Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Chương 3: Tài liệu phông lưu trữ Đảng- nguồn nghiên cứu lịch sử Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.93 KB, 41 trang )

Luận án tiến sĩ sử học

TS. Nguyễn Lệ Nhung - 0912581997
www.vanthuluutru.com

79
Chương 3
Tài liệu phông lưu trữ Đảng - nguồn sử liệu để
nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

3.1. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu lịch sử Đảng và vấn đề xây dựng
các nguồn sử liệu
Nhiệm vụ nghiên cứu lịch sử Việt Nam nói chung, lịch sử ĐCSVN nói
riêng trong nhiều thập kỷ gần đây được rất nhiều người, đặc biệt là giới sử
học rất quan tâm. Điều này thể hiện ở chỗ công tác nghiên cứu lịch sử trong
cả nước ngày càng được mở rộng, các công trình sử học được công bố ngày
càng nhiều, rất phong phú về nội dung và đa dạng về hình thức. Đã xuất hiện
nhiều tác phẩm về thông sử, về lịch sử Đảng, lịch sử địa phương (tỉnh, huyện,
xã), lịch sử của từng ngành (quân sự, điện ảnh, công an, bộ đội biên
phòng,...); lịch sử các tổ chức (phụ nữ, thanh niên, mặt trận,... ), lịch sử danh
nhân, v. v....
Khoa học lịch sử Đảng là một chuyên ngành của khoa học lịch sử. Sau
nhiều năm xây dựng, ngày nay khoa học nghiên cứu lịch sử ở Việt Nam đã có
những bước chuyển biến mới, trong đó việc nghiên cứu lịch sử Đảng đang
được đặt ra với nhiều yêu cầu cấp thiết. Thực tế nhiều năm qua cho phép
chúng ta khẳng định rằng, những bài học của lịch sử Đảng ta có ý nghĩa
không chỉ với chính chúng ta mà cả với bạn bè quốc tế. Không chỉ với hiện tại
mà còn cả với tương lai, chúng ta tin rằng nghiên cứu lịch sử ĐCSVN sẽ đóng
góp nhiều mặt cho phong trào cách mạng thế giới.
Như mọi người đều biết, ĐCSVN ra đời đã đảm đương sứ mệnh lịch sử
vẻ vang lãnh đạo cách mạng nước ta. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành


công, những điều kiện xã hội cho sự hình thành và phát triển của khoa học
lịch sử nước ta, trong đó có khoa học về lịch sử Đảng ngày càng thuận lợi. Từ
đó, việc nghiên cứu lịch sử ĐCSVN ngày càng phát triển. Nó luôn luôn gắn
liền một cách hữu cơ với nội dung cơ bản của lịch sử đất nước và dân tộc. Về
mặt phương pháp luận, khoa học lịch sử Đảng được xây dựng và phát triển
trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chức năng chính của khoa học lịch sử Đảng là nhận thức đúng đắn, tái hiện
khách quan, chân thực tiến trình phát triển của Đảng, phát hiện và tìm ra
những vấn đề có tính quy luật, góp phần giáo dục lòng yêu nước, cung cấp
luận cứ khoa học cho sự lãnh đạo của Đảng, cho công cuộc xây dựng và chỉnh
đốn Đảng hiện nay và sau này, cho việc tiếp tục chỉ đạo xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Cần nói rằng, đối tượng của khoa học lịch sử nói chung là quá trình
phát triển thực tế của xã hội loài người, cũng như từng nước, từng dân tộc
Luận án tiến sĩ sử học

TS. Nguyễn Lệ Nhung - 0912581997
www.vanthuluutru.com

80
trong toàn bộ tính thống nhất, tính phức tạp, tính muôn màu muôn vẻ của nó.
Nói cách khác, điều đó có nghĩa là, khoa học lịch sử phải nghiên cứu sự
chuyển biến cụ thể của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nói chung,
lịch sử từng dân tộc, tìm hiểu những biểu hiện cụ thể, phong phú của cuộc đấu
tranh giai cấp trong lịch sử, vai trò của giai cấp lãnh đạo, vai trò của Đảng
cầm quyền, vai trò sáng tạo, quyết định của quần chúng nhân dân lao động
đối với lịch sử và nhiều vấn đề khác [85].
Đối tượng của khoa học lịch sử Đảng là nghiên cứu quá trình ra đời và
phát triển của Đảng để tìm ra các quy luật của sự phát triển đó. Việc xác định
đối tượng của khoa học lịch sử Đảng đòi hỏi trong quá trình nghiên cứu biên

