THÔNG TIN VỀ LUẬN ÁN
SỰ THỐNG NHẤT VÀ MÂU THUẪN GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở CẦN THƠ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số : 62.22.80.05
Họ và tên nghiên cứu sinh: Nguyễn Văn Dựa
Người hướng dẫn khoa học: HD.1: PGS.TS. Trịnh Doãn Chính
HD.2: TS. Trần Hoàng Hảo
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh
Tóm tắt nội dung luận án:
Truyền thống và hiện đại là những yếu tố có mặt trong đời sống của xã hội, trên mọi lĩnh
vực của quá trình phát triển, trong đó có lĩnh vực văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Tuy
nhiên, truyền thống và hiện đại không bao giờ tồn tại một cách tĩnh tại, tách biệt nhau mà luôn ở
trong thế vận động, liên hệ tác động lẫn nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau, làm
thành diện mạo văn hóa của dân tộc. Nếu không nhận dạng và giải quyết tốt sự thống nhất biện
chứng giữa truyền thống và hiện đại của văn hóa, chúng ta không thể phát huy đầy đủ vai trò
của văn hóa đối với sự phát triển xã hội.
Về khái niệm văn hóa, phân tích các cách tiếp cận văn hóa phổ biến hiện nay, có thể rút ra
khái niệm văn hóa: văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra và được con người tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn; những giá trị đó đáp ứng
được nhu cầu của cả cộng đồng, được cộng đồng thừa nhận và được lưu truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Văn hóa là biểu hiện của trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Truyền thống, được hiểu như là tập hợp những tư tưởng và tình cảm, những thói quen
trong tư duy, lối sống và ứng xử của một cộng đồng người nhất định, được hình thành trong lịch
sử và đã trở nên ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Còn hiện đại được hiểu
là những gì “thuộc thời đại ngày nay”, là “cái đang diễn ra trước mắt, tức là mới”. Hiện đại gắn liền
với phát triển, tạo ra những giá trị mới hơn, có phẩm chất tốt hơn của cái quá khứ. Truyền thống
và hiện đại trong sự phát triển của văn hóa có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau; đó là sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại. Về sự thống nhất
giữa truyền thống và hiện đại của văn hóa: truyền thống là cơ sở, là tiền đề của hiện đại và hiện
đại là sự kế thừa, phát triển nâng cao truyền thống. Đồng thời, giữa truyền thống và hiện đại
trong sự phát triển của văn hóa lại có sự mâu thuẫn, trong đó cái truyền thống do tính ổn định,
tính bảo thủ cản trở sự phát triển của cái hiện đại và ngược lại có những cái hiện đại không phù
hợp, mâu thuẫn, xung đột với cái truyền thống.
Trong tiến trình lịch sử, nhất là trong thời kỳ đổi mới, cùng với việc phát triển kinh tế, xã
hội, Cần Thơ đặc biệt quan tâm đến phát triển văn hóa; trong đó, việc kết hợp biện chứng giữa
truyền thống và hiện đại luôn được chú trọng và được xem như một quy luật phát triển của văn
hóa. Nhờ đó mà văn hóa Cần Thơ đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào. Tuy nhiên,
bên cạnh những kết quả đã đạt được, văn hóa Cần Thơ còn nhiều mặt hạn chế, mâu thuẫn:
sự tụt hậu về nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với vai trò của
2
văn hóa; các biểu hiện của phong tục tập quán, lạc hậu, lỗi thời làm cản trở sự phát triển xã
hội mới;…Để khắc phục những hạn chế, mâu thuẫn đó, Cần Thơ cần thực hiện đồng bộ các
giải pháp: tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm chuyển biến căn bản tâm lý
của cán bộ, đảng viên và nhân dân sớm thích nghi với đời sống đô thị và nhận thức đúng đắn
vai trò của văn hóa; nâng cao trình độ dân trí để nhân dân hưởng thụ và sáng tạo những giá trị
văn hóa; tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa
mới lành mạnh trong xã hội, đi đôi với nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng các tài năng văn hóa;
khuyến khích văn nghệ sĩ sáng tạo nhiều công trình văn hoá nghệ thuật tiêu biểu có giá trị cao;
bảo tồn, phát huy các đặc điểm, giá trị văn hóa riêng có ở Cần Thơ.
Những kết quả mới của luận án:
Một là, luận án đã phân tích làm rõ lý luận chung về văn hóa, sự thống nhất và mâu thuẫn
giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ.
Hai là, từ sự phân tích thực trạng văn hóa Cần Thơ, luận án đề xuất một số giải pháp có tính
định hướng góp phần vào phát triển văn hóa Cần Thơ trên cơ sở sự thống nhất và mâu thuẫn giữa
truyền thống và hiện đại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Khả năng ứng dụng của luận án:
Luận án giúp người đọc hiểu rõ nội dung, giá trị của truyền thống và hiện đại trong văn
hóa, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình xây dựng nền văn
hóa mới ở Cần Thơ. Những ý nghĩa lịch sử mà luận án rút ra cũng như một số giải pháp có tính
định hướng mà luận án đề xuất, có thể góp phần thiết thực vào giải quyết những vấn đề cơ
bản trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc của vùng
đồng bằng sông nước, văn minh miệt vườn ở Cần Thơ. Luận án có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy Triết học, Văn hóa học.
Xác nhận Tp.Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 02 năm 2011
của người hướng dẫn khoa học Nghiên cứu sinh
PGS.TS. Trịnh Doãn Chính Nguyễn Văn Dựa
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, cùng với sự hình thành
và phát triển đất nước, là sức sống mãnh liệt của dân tộc ta mà cội nguồn của
sức mạnh đó là nền văn hoá Việt Nam với sự thống nhất biện chứng giữa
truyền thống và hiện đại.
Truyền thống và hiện đại là những yếu tố có mặt trong đời sống của mỗi
quốc gia dân tộc, trên mọi lĩnh vực của quá trình phát triển, trong đó có lĩnh
vực văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội. Tuy nhiên, truyền thống và hiện đại
không bao giờ tồn tại một cách tĩnh tại, tách biệt nhau mà chúng luôn có sự
liên hệ, tác động lẫn nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau, tạo thành
sự vận động, phát triển và làm thành diện mạo văn hóa của một dân tộc. Chính
vì vậy mà mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong văn hóa đã trở
thành vấn đề hàng đầu ở mọi quốc gia, đặc biệt là ở những nước đang phát
triển, vốn mang trên mình sức nặng của truyền thống hình thành qua suốt chiều
dài của lịch sử và lại đứng trước một sự nghiệp hiện đại hóa to lớn. Nếu không
nhận dạng được sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình
phát triển của văn hóa, chúng ta không thể phát huy đầy đủ vai trò của văn hóa
đối với sự phát triển xã hội.
Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn coi trọng việc bảo vệ di sản văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy những
giá trị truyền thống của dân tộc vì đó là bản sắc, là tâm hồn và trí tuệ, là đạo lý
và nhân cách của con người Việt Nam, là nền tảng tinh thần cho công cuộc
phục hưng dân tộc và cho sự phát triển bền vững của đất nước tiến lên văn
minh, hiện đại. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (năm 2006) đã
xác định: “Phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội” [32, 212] và đẩy
mạnh việc thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa đã được xác định trong Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là “làm cho văn hóa thấm
2
sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới
của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp
thu tinh hoa văn hóa của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy,
độc hại. Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội
và sinh hoạt của nhân dân…” [32, 212-213].
Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng ngàn năm lao động sáng tạo, kiên
cường đấu tranh dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Văn hóa Việt Nam cũng là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền
văn minh nhân loại để không ngừng phát triển. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc
nên tâm hồn, tính cách, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, góp phần làm rạng rỡ
lịch sử vẻ vang của dân tộc. Nền văn hóa Việt Nam đã hình thành những giá trị
truyền thống bền vững và bản sắc riêng. Trên nền tảng ấy mà ngày nay chúng
ta chủ trương xây dựng một nền văn hóa Việt Nam mới ngang tầm thời đại.
Nền văn hóa mới mà chúng ta xây dựng hiện nay là nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, với các đặc trưng dân tộc, hiện đại, nhân văn. Nước ta là
một quốc gia có nhiều dân tộc, việc nghiên cứu vấn đề kế thừa giá trị truyền
thống văn hóa dân tộc chẳng những có ý nghĩa đối với công cuộc xây dựng
nền văn hóa chung của đất nước mà còn có tác dụng phát huy bản sắc văn hóa
của từng dân tộc trong sự phát triển văn hóa.
Các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam hiện đứng trước tình
hình, một mặt phải tiếp tục chống chủ nghĩa đế quốc với âm mưu “diễn biến
hòa bình”, tấn công bằng sự xâm lăng văn hóa; mặt khác, phải bảo vệ nền văn
hóa dân tộc, coi đó là một tiềm lực để đi lên hiện đại hóa. Giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa của dân tộc không chỉ có ý nghĩa để cho dân tộc ta giữ được
cội nguồn phát triển mà còn có ý nghĩa bảo vệ những giá trị văn hóa tốt đẹp vì
sự phát triển của nhân loại. Cơ chế kinh tế thị trường đang phát huy tác động
toàn diện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có cả mặt tích cực
và tiêu cực, đã ảnh hưởng rất lớn đến việc kế thừa các giá trị truyền thống văn
hóa dân tộc để xây dựng nền văn hóa hiện nay.
3
Đối với Cần Thơ, trong những năm qua, nhiều cấp uỷ Đảng, chính
quyền, đã nhận thức đúng đắn sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại
trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy văn hóa của Cần Thơ nói riêng
và đồng bằng sông Cửu Long nói chung...; đã đưa những nội dung này vào
nghị quyết các Đại hội, các hội nghị và chương trình hành động hàng năm của
các cấp, giúp thành phố Cần Thơ thu được những thành tựu và kinh nghiệm
quý báu trong quá trình đổi mới nói chung và lĩnh vực phát triển văn hóa - xã
hội nói riêng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền văn hóa mới được tạo dựng, quá
trình đổi mới tư duy về văn hóa, xã hội, xây dựng con người và nguồn nhân
lực có bước phát triển mới. Môi trường văn hóa, xã hội có những thuận lợi cho
việc phát huy nguồn nhân lực để xây dựng đất nước. Tình hình an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Cần Thơ ổn định, tạo điều kiện
cơ bản cho phát triển thành phố. Kinh tế phát triển liên tục, xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế mở ra triển vọng mới cho sự phát triển kinh tế, tạo tiền đề giải
quyết các vấn đề xã hội và văn hóa. Tuy nhiên, còn không ít cấp ủy đảng,
chính quyền và nhân dân nhận thức chưa đầy đủ vai trò của văn hóa, chưa thấy
hết tầm quan trọng của sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện
đại trong quá trình phát triển văn hóa. Từ đó dẫn đến sự phát triển văn hóa
chưa đồng bộ và chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn bó với
nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng; những tiêu cực xã hội không những
chưa được đẩy lùi mà còn có chiều hướng gia tăng; vai trò của văn hóa đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội chưa được phát huy đúng mức, chất lượng tăng
trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa được cải thiện nhiều; cơ cấu kinh
tế chuyển dịch chậm, các ngành công nghiệp, dịch vụ có giá trị gia tăng lớn
chưa khai thác đúng mức.
Ngày nay, cùng với cả nước Cần Thơ bước vào thời kỳ phát triển mới
trong bối cảnh có nhiều thuận lợi và cơ hội lớn, nhưng cũng có nhiều thách
thức gay gắt, nhất là trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay. Với vị trí quan
trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật, giáo dục đào tạo,
4
dịch vụ, thương mại của vùng, cùng với tiềm năng vật chất phong phú, thiên
nhiên ưu đãi, nguồn nhân lực dồi dào, lao động cần cù sáng tạo, biết vận dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống, biết tận dụng khai thác mọi tiềm
năng, thế mạnh của mình, lại giàu truyền thống cách mạng trong kháng chiến
giải phóng dân tộc, Cần Thơ sẽ thực hiện tốt sự nghiệp xây dựng và phát triển
thành phố.
Để “Phấn đấu xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trở thành thành
phố văn minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, xứng đáng là thành phố cửa ngõ của
cả vùng hạ lưu sông Mê Kông; là trung tâm công nghiệp, trung tâm thương
mại - dịch vụ, du lịch, trung tâm giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ,
trung tâm y tế và văn hóa của vùng đồng bằng sông Cửu Long và của cả nước”
theo Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị, Đảng bộ và nhân dân Cần Thơ
cần nhận thức sâu sắc và đầy đủ hơn nữa vị trí, vai trò của văn hóa, tầm quan
trọng của sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá
trình phát triển văn hóa. Tiếp tục tập trung đầu tư xây dựng và phát triển nền
văn hóa Cần Thơ tiên tiến, mang đậm bản sắc của vùng đồng bằng sông nước,
văn minh miệt vườn; bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là
trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao
văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba
lĩnh vực này là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và
bền vững của thành phố Cần Thơ.
Từ những vấn đề vừa nêu trên, tác giả chọn đề tài “Sự thống nhất và
mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa
ở Cần Thơ” làm luận án Tiến sĩ Triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về văn hóa nói chung cũng như vấn đề truyền thống và
hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa đã được nhiều nhà khoa học xã hội
và nhân văn trong và ngoài nước quan tâm.
