoặc một số vùng khác như Đông Anh (Hà Nội), Mê
Linh (Vĩnh Phú) rau diếp được nấu canh. Rau ngót được nhiều sản phụ dùng rộng rãi
bởi quan niệm là loại rau lành và "chóng sạch hết máu hôi sau sinh". Rau ngải cứu là
một vị thuốc, được xem như bổ nếu làm món ăn, thường dùng nấu canh hoặc chưng với
trứng gà.
Với những loại đạm động vật và thực vật, thức ăn dùng phổ biến nhất là thịt lợn
nạc, trứng gà, cá bống và dừa băm nhỏ rang khô. ở Quỳnh Phụ, Thái Bình món dừa

được đem kho hoặc vùi trong âu muối ăn dần.
Về thức uống, sản phụ chủ yếu uống nước lá vối, nước chè xanh, nước sôi để
nguội, hoặc nước nhân trần. Đặc biệt, phổ biến ở nhiều địa phương, người ta thường
uống nước tiểu trẻ em sau khi đẻ, vì cho rằng, nước tiểu sẽ tiêu máu độc, thậm chí có
người còn cho là bổ (một bát nước giải bằng ba thang thuốc - khẩu ngữ Việt).
Những thức ăn bị coi là độc đối với sản phụ, cần phải tránh là: "Thịt gà, cá chép,
ba ba. Trong ba thứ ấy đàn bà phải kiêng". Đây là lời răn đối với sản phụ sau đẻ. Ngoài
ra, người đẻ còn kiêng ăn các loại thịt có mùi hôi như thịt chó, thịt vịt ngan ngỗng, thịt
trâu (lạnh dạ con gây nôn ọe), kiêng ăn cá, mỡ gây đi ngoài cho trẻ.
Kiêng các loại rau sống, bầu, bí, cải xanh, dưa chua sợ sản phụ và trẻ sơ sinh
đi ngoài do lạnh bụng. Kiêng ăn các loại trái cây như mít, dứa (sợ nóng), dưa hấu, dưa
chuột (sợ lạnh bụng), bưởi (sợ đi ngoài)
Trên đây là những thức ăn uống phổ biến được coi là lành và độc phải kiêng cữ
của người sản phụ sau sinh đẻ. Tại mỗi làng quê, tập quán ăn uống được lưu truyền từ
thế hệ này qua thế hệ khác trong mỗi gia đình.
23
Đến nay đã có những biến đổi về tập quán ăn uống trong sinh đẻ, nuôi con ở
nông thôn người Việt đồng bằng Bắc Bộ. Sự cải thiện về đời sống vật chất, hệ thống y tế
và nhận thức được nâng cao là cơ sở của những biến đổi đó. Song nhìn chung, rất nhiều
tập tục ăn uống trong sinh đẻ vẫn tồn tại. Có món ăn như mắm cáy (vùng nước lợ) nay
còn được ưa chuộng, hay hàng loạt các thức ăn kiêng vẫn được duy trì. Thực chất vấn đề
ăn uống trong sinh đẻ và nuôi con như vậy chính là sự ứng xử với môi trường của người
Việt. Sống trong khung cảnh nhiệt đới ẩm - nơi chứa đựng nhiều mầm bệnh hiểm nghèo,
lại không có điều kiện y tế đảm bảo, người Việt buộc phải phòng ngừa bằng chế độ
kiêng kỵ trong đó có việc ăn uống. Sự kiêng khem về ăn uống trong sinh đẻ không chỉ
đơn thuần là nhận thức lạc hậu, mà còn bao hàm kinh nghiệm ứng xử với bệnh tật và
sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh. "Có kiêng có lành" là cách tự biện của người Việt
nhằm mục đích phòng bệnh và tránh hậu họa nên đều được mọi người chấp nhận. Đó là
lý do cơ bản cho sự tồn tại lâu bền của nó.
Ngược lại, nếu "bác bỏ" mọi quan niệm, mọi giá trị truyền thống về ăn uống