soạn lịch sử Đảng phải miêu tả, giải thích bản chất các sự kiện và quá trình
lịch sử, đồng thời phải khám phá, tìm ra mối quan hệ, quy luật của sự phát
triển đường lối cách mạng, của nghệ thuật lãnh đạo cách mạng [7-87-88-103].
Như vậy, chức năng chung của khoa học lịch sử Đảng là nhận thức xã hội,
giáo dục con người, tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng, đóng góp tích
cực vào công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, con người mới. Đó
là việc nghiên cứu một cách khoa học để bằng cách miêu tả, dựng lại quá
trình trưởng thành của Cách mạng Việt Nam; phân tích, đánh giá, giải thích
các sự kiện và quá trình lịch sử của Đảng, và từ đó phát hiện quy luật phát
triển chung và quy luật đặc thù của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, của
Đảng ta.
Chức năng nhận thức ở đây gồm hai vấn đề: một là, dựng lại lịch sử
Đảng gần đúng như nó đã diễn ra; hai là, phát hiện quy luật, đúc kết lý luận và
bài học kinh nghiệm từ lịch sử Đảng. Hai vấn đề này có quan hệ biện chứng
với nhau: Có dựng lại lịch sử đúng như nó diễn ra mới có cơ sở để phát hiện
quy luật của nó; đồng thời có nghiên cứu phát hiện được bản chất của sự kiện
lịch sử, quy luật vận động khách quan của nó thì mới dựng lại được gần sát
đúng như nó diễn ra. Đây là nét đặc trưng của khoa học lịch sử nói chung,
khoa học lịch sử Đảng nói riêng. Quá trình nhận thức nói trên được lặp đi lặp
lại, từ nông đến sâu, phát triển không ngừng. Không thể chỉ một lần đã có thể
dựng lại được đúng bức tranh của lịch sử, cũng không thể nhận thức một lần
là có thể phát hiện được đầy đủ bản chất và quy luật của lịch sử. Chúng ta
nghiên cứu lịch sử Đảng không phải chỉ giản đơn là ôn lại quá khứ, mà chủ
yếu là nhằm hiểu đúng, hiểu sâu cái đã qua, để có điều kiện hiểu được cái
đang và sắp diễn ra, phục vụ tốt hơn cho việc xem xét và giải quyết những
vấn đề của Đảng, của đất nước trong hiện tại và tương lai.
Theo các nhà nghiên cứu lịch sử, khoa học lịch sử Đảng có những
nhiệm vụ chính sau đây:
1/ Quán triệt và góp phần nhận thức đúng đắn quá trình thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng và những kết quả đã đạt được từ quá trình đó.

Luận án tiến sĩ sử học

TS. Nguyễn Lệ Nhung - 0912581997
www.vanthuluutru.com

81
Đây chính là tính mục đích của lịch sử Đảng. Công tác nghiên cứu lịch sử
Đảng phải cung cấp tri thức về quy luật và những bài học kinh nghiệm chỉ
đạo cách mạng đã qua để góp phần xây dựng cơ sở thực tiễn và lý luận cho
việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản trong đường lối, chủ trương của Đảng,
tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề cách mạng hiện nay và sắp tới.
2/ Khoa học lịch sử Đảng là một phương tiện giáo dục tư tưởng, góp
phần xây dựng truyền thống cách mạng, truyền thụ kinh nghiệm, bồi dưỡng
và nâng cao lòng yêu nước cho cán bộ đảng viên, cho nhân dân và các thế hệ
tương lai của đất nước.
3/ Dựng lại chính xác các sự kiện lịch sử đã diễn ra trong quá trình phát
triển của Đảng, đấu tranh khắc phục những quan niệm và nhận thức không
đúng về lịch sử, phê phán và vạch trần những luận điệu xuyên tạc lịch sử, bảo
vệ chân lý lịch sử [127, 44 -51].
Như vậy, nhiệm vụ của khoa học lịch sử Đảng là nghiên cứu quá trình
Đảng lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội, quá trình xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam, đúc kết những vấn đề lý luận của cách mạng Việt Nam,
về truyền thống cách mạng của Đảng và nhân dân ta, rút ra những bài học
kinh nghiệm quý báu về thực tiễn xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng
Việt Nam.
Nghiên cứu lịch sử ĐCSVN càng được tiến hành một cách khách quan,
trung thực và dũng cảm bao nhiêu, càng phù hợp với lợi ích của Đảng, của
giai cấp công nhân, của toàn dân tộc bấy nhiêu [7]. Muốn vậy, điều cơ bản