5
Từ những năm 70 của thế kỷ XX, ở Liên Xô trước đây đã có những
công trình nghiên cứu lớn chuyên khảo về đề tài văn hóa của các nhà lý luận
mácxít. Đáng kể là những công trình lý luận văn hóa như: “Tính kế thừa trong
phát triển văn hóa” (1969) của Bale A.E, Mátxcơva; “Triết học văn hóa
(1975) của Migôlatep A.A, Mátxcơva; “Cơ sở lý luận văn hóa Mác-Lênin”
(1976) do Acnônđốp A.I chủ biên, Mátxcơva; “Một số vấn đề lý luận văn
hóa” (1977) của Actanốpxki S.N, Lêningrát; “Những vấn đề triết học của văn
hóa” (1984) của tập thể tác giả, Mátxcơva; “Tính kế thừa trong sự phát triển
văn hóa trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội” (1977) của Cairan V.I,
Mátxcơva;… Các công trình này, chủ yếu đề ra những nguyên tắc xây dựng
nền văn hóa chủ nghĩa xã hội. Trong đó, có những luận điểm khoa học có thể
kế thừa, nhưng cũng có những kết luận mà thực tiễn cuộc sống xã hội hiện đại
đòi hỏi phải được nghiên cứu, thảo luận thêm.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu lớn của các nhà lý luận mácxít
về văn hóa, ở phương Tây đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về văn
hóa với khuynh hướng chung là khẳng định vai trò quan trọng không thể
thiếu của văn hóa truyền thống trong phát triển như: “Tạo dựng nền văn minh
mới của làn sóng thứ ba” (1996) của Alvin Toffler và Heidi Toffler, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Sự va chạm của các nền văn minh” (2003) của
Samuel Huntingtong, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;…
Ở các nước khu vực Đông Á, đặc biệt là Trung Quốc, từ khi tiến hành
cải cách đến nay, đã có nhiều công trình lý luận khoa học nghiên cứu về vai
trò của văn hóa dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa như: “Cải cách thể chế
văn hóa” (1996) do Khang Thức Chiêu chủ biên; “Thử bàn về qui luật đặc
thù của phát triển văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường” (1997) của Lưu
Bôn; “Văn hóa trong sự phát triển tư bản chủ nghĩa ở khu vực Đông Á”
(2000) của Kyong-Dong Kim (Hàn Quốc)…
Nhìn chung, những kết quả nghiên cứu của các nhà lý luận mácxít ở
Liên Xô trước đây cũng như ở Trung Quốc và các quốc gia khác đều đưa ra
6
những quan điểm cảnh báo sự suy thoái trong chiến lược xây dựng và phát
triển nền văn hoá của mỗi quốc gia, nếu việc đánh giá mọi sự hiện đại hóa
theo tiêu chuẩn của phương Tây, bằng việc chối bỏ mọi truyền thống của dân
tộc. Đây là những vấn đề đáng được chúng ta tham khảo, nghiên cứu và vận
dụng trong đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Ở Việt Nam, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
được Đảng ta đặc biệt quan tâm và đã được thể hiện khá đầy đủ trong các văn
kiện của Đảng. Đồng thời, đã có những công trình được xuất bản thành sách
hay đăng trên các tạp chí lý luận, các cuộc hội thảo khoa học bàn về vai trò của
văn hóa đối với sự phát triển, trong đó phải kể đến những công trình như: “Giá trị
tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” (1993) của GS. Trần Văn Giàu, Nxb.
TP. Hồ Chí Minh; “Sự hình thành về cơ bản hệ thống tư tưởng yêu nước Việt
Nam” (2000) của GS.Trần Văn Giàu, Nxb. TP. Hồ Chí Minh; “Văn hóa - mục tiêu
và động lực phát triển xã hội” (2000) của Trần Bạch Đằng, Nxb. TP. Hồ Chí Minh;
“Bản sắc văn hóa Việt Nam từ góc nhìn ngữ nghĩa học từ vựng tiếng Việt” (2000)
của GS. Đỗ Hữu Châu, Nxb. Khoa học Xã hội; “Vai trò của văn hóa trong đời
sống xã hội” (2001) của Thạc sĩ Trịnh Đình Bảy, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;
“Nguồn văn hóa truyền thống Việt Nam” của GS.TS. Lê Văn Quán;… là những
công trình nghiên cứu, chỉ ra nhiều vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển văn
hóa, làm cơ sở lý luận cho các nhà hoạch định chiến lược nước ta nghiên cứu xây
dựng đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Ngoài ra, việc nghiên cứu vai trò của văn hóa, mối quan hệ biện chứng
giữa truyền thống và hiện đại trong văn hóa đối với sự phát triển cũng được
nhiều nhà khoa học quan tâm. Nhiều công trình có giá trị đã được công bố
như: “Văn hóa và đổi mới” (1994) của Phạm Văn Đồng, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội; “Một số vấn đề lý luận văn hóa thời kỳ đổi mới” (1996) do
GS.TS. Hoàng Vinh chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Tư tưởng
7
Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa Việt Nam (1998) của nhiều tác giả, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Hiện đại hóa ở Việt Nam” (1997) của Nguyễn
Thế Nghĩa, Nxb. Khoa học xã hội; “Văn hóa Việt Nam – truyền thống và
hiện đại” (2000) do Viện Thông tin Khoa học xã hội tổng hợp và giới thiệu;
“Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ” (2001) do GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, TS. Phạm Văn Đức, TS.
Hồ Sĩ Quý (Đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Giá trị truyền
thống và những thách thức toàn cầu hóa” (2002) do GS.TS. Nguyễn Trọng
Chuẩn, PGS.TS. Nguyễn Văn Huyên (Đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội; “Văn hóa Việt Nam đặc trưng và cách tiếp cận” (2001) do
GS.TSKH. Lê Ngọc Trà (Chủ biên), Nxb. Giáo dục;“Bản sắc văn hóa Việt
Nam” (1998) của Phan Ngọc, Nxb. Văn hóa thông tin; “Văn hóa và phát
triển trong bối cảnh toàn cầu hóa” (2006) của PGS.TS. Nguyễn Văn Dân,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; “Bản sắc dân tộc và hiện đại trong văn hóa”
(2000) của GS.VS. Hoàng Trinh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Cơ sở
văn hóa Việt Nam” (2006) của Trần Quốc Vượng (chủ biên), Tô Ngọc
Thanh, Nguyễn Chí Bền, Lâm Mỹ Dung, Trần Thúy Anh, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội; “Phác thảo chân dung văn hóa Việt Nam” (2000) của tập thể các nhà
nghiên cứu văn hóa: Trần Đình Nghiêm, Trần Hoàn, Nguyễn Phúc Khánh,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Văn hóa và thời đại” (2009) của Nguyễn
Chí Tình, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội;… Đây là những công trình của cá
nhân, tập thể các nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu xoay quanh
vấn đề là làm thế nào để loại bỏ hay kế thừa những truyền thống văn hóa dân
tộc, vừa giữ gìn được bản sắc, nhưng cũng vừa thể hiện tính hiện đại của nền
văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Trong đó, có những tác
phẩm đề cập đến khuynh hướng vận động của nền văn hóa Việt Nam và
những giải pháp nhằm hoàn thiện văn hóa dân tộc trên một tầm cao mới.
Gần đây, những kết quả nghiên cứu mới của một số công trình dựa trên
cơ sở Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII được công bố như: “Xây dựng và
8
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thành tựu
và kinh nghiệm” (2004) do TS. Đỗ Minh Thúy chủ biên, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội; “Văn hóa và phát triển” (2005) của GS.TS. Đỗ Huy, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, nhằm đưa ra những định hướng xây dựng nền văn hóa
mới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Có thể nói, trong nhiều năm qua, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa
truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa đã được rất nhiều
nhà khoa học nghiên cứu luận chứng và lý giải.