trong sinh đẻ, với lý thuyết "không kiêng bất cứ thứ gì" của Tây y rất khó được chấp
nhận. Và ở đây, một minh chứng cụ thể thêm về cách tiếp nhận văn hóa của người Việt -
là vẫn không quen dung hợp với những giá trị nào không phù hợp với quan niệm truyền
thống dân tộc.
Săn sóc, nuôi nấng trẻ sơ sinh trong thời kỳ "trứng nước" người ta không những
phải chăm lo sức khỏe cho mẹ - con, mà còn tính đến cả mặt tâm linh nữa.
Trong sách Phong tục Việt Nam của Toan ánh có dẫn "khi đứa trẻ đầy cữ, có tục cúng
đầy cữ, con trai bảy ngày, con gái chín ngày - để cúng 12 bà mụ đã nặn nên hình đứa
trẻ Cúng đầy cữ, đồ lễ phải được sửa soạn cho đủ 12 bà mụ: 12 đôi hài, 12 cỗ mũ, 12
bộ quần áo, 12 trăm vàng,
12 trái cây, 12 chiếc bánh, 12 con ốc, 12 miếng trầu v.v " [10, tr. 392].
Tục cúng đầy cữ hiện nay tuy chưa mất hẳn, nhưng chỉ còn rất ít người theo đủ
như tục xưa. Cùng với cúng mụ, người ta còn cúng Thổ công và Gia tiên. Thường mỗi
khi khen một đứa trẻ nào người ta thường khởi đầu câu bằng "trộm mụ hoặc trộm vía"
để tránh cho đứa trẻ không vì tiếng khen mà gầy ốm đi.
24
Cúng đầy cữ để tỏ lòng tạ ơn các bà mụ đã nặn nên đứa trẻ. Qua cúng đầy cữ,
rồi lại cúng khi đứa trẻ đầy tháng, đầy năm có lễ "thôi nôi". Trong lễ này người ta đặt
trước mặt đứa trẻ các thứ đồ chơi, sách bút, để cho đứa trẻ tự ý chọn. Qua sự chọn lựa
của đứa trẻ, người ta đoán tương lai của nó sau này.
2.1.2.2. Giai đoạn ngôn ngữ
Trẻ khi qua được một năm tuổi, người mẹ cai sữa cho con. Từ đây, trẻ sẽ bước
vào một gia đoạn mới cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển cơ thể và hình thành nhân
cách. Các nhà khoa học đã tổng kết những ảnh hưởng văn hóa và tác động của gia đình
đến quá trình nhập thân văn hóa để hình thành nhân cách của trẻ.
Những yếu tố tác động lên sự phát triển cơ thể con người nói chung và đứa trẻ
nói riêng, trước hết là các yếu tố di truyền. Càng ngày khoa học càng chứng minh là có
nhiều gien, chứ không phải một gien duy nhất quyết định sự phát triển các bộ phận của
cơ thể; thứ hai, là các yếu tố môi trường. Các dân tộc, các tầng lớp xã hội có mức sống
cao, có trình độ văn hóa xã hội cao (bao hàm những kiến thức nuôi dạy con, đề phòng

bệnh tật, kích thích tư duy, trí tuệ, giác quan và tình cảm) quyết định sự phát triển của
cơ thể trẻ.
Trong xã hội truyền thống, do điều kiện mức sống, trình độ văn hóa xã hội còn
nhiều hạn chế, đi cùng với đó là những tập tục ăn uống kiêng khem khiến trẻ nhỏ dưới
ba tuổi dễ mắc bệnh suy dinh dưỡng. Từ đó cũng dễ dẫn đến tình trạng hữu sinh vô
dưỡng cao.
Nguyên nhân của bệnh chủ yếu là do chế độ ăn uống chưa hợp lý. Đối với trẻ
nhỏ dưới sáu tháng chủ yếu là do thiếu hoặc không có sữa mẹ. Do nuôi dưỡng thiếu
khoa học, chỉ cho trẻ ăn nước cháo với đường, muối, hoặc bột quấy, cơm nhai mang tính
tinh bột là chủ yếu.
Đối với trẻ lớn hơn, khi cai sữa chưa có chế độ ăn thích hợp với lứa tuổi hoặc
cho ăn thiếu cả về số lượng cũng như về chất lượng hàng ngày dễ làm cho trẻ hạn chế
phát triển hoặc tốc độ lớn lên của cơ thể.
Một nguyên nhân nữa hết sức quan trọng là thiếu điều kiện phòng các bệnh nhiễm
trùng thường xảy ra ở trẻ trước tuổi đi học như: sởi, ho gà, kiết lỵ, ỉa chảy, viêm phổi
rất dễ gây bệnh suy dinh dưỡng. Ngoài ra còn một số yếu tố dễ phát sinh bệnh suy dinh
dưỡng là do trẻ đẻ non, đẻ yếu, dị tật
25

×