đầu tiên là nhà sử học phải tiếp cận với hiện thực lịch sử khách quan đã xảy
ra, thông qua các nguồn sử liệu có đủ độ tin cậy để tái tạo lại bức tranh chân
thực của lịch sử, để đánh giá được một cách trung thực, toàn diện nhiều vấn
đề của lịch sử Đảng với tất cả sự đa dạng, phong phú của nó. Đó là những vấn
đề về vai trò của Đảng trong cách mạng Việt Nam, trong quan hệ với các
đảng cộng sản trên thế giới, về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, về sự
lãnh đạo và hoạt động của Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường và nhiều
vấn đề quan trọng khác. Tất nhiên, không phải hiện nay mọi vấn đề của khoa
học lịch sử Đảng đều đã được giải quyết tốt. Thực tế cho thấy, dù đã đạt được
nhiều thành tựu, khoa học lịch sử Đảng vẫn đứng trước nhiều câu hỏi cần phải
tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ.
Thí dụ, chúng ta cần phải đánh giá như thế nào cho thật khách quan,
chính xác về thời kỳ Bác Hồ chưa được Quốc tế Cộng sản tin tưởng? về vai
trò của đồng chí Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập? về cải cách ruộng đất? về
Hội nghị Giơ-ne-vơ, về cải tạo XHCN ở miền Nam sau giải phóng? v.v...
Luận án tiến sĩ sử học

TS. Nguyễn Lệ Nhung - 0912581997
www.vanthuluutru.com

82
Những vấn đề đó và hàng loạt vấn đề khác sẽ không thể giải quyết được nếu
không dựa vào các nguồn sử liệu. Sử liệu càng phong phú và chính xác bao
nhiêu thì nghiên cứu và trả lời những câu hỏi nói trên càng thuận lợi
bấy nhiêu.
Chính vì thế, vấn đề xây dựng các nguồn sử liệu là nhiệm vụ tất yếu
phải làm hiện nay của khoa học nghiên cứu lịch sử Đảng. Trong số những
nguồn sử liệu mà chúng ta hiện có liên quan đến lịch sử ĐCSVN, tài liệu lưu
trữ rõ ràng là một loại hình sử liệu không thể thay thế.
Khi xem xét các nguồn sử liệu của lịch sử Đảng trong mối quan hệ với

nhiệm vụ lựa chọn tài liệu lưu trữ để bảo quản trong các kho lưu trữ Đảng, có
thể khẳng định chắc chắn rằng, nhiệm vụ xây dựng các nguồn sử liệu trong sử
học với công tác lựa chọn tài liệu văn kiện trong lưu trữ học có mối quan hệ
rất khách quan. Lĩnh vực này tìm thấy ở lĩnh vực kia một cơ sở để giải quyết
tốt hơn nhiệm vụ của mình. Khi công tác nghiên cứu lịch sử Đảng được đẩy
mạnh thì đồng thời nó cũng thúc đẩy sự phát triển của công tác xác định giá
trị tài liệu lưu trữ của Đảng. Về phần mình, công tác xác định giá trị tài liệu
lưu trữ càng được hoàn thiện thì giới sử học càng có thể có được những
nguồn sử liệu giá trị phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứu của mình.
Ở đây, trước khi đi vào vấn đề xây dựng các nguồn sử liệu cho nghiên
cứu lịch sử Đảng, chúng tôi thấy cần phải lý giải đôi nét về sử liệu học và các
nguồn sử liệu, về nhiệm vụ của sử liệu học nói chung. Theo nghĩa rộng,
nguồn sử liệu là tất cả những gì chứa đựng các thông tin về quá khứ hoạt
động của con người trong điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định. Nhà sử học
Ba Lan Topolski đã có một định nghĩa khá đầy đủ rằng: “Nguồn sử liệu là
mọi thông tin về đời sống con người trong quá khứ cùng với các kênh thông
tin” [126, 83]. Theo nghĩa như vậy, trong lịch sử của Đảng ta, các văn kiện
quan trọng như: Hiệp định Pari năm 1973, Di chúc của Bác Hồ, Chỉ thị 100
về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong nông nghiệp [76-77]
và toàn bộ các nguồn tài liệu lưu trữ khác đều có thể xem là nguồn sử liệu của
lịch sử Đảng [73-84], là kênh thông tin quan trọng, có thể khai thác dưới
nhiều góc độ khác nhau cùng với nhiều kênh khác nhau để nghiên cứu lịch sử
ĐCSVN.
Trong giới hạn cụ thể được nói đến ở đây, nguồn sử liệu - lưu trữ Đảng
là những tài liệu được hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan,
tổ chức của Đảng, của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt và các đảng viên tiêu
biểu được bảo quản cố định trong các kho lưu trữ Đảng, được phân loại, đánh
giá theo yêu cầu của việc nghiên cứu lịch sử Đảng. Những sử liệu - tài liệu
lưu trữ này chứa đựng nhiều thông tin về chủ trương, đường lối, sự lãnh đạo
của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta kể từ khi có Đảng,