Ở đầu thế kỷ 21 này, bối cảnh mới của sự phát triển đang đặt văn học -
nghệ thuật Việt Nam trước yêu cầu phải giải quyết một số vấn đề lý luận - thực
tiễn mới. Hội thảo về tính dân tộc, tính hiện đại do Hội đồng lý luận, phê bình
văn học, nghệ thuật Trung ương mới tổ chức gần đây là một việc làm để đáp
ứng yêu cầu đó. Ðề dẫn của Hội thảo với chủ đề “Tính dân tộc và tính hiện đại
trong văn học - nghệ thuật Việt Nam hiện nay” được tổ chức vào hai ngày (04
và 05-8-2009), tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, đã viết: "Một cuộc xâm
nhập sâu rộng về văn hóa từ nhiều nguồn đang diễn ra dưới rất nhiều màu sắc,
thông qua hệ thống báo chí, dịch thuật, đầu tư, xuất nhập khẩu, du lịch, giao lưu,
hội thảo. Một số nước có cả những trung tâm văn hóa tại Hà Nội, đỡ đầu,
khuyến khích tập hợp khá đông đảo đội ngũ văn nghệ sĩ và công chúng văn
nghệ. Các thế lực thù địch không che giấu tham vọng biến văn hóa thành "đội
quân tiền trạm" hòng tác động, chuyển hóa tư tưởng, tình cảm, tâm lý, thói quen,
lẽ sống và cách sống của một bộ phận công chúng. Trong các hướng triển khai,
họ không quên chọn văn học - nghệ thuật làm mũi đột phá, vì đó là lĩnh vực
nhạy cảm nhất mà lại có ảnh hưởng xã hội rộng lớn”.
Những luận chứng và đề xuất khoa học về việc xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam nói chung và sự thống nhất và mâu
thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa nói riêng
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là những đóng góp quan trọng và rất
cần thiết đối với nhận thức và thực tiễn xây dựng, phát triển văn hóa dân tộc
9
trong tiến trình đổi mới. Tuy nhiên, các công trình này chỉ nghiên cứu vai trò
của văn hóa đối với sự phát triển, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống
và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa ở tầm vĩ mô và khu vực, chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề này ở một địa phương cụ thể.
Ở Cần Thơ vấn đề văn hóa, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền
thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa được đề cập trong các
văn kiện của Đảng và trong một số công trình khoa học như: công trình
nghiên cứu cấp Bộ của Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học
quốc gia Hồ Chí Minh: “Văn hóa Cần Thơ - Thực trạng và vấn đề giữ gìn,
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới
ở Việt Nam” (2001) do Thạc sĩ Thái Thị Thu Hương chủ nhiệm đề tài; Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ XI, nhiệm kỳ 2005 - 2010;
“Chương trình xây dựng, phát triển văn hóa thông tin đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020” (2006) của Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ; các
báo cáo chuyên đề, báo cáo tổng kết tình hình, thực trạng phát triển văn hóa ở
Cần Thơ các năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009. Những công trình nghiên cứu
và những Nghị quyết, Chương trình, báo cáo này chỉ ra nhiều giải pháp có tính
định hướng cho phát triển văn hóa và sự bảo tồn các giá trị truyền thống văn hóa
ở Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đề tài: “Sự thống nhất
và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn
hóa ở Cần Thơ” chỉ là một tiểu vùng của một tổng thể chung - vùng đồng bằng
sông Cửu Long.
Luận án sẽ nghiên cứu một cách có hệ thống về tiến trình phát triển
biện chứng của văn hóa ở Cần Thơ dưới ánh sáng lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận án cũng tiếp thu, hệ thống hóa quan
điểm của các công trình khoa học, các tác phẩm đã xuất bản quanh chủ đề
này và góp thêm một số suy nghĩ vào việc luận chứng trên bình diện triết học
cho quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
10
bản sắc dân tộc nói chung; sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và
hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là từ sự trình bày, phân tích lý luận chung về văn
hóa và những nội dung, đặc điểm của văn hóa ở Cần Thơ, luận án chỉ ra sự
thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại và đề ra những giải
pháp có tính định hướng trong sự phát triển văn hóa ở Cần Thơ.
Để đạt được mục đích đó, luận án phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, trình bày, phân tích những vấn đề lý luận chung về văn
hóa, sự thống nhất biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình
phát triển văn hóa.
- Thứ hai, trình bày, phân tích nội dung, đặc điểm của sự thống nhất và
mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa ở
Cần Thơ, đề xuất một số giải pháp phát triển văn hóa ở Cần Thơ trong sự
thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời còn sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích và tổng hợp, diễn dịch và qui nạp, lôgich
và lịch sử, để nghiên cứu và trình bày luận án. Luận án được tiếp cận dưới góc
độ triết học văn hóa.
5. Cái mới của luận án
- Cái mới thứ nhất là, trên cơ sở lý luận chung về văn hóa, luận án
đã lý giải và phân tích rõ về sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống
và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ.
- Cái mới thứ hai là, từ sự phân tích thực trạng văn hóa Cần Thơ,
luận án đề xuất một số giải pháp có tính định hướng góp phần vào phát
11
triển văn hóa Cần Thơ trên cơ sở sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền
thống và hiện đại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Về ý nghĩa khoa học, luận án góp phần luận giải một cách hệ thống và
khoa học về sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống với hiện đại trong
quá trình xây dựng nền văn hóa mới ở Cần Thơ. Trên cơ sở đó, luận án góp
phần làm cho các cấp ủy đảng và chính quyền Cần Thơ nhận thức sâu sắc hơn,
đúng đắn hơn về vai trò của văn hóa, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền
thống và hiện đại trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Cần Thơ hiện nay.
Về thực tiễn, một số giải pháp có tính định hướng mà luận án đề xuất,
có thể góp phần thiết thực vào giải quyết những vấn đề cơ bản trong quá trình
xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Cần
Thơ; bảo đảm văn hóa thật sự là một động lực tác động mạnh mẽ tới sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy môn Triết học, Văn hóa học trong các
trường đại học và cao đẳng.
7. Kết cấu cơ bản của luận án
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận án được kết cấu thành ba chương, sáu tiết.
12
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA, SỰ THỐNG NHẤT VÀ
MÂU THUẪN GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA
1.1.1. Các quan điểm khác nhau về văn hóa
Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo nên, xuất hiện khá sớm
trong xã hội loài người. Phản ánh những giá trị văn hóa ấy trong lịch sử tư
tưởng nhân loại đã có nhiều quan điểm khác nhau. Ở Trung Quốc, từ “văn
hóa” có nguồn gốc từ chữ Hán, quẻ Bí trong Chu Dịch nói: “Quan sát dáng vẻ
con người để giáo hóa thiên hạ” (Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ), nó
đã đề cập đến hai từ tố “văn” và “hóa”. Trong đó, “văn” với ý nghĩa là văn vẻ,
văn hoa, tốt đẹp; “hóa” là biến đổi, giáo hóa. Tổng hợp lại, văn hóa có ý nghĩa
là làm biến đổi, giáo hóa con người theo hướng tốt đẹp. Khổng Dĩnh Đạt trong
cuốn Chu Dịch chính nghĩa đã giải thích như sau: “Nói bậc thánh nhân quan
sát dáng vẻ con người, tức cái mà Thi, Thư, Lễ, Nhạc nói đến, theo cách dạy
đó để giáo hóa thiên hạ”. Lưu Hướng (khoảng năm 77 đến năm 6 TCN) đời
Tây Hán là người sử dụng từ “văn hóa” sớm nhất trong thiên Chỉ Vũ sách
Thuyết uyển viết: “Bậc thánh nhân trị thiên hạ, trước dùng văn đức rồi sau mới
đến vũ lực. Phàm dùng vũ lực đều để đối phó với kẻ bất phục tùng; dùng văn
hóa không thay đổi được thì mới chinh phạt”. Ở đây văn hóa dùng như một
phương thức giáo hóa đối lập với chinh phạt; từ văn hóa gần nghĩa với giáo
hóa. Chung quy, theo cách hiểu trước kia, văn hóa là văn trị giáo hóa, là giáo
dục, cảm hóa bằng điển chương, lễ nhạc.
Trong Kinh Dịch người ta đã: (1) Ví văn hóa như ngón chân (bí kỳ chi),
là cơ sở, là điều kiện để con người đứng thẳng một cách tự tin. Từ đó, đầu
óc con người được giải phóng, mặc sức sáng tạo; bàn tay cũng được giải
13
phóng trở thành công cụ để tái tạo ra thiên nhiên thứ hai - chính là văn hóa
vật thể. Đây là tiền đề lý luận để khẳng định rằng văn hóa là cơ sở, là nền
tảng của đời sống tinh thần. (2) Dựa theo quẻ Bí (Bí vi văn), ví văn hóa như
cái “râu”, râu chính là vật trang sức của con người. Văn hóa là sự biểu hiện
của thái cực sinh lưỡng nghi và coi đây là hình thức phát triển văn hóa. (3)
Quẻ Bí được biến từ quẻ Thái mà ra, quẻ Thái là cơ sở của sự phát triển và
trong công thức âm-dương chuyển hóa thì dương làm văn cho âm, khi âm
tới thì nó làm văn cho dương.
Do sự phát triển không ngừng và sự đa dạng của đời sống xã hội, tất yếu
làm cho nội dung của khái niệm văn hóa ngày càng phong phú, giúp cho các
nhà khoa học tiếp cận khái niệm văn hóa ở nhiều góc độ khác nhau.
Ở Trung Quốc, từ văn hóa được dùng hiện nay đã kế thừa hàm nghĩa
truyền thống nhưng lại cách tân theo hướng hiện đại. Theo các nhà nghiên cứu
Trung Quốc thì từ văn hóa hiện dùng là chuyển dịch qua tiếng Nhật từ thế kỷ
XIX. Người Nhật dịch chữ Culture, đọc là Bunka, người Trung Quốc căn cứ
theo cách hiểu truyền thống mà dịch là văn hóa.
Ở phương Tây, quan điểm của nhiều nhà khoa học, nhà nhân loại học,
dân tộc học thể hiện qua các công trình nghiên cứu phần lớn đều thống nhất
nhau ở chỗ: từ văn hóa đều bắt nguồn từ tiếng La-tinh, Cultura bao hàm ý
nghĩa trồng trọt, nuôi dưỡng, cư trú, luyện tập, lưu tâm… Từ đó mà có culture
(tiếng Anh, tiếng Pháp), kultur (tiếng Đức), kultura (tiếng Nga). Trong tiếng
Anh, Pháp, Đức, Nga hiện nay, từ culture vẫn giữ lại một số hàm nghĩa ban
đầu của tiếng La-tinh. Nhưng văn hóa là một thực thể năng động, luôn luôn
phát triển cùng với sự phát triển của văn minh nhân loại. Dần dần hàm nghĩa
của nó được mở rộng và nó được chú ý như một đối tượng khoa học.
Khái niệm văn hóa được sử dụng phổ biến vào thế kỷ thứ XVIII, hiểu
như một thuật ngữ khoa học. Năm 1783, người ta chính thức đưa văn hóa vào
tự điển ở Đức. Người đầu tiên sử dụng khái niệm văn hóa là Puphenđooc: văn
hóa là toàn bộ những gì được đặt ra cho hoạt động xã hội, văn hóa là cái đối
14
lập với trạng thái tự nhiên. Nhà triết học Đức Hécđơ (1744-1803), cho rằng
văn hóa là sự hình thành lần thứ hai của con người. Lần thứ nhất, con người
xuất hiện như một thực thể tự nhiên. Lần thứ hai, con người xuất hiện như một
thực thể xã hội, là một nhân cách văn hóa theo nghĩa trọn vẹn nhất của từ này.
Đến giữa thế kỷ XIX các ngành nhân loại học, dân tộc học phát triển
mạnh ở châu Âu và trên cơ sở đó học thuyết văn hóa, khoa văn hóa học ra đời.
Người đầu tiên đưa ra một định nghĩa về văn hóa như một đối tượng nghiên
cứu khoa học là nhà nhân loại học nước Anh E.B.Taylor trong cuốn Văn hóa
nguyên thủy (Primitive Culture) xuất bản năm 1871 ở Luân Đôn đã xem “Văn
hóa là một tổng thể phức tạp, bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo
đức, pháp luật, phong tục và cả những năng lực cũng như thói quen mà con
người đạt được với tư cách là một thành viên của xã hội” [63, tr.7].
Sau B.Taylo, khái niệm văn hóa được rất nhiều người đề cập đến. Năm
1885, với công trình Khoa học chung về văn hóa (2 tập) của Klemn người
Đức, trong đó ông trình bày sự phát sinh, phát triển toàn diện của loài người
như một lịch sử văn hóa, thì văn hóa mới thực sự trở thành đối tượng của một
khoa học riêng biệt. Còn thuật ngữ “Văn hóa học” (Kulturkunder tiếng Đức,
Culturology tiếng Anh) thì sau công trình The Science of Culture của L.White
xuất bản ở Mỹ năm 1949 mới trở thành phổ biến. Vào nửa đầu thế kỷ XX, các
nhà văn hóa học người Mỹ đã có nhiều cống hiến trong việc mở rộng đối
tượng và quy mô của văn hóa học. Năm 1952, người ta đưa ra công trình văn
hóa: “Tổng thuật phê phán các quan niệm về định nghĩa” - đó là Krôbơ và
Kluckhôn (người Mỹ) - phê phán tổng hợp 164 khái niệm văn hóa (157 định
nghĩa ra đời từ năm 1920-1950, 7 định nghĩa ra đời năm 1971). Cũng cần chú
ý các đóng góp của C.Lesvi-Strauss với cuốn Anthropologie Structural xuất
bản năm 1958 tại Paris, trong đó ông vận dụng phương pháp cấu trúc trong
ngôn ngữ học vào việc nghiên cứu văn hóa. Sau đó, năm 1967 nhà văn hóa học
người Pháp là Môlesơ đưa ra 250 định nghĩa về văn hóa. Ở Việt Nam, năm
1994, GS. Phan Ngọc có công trình: “Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận
15
mới”, ông đưa ra tư liệu cho rằng một nhà dân tộc học người Mỹ đã thống kê
được có gần 400 định nghĩa về văn hóa. Từ năm 1970 trở đi, cách hiểu phổ
biến nhất về văn hóa là: văn hóa là bao gồm tất cả những gì làm cho một dân
tộc này khác với một dân tộc kia như tín ngưỡng, lối sống, hoạt động sản xuất
và hoạt động tinh thần.
Trong Bách khoa toàn thư của Pháp, văn hóa theo nghĩa rộng là tập tục,
tín ngưỡng, ngôn ngữ, tư tưởng, thị hiếu thẩm mỹ, những hiểu biết kinh tế, kể
cả tổ chức con người. Đây chính là văn hóa vật chất, văn hóa vật chất bao
gồm: công cụ, nhà ở, sản phẩm công nghiệp. Văn hóa dùng để điều tiết những
quan hệ giữa con người với con người và xác định thái độ ứng xử của con
người đối với tự nhiên.