Luận án tiến sĩ sử học

TS. Nguyễn Lệ Nhung - 0912581997
www.vanthuluutru.com

83
phản ánh tình hình cách mạng Việt Nam, tình hình tổ chức và xây dựng Đảng
ở các cấp qua các thời kỳ.
Cần nhấn mạnh rằng, tài liệu lưu trữ Đảng đang có hiện nay, được sinh
ra không phải nhằm mục đích để làm sử liệu, mà trước hết là do nhu cầu của
thực tiễn cách mạng đòi hỏi. Do vậy, chúng phải được xem xét như những
hiện tượng xã hội được sinh ra trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định,
mang dấu ấn của hoàn cảnh đó. Quan điểm này đòi hỏi phải có cái nhìn lịch
sử khi nghiên cứu loại sử liệu này. Thí dụ khi nghiên cứu nhóm tài liệu văn
kiện phản ánh những quyết sách quan trọng về đường lối cách mạng Việt
Nam ở miền Nam của Đảng ta như: Đề cương cách mạng miền Nam của đồng
chí Lê Duẩn, Nghị quyết Hội nghị Liên khu ủy V năm 1958, Chỉ thị cuối năm
1958 của Liên khu ủy V về xây dựng căn cứ miền núi, Nghị quyết 15 ngày
13/01/1959 của Ban Chấp hành Trung ương; Báo cáo của các tổ chức cơ sở
Đảng, các ban, ngành đoàn thể ở Liên khu V về thắng lợi của phong trào đồng
khởi của nhân dân miền Nam năm 1959-1960,... chúng ta cần đặt chúng trong
những điều kiện lịch sử cụ thể mà chúng đã xuất hiện. Những tài liệu văn kiện
này phản ánh rõ nét con đường phát triển của Cách mạng Việt Nam giai đoạn
1959 - 1975 là con đường bạo lực của quần chúng, dựa vào lực lượng của
quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang đánh đổ đế quốc Mỹ
và tay sai, giành lấy chính quyền về tay nhân dân. Với những nhận định đúng
đắn ấy, cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã chuyển sang
một cục diện mới. Và từ đó, thế và lực của Cách mạng không ngừng
phát triển.
Nhóm tài liệu văn kiện này có liên quan trực tiếp đến các chủ trương,

đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đấu tranh giành thống nhất
nước nhà. Chúng trở thành nguồn sử liệu khi ta đặt vấn đề thông qua chúng
để nghiên cứu lịch sử kháng chiến ở các tỉnh miền Nam Trung bộ nói riêng và
tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta nói chung. Từ
đó có thể thấy rằng, khi chưa trở thành sử liệu, tài liệu văn kiện Đảng là
phương tiện thực hiện những nhiệm vụ thực tiễn trong hoạt động có mục đích
của Đảng. Phục vụ thực tiễn là mục tiêu đầu tiên của sử liệu. Khi nghiên cứu
sử liệu nếu không đặt nó vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà nó đã sản sinh và
thấy được hoàn cảnh ấy đã tác động, chi phối như thế nào đối với nội dung và
hình thức của sử liệu, thấy thực tại được phản ánh ở mức độ nào vào sử liệu
thì sẽ không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ nghiên cứu lịch sử bởi vì chúng ta sẽ
không thể thấy hết ý nghĩa của một nguồn sử liệu cụ thể. Thông qua các
nguồn sử liệu, người ta có thể nhận thức được bản chất của các hiện tượng và
sự kiện lịch sử. Đây chính là sự tồn tại khách quan, độc lập của sử liệu đối với
chủ thể nhận thức và cho thấy sử liệu có một vị trí quan trọng trong quá trình
nhận thức lịch sử.
Luận án tiến sĩ sử học

TS. Nguyễn Lệ Nhung - 0912581997
www.vanthuluutru.com

84
Trở lại vấn đề xây dựng cơ sở sử liệu của lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, dựa trên nguồn tài liệu lưu trữ Đảng, như trên đã nói, có liên quan chặt
chẽ với lý luận xác định giá trị tài liệu. ý nghĩa của phương pháp sử liệu học
trong lý luận đánh giá chính là ý nghĩa của việc lựa chọn các nguồn tài liệu
văn kiện đối với khoa học lịch sử. Chính vì thế, giá trị của tài liệu đương
nhiên không chỉ phụ thuộc vào những mục đích thực tiễn hàng ngày mà sâu
xa hơn, giá trị đó còn phụ thuộc vào vị trí của tài liệu lưu trữ trong toàn bộ cơ
sở sử liệu lịch sử Đảng hiện tại và tương lai. Cũng chính vì thế mà muốn thực