Vào năm 1982, trong Hội nghị thế giới về văn hóa, tại Mêhicô đã đưa ra
tuyên bố Mêhicô về chính sách văn hóa, lấy thập kỷ 90 là thập kỷ phát triển
văn hóa, đưa ra khái niệm về văn hóa theo nghĩa rộng: văn hóa là toàn bộ các
thuộc tính đặc biệt về tâm hồn, vật chất, trí tuệ và tình cảm đặc trưng cho một
xã hội hay một nhóm xã hội, chứ không phải chỉ bao gồm có nghệ thuật. Văn
hóa còn bao gồm lối sống, các quyền cơ bản của con người, các giá trị tín
ngưỡng, truyền thống của các dân tộc.
Sau đó tháng 4/1984, tại Thụy Điển, các nhà văn hóa nhắc lại định nghĩa
văn hóa Mêhicô 1982 và giải thích thêm lý do có nhiều cách tiếp cận các quan
niệm về văn hóa.
Văn hóa, theo R.W. Brislin, là nhân tố quan trọng bậc nhất của sự phát
triển con người và trở thành một khái niệm trung tâm của việc nghiên cứu xã
hội cũng như tâm lý học phát triển. Văn hóa là những giá trị tinh thần và vật
chất do con người tạo ra, là những gì mà con người bổ sung cho tự nhiên. Vì
thế, nó là một phần của môi trường sinh thái và luôn có ảnh hưởng, tác động
đến đạo đức và rộng hơn là nhân cách của cá nhân, đến sự phát triển của cộng
đồng và xã hội.
16
Tổng Giám đốc UNESCO Federco Mayor đưa ra một định nghĩa về văn
hóa: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi mặt
của đời sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng
như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ
thống các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân
tộc tự khẳng định bản sắc của riêng mình” [68, tr.5-6].
Nhiều thập kỷ qua, trong tình hình kinh tế, xã hội phát triển mạnh, đã
xuất hiện những tác hại lớn do việc ít chú trọng xây dựng môi trường văn hóa;
do đó, văn hóa được đặc biệt coi trọng. Sự thực thì chính văn hóa mới là yếu tố
chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết sự phát triển của xã hội. Trước
nguy cơ môi trường văn hóa bị phá hoại và trước thực tế thất bại của các kế
hoạch phát triển kinh tế, xã hội mà không chú ý đến văn hóa, tháng 12 năm
1986, UNESCO (Tổ chức văn hóa giáo dục và khoa học Liên hiệp quốc) dưới
sự bảo trợ của Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã quyết định phát động Thập kỷ
phát triển văn hóa thế giới 1988 - 1997 với 4 mục tiêu:
1. Đảm bảo coi trọng đúng mức vai trò của văn hóa trong các kế hoạch,
chính sách và dự án phát triển.
2. Khẳng định và đề cao bản sắc văn hóa các dân tộc, khuyến khích tài
năng sáng tạo và cuộc sống có văn hóa.
3. Mở rộng việc huy động các nguồn lực và khả năng sáng tạo của cá
nhân và cộng đồng tham gia vào đời sống văn hóa.
4. Đẩy mạnh giao lưu và hợp tác quốc tế trên lĩnh vực văn hóa.
Hưởng ứng Thập kỷ quốc tế văn hóa và phát triển do Liên hiệp quốc
phát động, Việt Nam đã thành lập Ủy ban quốc gia thập kỷ văn hóa và phát
triển. Điều đó chứng tỏ một tầm nhìn văn hóa, thể hiện cụ thể qua việc gắn sự
nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam phát động đối với văn hóa: “Văn
hóa là đổi mới; Đổi mới là văn hóa” [33, 42-48].
Từ xa xưa, dân tộc Việt Nam đã đặc biệt chú ý đến văn hóa và sáng tạo
văn hóa. Điều đó được thể hiện qua trống đồng Đông Sơn thời các vua Hùng
17
với chức năng đánh giặc và tế lễ, với những bức tranh chạm khắc gợi lên một
cuộc sống đa dạng; thành Cổ Loa như một biểu tượng văn hóa… đã chứng tỏ
một tâm thức văn hóa của nước Âu Lạc. Trong thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc,
giá trị văn hóa Việt Nam biểu hiện cao nhất ở lòng yêu nước, ý chí độc lập tự
chủ được thể hiện qua các cuộc khởi nghĩa của Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí.
Cuối thời Bắc thuộc, sức quật cường của nền văn hóa Âu Lạc đã thôi thúc
hàng loạt cuộc nổi dậy quyết liệt của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Khúc Hạo,
Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh…dẫn đến việc thành lập nước
Đại Cồ Việt. Trong thời kỳ Bắc thuộc, chúng ta đã tiếp thu có chọn lọc kho
tàng văn hóa đồ sộ và phát triển đến trình độ cao của người Hán để tiếp biến
thành di sản văn hóa của chúng ta, trong đó có hai hiện tượng nổi bật nhất là
Nho giáo Việt Nam và chữ Nôm.
Cuối thế kỷ XIX, nước ta bị thực dân Pháp xâm lược gần một thế kỷ, nhưng
văn hóa Việt Nam chẳng những không bị đồng hóa mà còn thu nhận và tiếp biến
những tinh hoa văn hóa Tây Âu để làm giàu thêm hành trang văn hóa của mình.
Đến thời đại Hồ Chí Minh, chúng ta vừa liên tục kháng chiến chống ngoại
xâm, vừa chống đói nghèo, dốt nát và lạc hậu, xây dựng một nền văn hóa tiên
tiến mang đậm màu sắc dân tộc. Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Hồ Chí
Minh đã tố cáo sự áp bức văn hóa bên cạnh sự đô hộ về chính trị và bóc lột về
kinh tế của thực dân Pháp. Sau ngày độc lập, trong bộn bề công việc khẩn cấp,
Bác Hồ không quên công việc “chống giặc dốt” song song với “chống giặc
đói” và “giặc ngoại xâm”.
Chính từ tầm nhìn văn hóa ấy, năm 1943 Đảng Cộng sản Đông Dương
đã cho ra đời Đề cương văn hóa phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh, đã kịch liệt lên án các thứ văn hóa “nhắm
mắt theo Tàu”, “nhắm mắt theo Tây”, “lăm le theo Nhật”, xa rời truyền thống
dân tộc, xa rời cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, Người đề ra ba nguyên tắc
lớn cho cuộc vận động Tân văn hóa đó là: dân tộc hóa, khoa học hóa, đại
chúng hóa. Đây là một đóng góp quan trọng, là một cái mốc lịch sử đánh dấu
18
sự nhận thức về tầm quan trọng của văn hóa cũng như thuộc tính và chức năng
của văn hóa trong tiến trình giải phóng dân tộc và xây dựng nền văn hóa mới.
Mặc dù Đề cương văn hóa đã có những đóng góp quan trọng trong việc
nhận thức về tầm quan trọng của văn hóa, song ngành khoa học nghiên cứu về
văn hóa - văn hóa học cũng chỉ mới hình thành ở Việt Nam chưa bao lâu.
Ngay định nghĩa “văn hóa là gì?” cũng còn nhiều ý kiến khác nhau.
Sau khi Đề cương văn hóa ra đời, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học đi
sâu nghiên cứu những vấn đề về bản chất của văn hóa và đưa ra nhận định: nếu
coi văn hóa là đối tượng khoa học, nghĩa là đối tượng để phân tích, lý giải, thì
phải có một định nghĩa xác định rõ nội hàm và ngoại diên của khái niệm, cũng
đề cập được các thuộc tính và chức năng của đối tượng. Từ đó, có thể hiểu
định nghĩa văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được hình
thành, lưu truyền và phát triển qua quá trình sáng tạo của con người trong sự
tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội.