hiện tốt nhiệm vụ xây dựng cơ sở sử liệu của khoa học lịch sử Đảng dựa trên
nguồn tài liệu lưu trữ Đảng, đòi hỏi lý luận đánh giá hỗ trợ và giải quyết thật
tốt yêu cầu lựa chọn tài liệu văn kiện.
Tất nhiên, các nguồn sử liệu của lịch sử ĐCSVN không phải chỉ có tài
liệu lưu trữ. Như mọi người đều biết, việc nghiên cứu lịch sử ĐCSVN trong
thời gian qua được tiến hành tại rất nhiều cơ quan, viện nghiên cứu. Các
nguồn sử liệu được sử dụng để nghiên cứu rất phong phú. Trong số đó có thể
kể đến các báo chí định kỳ, các cuốn hồi ký, các tư liệu do các cơ quan nước
ngoài cung cấp, các tài liệu thu được từ quá trình khảo sát thực tế của các nhà
nghiên cứu trong nhiều thời gian khác nhau, v.v...
Các loại hình sử liệu của lịch sử Đảng có thể chia thành các nhóm như:
sử liệu chữ viết, sử liệu vật thật, sử liệu phim, ảnh, sử liệu truyền miệng,...
Tuy nhiên, cách phân chia như trên chỉ là tương đối và ước lệ. Các nhóm sử
liệu cần phải được phân loại chi tiết hơn, phù hợp hơn với những đặc điểm
của lịch sử ĐCSVN và đặc điểm của mỗi nguồn sử liệu. Thí dụ: sử liệu chữ
viết có thể phân loại thành sử liệu sách, báo chí, tài liệu lưu trữ, hoặc theo đặc
điểm ngôn ngữ của chúng như sử liệu tiếng Việt, sử liệu tiếng Nga, sử liệu
tiếng Anh, sử liệu tiếng các dân tộc thiểu số,...
Trong các sử liệu chữ viết lại có loại bản gốc, có loại là bản sao, có loại
dịch và in lại. Chúng cần phải được phân biệt và đánh giá khoa học trước khi
sử dụng để nghiên cứu lịch sử. Cũng có thể phân biệt loại hình sử liệu theo
nội dung của chúng hoặc dựa vào một vài đặc trưng khác. áp dụng đặc trưng
nào trong số các đặc trưng nói trên để phân loại các nguồn sử liệu là tùy thuộc
vào nhu cầu thực tế của công việc nghiên cứu, của việc sử dụng sử liệu, đồng
thời cũng cần dựa vào những đặc điểm cụ thể của các nguồn sử liệu được
nghiên cứu. Thực tế cho thấy, có những sử liệu không thể phân loại theo đặc
trưng này nhưng lại có thể phân loại theo đặc trưng khác, thí dụ như nguồn sử
liệu phim ảnh, các tài liệu ghi âm, v.v... Đối với loại sử liệu này, chúng ta
không nên phân loại theo địa bàn mà nên phân loại theo loại hình của chúng
như: phim tài liệu, phim thời sự, băng ghi âm, đĩa ghi âm... Hoặc đối với

nguồn sử liệu là báo, tạp chí thì chúng ta nên phân chia chúng thành báo chí
Luận án tiến sĩ sử học

TS. Nguyễn Lệ Nhung - 0912581997
www.vanthuluutru.com

85
trung ương, báo chí địa phương, báo chí ngoài nước, báo chí thời kỳ trước
Cách mạng, sau Cách mạng, v. v...
Như vậy, để phân loại tổng hợp toàn bộ các nguồn sử liệu của lịch sử
ĐCSVN, chúng ta cần áp dụng nhiều đặc trưng khác nhau. Việc phân loại
tổng hợp sẽ giúp cho các nhà nghiên cứu có cái nhìn toàn diện đối với các
nguồn sử liệu, thấy được mối liên hệ giữa chúng với nhau và mỗi thời kỳ lịch
sử cụ thể. Tuy nhiên bất cứ một sự phân loại chung nào cũng không thể bao
gồm hết được tính đặc thù của các nhóm sử liệu riêng biệt. Vì vậy việc phân
loại theo phạm vi từng nguồn sử liệu vẫn có vai trò riêng của nó. Đặc biệt là
khi các nhóm sử liệu riêng biệt có khối lượng lớn như tài liệu lưu trữ thì sự
phân loại cụ thể, chi tiết trong nhóm là hết sức cần thiết. Vì thế, chúng tôi cho
rằng, các nguồn sử liệu của lịch sử ĐCSVN cần được phân loại theo cả hai
khuynh hướng: tổng hợp và từng nguồn cụ thể theo tính đặc thù của chúng,
sao cho các nguồn sử liệu sau khi phân loại có khả năng phản ánh được quy
luật phát triển chung của Đảng, cũng như quá trình sưu tầm, nghiên cứu tư
liệu mà các nhà sử học đã tích luỹ được.
Cần nhấn mạnh rằng, việc phân loại các nguồn sử liệu là tạo khả năng
để chúng ta mở rộng mối quan hệ giữa các nguồn sử liệu và sử dụng chúng có
hiệu quả trong một công trình nghiên cứu hay trong một thời kỳ lịch sử nhất
định. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến một tác phẩm và nó cũng không
phải là nhiệm vụ riêng của một nhà sử học nào. Đây là nhiệm vụ có liên quan
đến mọi công trình sử học, có ảnh hưởng đến quá trình nghiên cứu của tất cả
các nhà sử học khi nghiên cứu một vấn đề, một giai đoạn lịch sử của Đảng,