Định nghĩa này không đồng nhất văn hóa với hình thái ý thức xã hội,
mặc dù hình thái ý thức xã hội (chính trị, triết học, văn học, nghệ thuật…) là
một thành tố của văn hóa. Văn hóa không chỉ bao gồm giá trị văn hóa tinh thần
mà còn bao gồm cả giá trị văn hóa vật chất (văn vật, cảnh quan, kiến trúc…).
Văn hóa là sự thống nhất hữu cơ giữa giá trị văn hóa vật chất và giá trị văn hóa
tinh thần. Giá trị văn hóa vật chất là sự tổng hợp những tư liệu sản xuất và
những giá trị vật chất khác, tùy theo từng trình độ phát triển của xã hội. Khái
niệm giá trị văn hóa tinh thần bao gồm những thành tựu của xã hội trong lĩnh
vực khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, văn chương, lối sống, tập tục, tín ngưỡng
và những quyền cơ bản của con người, trong tổ chức đời sống và phương thức
hoạt động của nhà nước và xã hội, trong phong tục và pháp luật của từng thời
kỳ lịch sử. Văn hóa tinh thần phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất, nội dung
và tính chất của nó do chế độ kinh tế, xã hội quyết định. Trong xã hội có giai
cấp, văn hóa mang tính chất giai cấp, do đó giai cấp tiến bộ là người đại diện
cho văn hóa tiên tiến, là văn hóa vì con người. Cùng với sự ra đời và hình
19
thành các dân tộc, văn hóa phát triển dưới các hình thức dân tộc. Nội dung của
văn hóa cũng rất phong phú, nhưng chung quy có thể xác định trong bốn mặt:
các thành tựu thuộc văn hóa vật chất, các thành tựu của văn hóa nhận thức
(nhân sinh quan, thế giới quan, triết học, mỹ học, văn học, nghệ thuật…), các
thành tựu của văn hóa ứng xử (bao gồm các thang giá trị trong cách ứng xử với
thiên nhiên và ứng xử với con người, với gia đình, với xã hội…), các thành tựu
của văn hóa tổ chức đời sống (bao gồm các thang giá trị trong cách tổ chức đời
sống gia đình, cộng đồng, xã hội…). Nội dung đó đã xác định nội hàm và
ngoại diên của khái niệm văn hóa. Không thể coi văn hóa là tất cả, văn hóa là
những thành tựu được thăng hoa thành vẻ đẹp (chữ văn có nghĩa gốc là vẻ
đẹp), cũng không thể hiểu văn hóa theo nghĩa hẹp, ví dụ nâng cao trình độ văn
hóa, thường chỉ dùng để chỉ học vấn, kiến thức; ngành văn hóa thường chỉ
quản lý các thư viện, bảo tàng.
Định nghĩa văn hóa vừa nêu trên đã bao hàm bốn thuộc tính và đi liền
với nó là bốn chức năng cơ bản của văn hóa. Đó là: tính hệ thống với chức
năng tổ chức xã hội; tính giá trị với chức năng điều tiết xã hội; tính lịch sử với
chức năng giáo dục và tính nhân bản với chức năng giao tiếp [75, 14-15].
Tính hệ thống là thuộc tính hàng đầu của văn hóa. Hệ thống, được hiểu
là một tổ hợp hữu cơ, bao gồm nhiều thành tố có quan hệ khăng khít với nhau,
tương tác tương thành, chi phối và chế ước lẫn nhau. Ba nội dung cơ bản của
văn hóa là văn hóa nhận thức, văn hóa ứng xử (với tự nhiên và xã hội), văn hóa
tổ chức đời sống (gia đình, xã hội) kết hợp trong một hệ thống hữu cơ. Trong
đó, văn hóa nhận thức có vai trò chi phối, chế ước tất cả. Chính nhờ tính hệ
thống mà văn hóa thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Văn hóa làm tăng
thêm sự cố kết cộng đồng, tạo nên sự ổn định xã hội, cung cấp cách ứng xử
thích hợp đối với môi trường tự nhiên và xã hội.
Tính giá trị là thuộc tính thứ hai của văn hóa. Văn hóa không chỉ bao
gồm các giá trị đẹp hình thức. Nó còn là thước đo mức độ nhân bản của một
con người, một xã hội. Nó cho phép phân biệt văn hóa với phi văn hóa, phản
20
văn hóa. Theo nghĩa đó, có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá
trị thẩm mỹ. Giá trị thẩm mỹ thường dành riêng cho các sáng tạo trong các loại
hình nghệ thuật với ba tiêu chuẩn cơ bản: Chân (đúng, thật), thiện (tốt, lành),
mỹ (đẹp, hay). Theo thời gian có thể chia thành giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất
thời (và lỗi thời). Theo không gian có thể chia thành giá trị cục bộ (một vùng)
và giá trị phổ biến.
Căn cứ vào các thang giá trị mà xã hội thường xuyên chấp nhận, sàng
lọc, điều chỉnh để duy trì sự ổn định và không ngừng tự hoàn thiện. Đó chính
là chức năng điều chỉnh xã hội của văn hóa. Trong sự phát triển mạnh mẽ của
kinh tế, xã hội hiện nay, UNESCO đã cảnh tỉnh các nhà hoạch định “văn hóa
giữ vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết của phát triển”.
Tính lịch sử, đây là thuộc tính được xác định bởi bề dày và chiều sâu của
văn hóa. Một nền văn hóa bao giờ cũng được hình thành qua nhiều thế hệ trên
chiều dài lịch sử. Nó tạo nên truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là sự
tiếp nối không đứt đoạn của phép nước lệ làng, của các tín điều luân lý, của
phong tục tập quán, của các chuẩn mực giá trị… Nhưng văn hóa vốn là một
thực thể năng động, luôn luôn nằm trong trạng thái giao lưu. Nó không hề đóng
cửa từ chối những cái mới đến từ bên ngoài. Có điều quá trình tiếp nhận những
nhân tố ngoại lai thường là quá trình tiếp biến chứ không hề là tiếp thu thụ động.
Truyền thống văn hóa luôn luôn thực hiện chức năng giáo dục của mình
đối với con người. Bằng con đường giáo dục hữu thức và vô thức từ khi chào
đời cho đến khi trưởng thành, con người nhận được sự dạy bảo của truyền
thống văn hóa. Tư tưởng chiến lược “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích
trăm năm trồng người” của Hồ Chí Minh [51, 310] không chỉ đề cập đến vị trí
quan trọng của giáo dục theo nghĩa hẹp (sự dạy dỗ trong nhà trường) mà còn ý
thức đầy đủ đến chức năng và tác dụng của văn hóa trong việc hình thành nhân
cách con người.
Tính nhân bản là thuộc tính thứ tư của văn hóa. Văn hóa là thành quả
sáng tạo của con người. Thuộc tính này cho phép phân biệt văn hóa với những
21
giá trị tự nhiên chưa qua bàn tay sáng tạo của con người (một đất nước có thể
giàu khoáng sản, dầu mỏ, nguồn lợi thiên nhiên nhưng chưa hẳn giàu có về văn
hóa). Thuộc tính này xác định thang giá trị của nền văn hóa, bởi vì xét cho
cùng, văn hóa do con người sáng tạo ra và nhằm phục vụ lợi ích của con
người. Các nền văn hóa tuy có những nét độc đáo mang sắc thái dân tộc riêng
nhưng vẫn có chung một đặc điểm là vì con người, vì cuộc sống con người.