của dân tộc. Theo chúng tôi, trong số các nguồn sử liệu của lịch sử ĐCSVN,
nguồn sử liệu chữ viết là có khối lượng lớn nhất và có ý nghĩa quan trọng nhất
[121-122].
Trong nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng, có thể nói, nguồn sử liệu là
vấn đề đầu tiên cần phải được nhận thức đúng đắn từ phía các nhà nghiên cứu
lịch sử nói chung, những người nghiên cứu và biên soạn lịch sử Đảng nói
riêng. Như đã nhấn mạnh ở trên, để nghiên cứu lịch sử, các nhà sử học phải
sử dụng nhiều nguồn sử liệu khác nhau: sử liệu chữ viết, sử liệu vật thật, sử
liệu nghe nhìn, sử liệu truyền miệng, v. v... Trong nguồn sử liệu chữ viết thì
tài liệu lưu trữ đóng một vai trò rất quan trọng [108].
Nhiều nhà nghiên cứu từ lâu đã khẳng định rằng, dựa vào tài liệu lưu
trữ, chúng ta có khả năng nghiên cứu và nhận thức sâu sắc hơn một số vấn đề
trong lịch sử Việt Nam hiện còn chưa sáng tỏ. Hơn thế nữa, nó còn có khả
năng đóng góp, soi sáng hàng loạt vấn đề khác nhau của lịch sử nước ta ở mọi
thời kỳ. Nhà sử học người Pháp Charles Fourniau đã đưa ra một nhận định lý
thú về sử liệu là tài liệu lưu trữ khi ông sử dụng tài liệu lưu trữ để nghiên cứu
một vấn đề trong lịch sử Việt Nam như sau: “Nguồn tài liệu lưu trữ là một
Luận án tiến sĩ sử học

TS. Nguyễn Lệ Nhung - 0912581997
www.vanthuluutru.com

86
kho chứa đựng những thông tin gần như không bao giờ cạn, nếu biết khai thác
và đặt chúng dưới một sự phê phán phức tạp thì những nguồn tài liệu lưu trữ
này sẽ cho phép đi khá xa trong sự nhận thức, kể cả vấn đề đã bị tranh luận và
phủ nhận [04].
Trong quá trình nghiên cứu và biên soạn lịch sử Đảng, các nhà nghiên
cứu phải đụng chạm đến những sự kiện, những giai đoạn lịch sử đòi hỏi phải
lý giải chúng trên một quan điểm khoa học và bằng những phương pháp thích

hợp. Mỗi sự kiện, hiện tượng cần được nhìn nhận như là một khách thể của tự
nhiên và xã hội, có sự phát sinh, phát triển, không phụ thuộc vào ý thức của
con người. Có quan điểm đúng đắn và phương pháp khoa học sẽ giúp cho
công trình sử học không bị rơi vào tình trạng bị dựng nên như một bức tranh
phi thực tế, không phản ánh đúng bản chất của sự kiện, hiện tượng được
nghiên cứu. Vấn đề thường được bàn tới trong nghiên cứu, biên soạn lịch sử
là cơ sở để nhận thức đúng đắn bản chất những sự kiện, hiện tượng đã xảy ra.
Những sự kiện này có thể có từ một số khả năng khác nhau: sự kiện chưa
được biết tới, sự kiện đã được biết nhưng chưa được hiểu một cách đúng đắn;
sự kiện chưa được hiểu một cách toàn diện và đầy đủ. Giải quyết những vấn
đề này chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng của khoa học lịch sử.
Và để giải quyết được những nhiệm vụ đó một cách khách quan, đòi hỏi phải
dựa vào các nguồn sử liệu, trong đó tài liệu lưu trữ là nguồn sử liệu quan
trọng [57,20]. Tất nhiên, điều đó không có nghĩa là kết quả nghiên cứu, biên
soạn lịch sử Đảng chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn sử liệu. Điều hiển nhiên
là nếu không có tri thức riêng của người nghiên cứu thì sử liệu chỉ là những
hiện tượng rời rạc. Nhưng ngược lại, nếu không có sử liệu thì người nghiên
cứu không thể đem tri thức của mình để dựng nên một bức tranh lịch sử thực
tế. Qua đó, có thể thấy rõ ràng nguồn sử liệu là điều kiện để người nghiên cứu
đặt vấn đề và giải quyết vấn đề nghiên cứu lịch sử đảng một cách có hiệu quả
và khoa học. Nó là một bộ phận của phương pháp nghiên cứu sử học.
3.2. Tài liệu phông lưu trữ ĐCSVN với tư cách là nguồn sử liệu có
giá trị để nghiên cứu lịch sử Đảng
Khi xem xét như là một nguồn sử liệu, tài liệu phông lưu trữ ĐCSVN
hiện đang bảo quản trong Kho Lưu trữ TW Đảng có một số đặc điểm quan
trọng sau đây:
3.2.1. Nguồn sử liệu có nội dung phong phú và đa dạng về loại hình có
khả năng làm sáng tỏ nhiều vấn đề của lịch sử Đảng. Tài liệu lưu trữ Đảng
không chỉ đa dạng về thể loại mà còn phong phú về mặt nội dung. Khi ban
hành những tài liệu văn kiện đó, các cơ quan, tổ chức Đảng nhằm đáp ứng

nhu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam là truyền đạt và cung cấp những
thông tin cần thiết cho hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Tài liệu văn
kiện của Đảng là cơ sở để thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng Cộng
Luận án tiến sĩ sử học

TS. Nguyễn Lệ Nhung - 0912581997
www.vanthuluutru.com

87
sản Việt Nam trong quản lý Nhà nước. Đây cũng chính là giá trị đầu tiên của
tài liệu văn kiện Đảng. Phân tích các mặt giá trị của tài liệu văn kiện Đảng là
điều rất cần thiết để giúp các nhà sử học có thể chủ động khai thác nguồn sử
liệu này nhằm phục vụ cho các công trình nghiên cứu của mình.
Nhìn một cách tổng quan, nguồn sử liệu-tài liệu lưu trữ của Đảng có thể
cung cấp cho các nhà nghiên cứu lịch sử Đảng những thông tin có giá trị lịch
sử về tình hình chính trị, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, kinh tế, khoa học,
văn hoá, xã hội, giáo dục và nhiều vấn đề liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng.
Đây là những vấn đề mà từ lâu giới nghiên cứu ở Việt Nam cũng như trên thế
giới hết sức quan tâm. Điều này có thể thấy trên thực tế. Theo nội dung của
mình, tài liệu lưu trữ của Đảng trước hết phản ánh kết quả của quá trình lãnh
đạo tập thể của TW Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, thể hiện đường lối, chủ
trương, phương châm, chính sách của Đảng qua nhiều giai đoạn đấu tranh của
nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Trong
nguồn sử liệu này có nhiều thông tin quan trọng và chi tiết về quá trình thành
lập Đảng, về nguyên tắc tổ chức của Đảng, về cơ cấu tổ chức các cơ quan, tổ
chức đảng từ Trung ương đến địa phương. Ngoài ra, nội dung của nó còn cho
thấy sự phát triển các chủ trương, đường lối, chính sách tổng thể về đối nội
cũng như đối ngoại của Đảng qua các giai đoạn cách mạng từ trước năm 1954
đến nay.
Chẳng hạn như qua các sưu tập hiện đang bảo quản ở Kho Lưu trữ TW

Đảng như Sưu tập lưu trữ “Các tổ chức tiền thân của Đảng (1924-1930)”, sưu
tập “Hội nghị thành lập Đảng (2/1930)”, v.v... chúng ta có thể khai thác
những thông tin về các sự kiện phản ảnh về quá trình vận động để đi đến
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam trước năm 1930. Hoặc như qua các tài
liệu gốc về các bản Cương lĩnh của Đảng: “Cương lĩnh chính trị tháng 10 năm
1930”, “Cương lĩnh năm 1991 của Đảng” chúng ta có thể so sánh sự phát
triển đường lối chiến lược, chủ trương chung và các chính sách tổng thể của
Đảng qua các thời kỳ để tạo ra sự thống nhất trong quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong Kho
Lưu trữ TW Đảng hiện đang bảo quản nhiều bản gốc là các Nghị quyết Hội
nghị Trung ương [73-74-77], bắt đầu từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 (tháng
3/1948), Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ II (tháng 2/1951), cho đến Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Qua những văn kiện này, các
nhà sử học có thể nghiên cứu một cách hệ thống đường lối chính trị, quan
điểm của Đảng trong việc hình thành và phát triển những vấn đề lý luận cách
mạng dân tộc dân chủ và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta, về
sự đổi mới của Đảng trong quá trình lãnh đạo Cách mạng Việt Nam hiện nay.
Điều quan trọng là việc nghiên cứu ở đây có thể thông qua những tài liệu gốc
Luận án tiến sĩ sử học