Nhờ đặc điểm chung đó mà văn hóa thực hiện chức năng giao tiếp của nó giữa
con người với con người, giữa dân tộc này với dân tộc kia. Cho dù văn tự,
ngôn ngữ khác nhau, nhưng loài người vẫn cảm thông được với nhau. Đó
chính là nhờ văn hóa. Nếu ngôn ngữ là công cụ giao tiếp thì văn hóa chính là
nội dung của giao tiếp.
Trên đây là bốn thuộc tính gắn liền với bốn chức năng cơ bản của văn
hóa. Những thuộc tính của văn hóa giúp chúng ta phân biệt văn hóa với các khái
niệm văn minh, văn hiến, văn vật. Văn minh (civilization) là trình độ đạt được
trong phát triển văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của loài người trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định. Chẳng hạn: văn minh cổ đại, tiêu biểu là sự phát
triển rực rỡ của các quốc gia Ai Cập, Lưỡng Hà, Hi Lạp, La Mã… cổ đại; văn
minh hiện đại, gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp của chủ nghĩa tư bản.
Văn minh hiện đại còn được chia ra: văn minh công nghiệp, văn minh hậu công
nghiệp và văn minh tin học (còn gọi là nền văn minh thứ ba) - gắn liền với cuộc
cách mạng trong kỹ thuật điện tử và tin học hiện nay mà loài người đang đặt
những bước chân đầu tiên vào nhưỡng cửa của nó. Theo nghĩa thông thường,
văn minh đối lập với những gì lạc hậu, dã man, phản tiến bộ, phi nhân tính.
Trong sự phân kỳ xã hội loài người, người ta chia ra ba giai đoạn: mông muội,
dã man và văn minh. Như vậy, văn minh còn là một giai đoạn trong sự phát
triển nhân loại. Khi trong xã hội xuất hiện nhà nước thì loài người chuyển từ giai
đoạn dã man sang văn minh [78, 821]. Văn hóa giàu tính nhân bản, hướng tới
những giá trị muôn thuở, trong khi văn minh hướng tới sự hợp lý, sắp đặt cuộc
sống sao cho tiện lợi. Văn hóa và văn minh còn khác nhau ở tính lịch sử, trong
22
khi văn hóa được xác định bởi bề dày và chiều sâu thì văn minh chỉ là mặt cắt
đồng đại; một dân tộc lạc hậu vẫn có thể có một truyền thống văn hóa lâu đời,
ngược lại một quốc gia văn minh có thể nghèo nàn về văn hóa. Còn văn hiến và
văn vật là những khái niệm có từ chữ Hán nhưng cách dùng trong tiếng Việt thì
đã được Việt hóa. Trong tiếng Hán, văn hiến chỉ có nghĩa là sách vở, điển tích
và chuyện về các bậc hiền minh. Trong tiếng Việt, văn hiến là truyền thống văn
hóa tốt đẹp và lâu đời (đất nước ngàn năm văn hiến), nguyên nghĩa là văn
chương, sách vở hay, bảo tồn truyền thống văn hóa lâu đời [78, 798]. Văn vật
trong tiếng Hán chỉ điển chương, lễ nhạc (sản phẩm cụ thể của văn hóa). Trong
tiếng Việt văn vật là một bộ phận của văn hóa. Văn là vẻ đẹp, vật là các sản
phẩm do con người sáng tạo ra có giá trị nghệ thuật và sức sống lâu dài. Văn vật
được biểu hiện dưới dạng vật thể như các công trình kiến trúc, di tích, hiện vật
quý hiếm có giá trị nghệ thuật và hàm lượng văn hóa cao [78, 826]. Chung quy,
văn minh, văn hiến, văn vật là những khái niệm phái sinh của văn hóa, cũng có
thể hiểu là khái niệm bộ phận của văn hóa, bởi vì văn hóa bao giờ cũng được
dùng với một hàm nghĩa bao quát hơn.
1.1.2. Quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về văn hóa
Khi xây dựng nên những quan điểm và nguyên lý của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã đi
đến kết luận rằng: sản xuất vật chất là cơ sở, là nền tảng, là cái quyết định sự
vận động và phát triển xã hội. Rằng, xét đến cùng, nguyên nhân sâu xa của mọi
sự vận động, biến đổi và phát triển của đời sống xã hội là những nhân tố thuộc
về đời sống vật chất, thuộc về nền sản xuất xã hội. Và khi thừa nhận vai trò
quyết định của đời sống vật chất xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã gián tiếp
thừa nhận vai trò quyết định của văn hóa (văn hóa vật chất) đối với sự phát
triển xã hội. Bởi lẽ, trong quan niệm của các ông, văn hóa là toàn bộ những
thành quả được tạo ra nhờ hoạt động lao động sáng tạo của con người - hoạt
động sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực của con người,
23
C.Mác xem văn hóa là “thiên nhiên thứ hai” - thiên nhiên được con người cải
tiến, được nhân hóa, mang ý nghĩa và nội dung con người.
Thật vậy, cách đây hơn 150 năm, trong Bản thảo Kinh tế - Triết học
năm 1884, C.Mác đã viết: “Việc tạo một cách thực tiễn ra thế giới vật thể, việc
cải tạo giới tự nhiên vô cơ là sự tự khẳng định của con người với tư cách là
một sinh vật có tính loài, có ý thức, nghĩa là sinh vật đối xử với loài như với
bản chất của chính mình, hoặc đối xử với bản thân mình như với một sinh vật
có tính loài… Cho nên chính trong việc cải biến thế giới vật thể, con người lần
đầu tiên thực sự khẳng định mình là một sinh vật có tính loài. Sự sản xuất đó là
đời sống có tính loài tích cực của con người. Nhờ sự sản xuất đó, giới tự nhiên
biểu hiện ra là tác phẩm của nó (con người) và thực tại của nó” [12, 136 - 137).
Với tư cách là “Tác phẩm của con người”, là “thực tại” - “giới tự nhiên thứ
hai” của con người, văn hóa đã được C.Mác đồng nhất với phương thức hoạt
động sống đặc thù, phương thức hoạt động sống riêng có của con người -
phương thức mà con người sử dụng lao động sáng tạo, hoạt động sản xuất vật
chất của mình để biến đổi và cải tạo giới tự nhiên xung quanh mình, cải tạo
hiện thực khách quan, và “xây dựng” hiện thực khách quan (“thực tại”) cho
mình, “tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên” - “giới tự nhiên thứ hai”, giới tự
nhiên cho mình “theo quy luật của cái đẹp” [12, 137].
Từ quan điểm về văn hóa như trên, C.Mác coi văn hóa là cái phản ánh
tính đặc thù của hoạt động con người và sự tồn tại cũng với tính đặc thù như
vậy của con người trong thế giới. Rằng văn hóa chỉ xuất hiện khi con người ý
thức một cách rõ ràng về đời sống xã hội của họ, về hoạt động lao động sáng
tạo, hoạt động sản xuất vật chất để cải tạo và biến đổi tự nhiên vì sự tồn tại và
phát triển của chính họ, vì cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn của họ. Nói cách
khác, trong quan điểm của C.Mác, văn hóa là cái phản ánh việc con người tự ý
thức về vai trò độc lập của mình, về khả năng và năng lực sáng tạo của mình
trong việc cải tạo và biến đổi tự nhiên.