TS. Nguyễn Lệ Nhung - 0912581997
www.vanthuluutru.com

88
với nhiều đặc điểm tin cậy để đối chiếu làm sáng tỏ những vấn đề còn tranh
luận trong lịch sử ĐCSVN.
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, tài liệu lưu trữ của Đảng chứa
đựng nhiều nội dung quan trọng của lịch sử ĐCSVN. Từ nguồn tài liệu Phông
Lưu trữ ĐCSVN, giới sử học có thể dễ dàng tìm thấy những tài liệu chính
thức và xác thực. Cũng từ nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ Đảng vốn gắn liền

với hoạt động cách mạng của Đảng và nhân dân, việc nghiên cứu có thể rút ra
những bài học kinh nghiệm bổ ích cho hiện tại và tương lai trên mọi lĩnh vực
hoạt động của Đảng, giúp cho các cơ quan lãnh đạo của Đảng kế thừa, bổ
sung và phát triển đường lối của Đảng cho phù hợp với yêu cầu của giai đoạn
mới.
Thực tế cho thấy rằng, nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ Đảng đã cung cấp
những tư liệu lịch sử đáng tin cậy, có hệ thống cho nghiên cứu lý luận, nghiên
cứu và biên soạn lịch sử Đảng, cho công tác tuyên truyền, giáo dục và bồi
dưỡng các thế hệ những tri thức và kinh nghiệm chính trị, về truyền thống và
đạo đức cách mạng, về lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và tinh
thần quốc tế trong sáng của những người cộng sản Việt Nam [49].
Có thể kể ra nhiều nội dung lịch sử cụ thể của lịch sử Đảng cần được
nghiên cứu từ nguồn sử liệu - tài liệu Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam
như sự hình thành các tổ chức tiền thân và sự ra đời của Đảng, sự lãnh đạo
của Đảng trong Cách mạng tháng Tám, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, quá trình hình thành và phát triển quan điểm lý luận của Đảng ta về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Dựa vào nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ Đảng
có thể tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo chung của Đảng trên các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, v.v...
Dưới đây là một vài dẫn chứng cụ thể:
* Về sự hình thành các tổ chức tiền thân và sự ra đời của Đảng có thể
nghiên cứu dựa vào một số tác phẩm của đồng chí Nguyễn ái Quốc, qua tài
liệu văn kiện của các tổ chức cách mạng của Đảng, qua tài liệu văn kiện của
Quốc tế Cộng sản có liên quan đến các tổ chức cộng sản ở Đông Dương
1
.
Nhóm tài liệu văn kiện này hiện được bảo quản trong Kho Lưu trữ TW Đảng
trong một sưu tập mang tên “Các tổ chức tiền thân của Đảng (1924-
1930)”[49] và sưu tập “Hội nghị thành lập Đảng (1930)”[50].
Những tác phẩm của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thời kỳ này gồm có bài

"Phát biểu tại phiên họp thứ 22 Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản" ngày

1

Hiện nay, những tài liệu văn kiện của các tổ chức tiền thân của Đảng đã được công bố trong “Văn
kiện Đảng toàn tập” tập I; tài liệu hội nghị thành lập Đảng công bố trong “Văn kiện Đảng toàn tập”
tập II. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. H., 1998. (Tác giả)

Luận án tiến sĩ sử học

TS. Nguyễn Lệ Nhung - 0912581997
www.vanthuluutru.com

89
01/7/1924; thư "Gửi Đoàn Chủ tịch QTCS về vấn đề Đông Dương"ngày
19/12/1925; cuốn “Đường Kách mệnh” năm 1927.
Nguồn tài liệu của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí hội) có khả năng cung cấp cho giới sử học
nhiều thông tin phản ánh từ hoàn cảnh ra đời đến những hoạt động cách mạng
của Hội [02].
Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
tháng 6/1925. Đây là một tổ chức “quá độ” đặt cơ sở cho một Đảng Cộng sản
về sau. Người xuất bản báo Thanh niên, huấn luyện, đào tạo cán bộ, tổ chức
tuyên truyền lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của chủ nghĩa Lênin và tư
tưởng cách mạng của Người vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước ở Việt Nam. Phong trào cách mạng của nhân dân ta ngày càng phát triển
mạnh và có ý thức vô sản rõ rệt.
Qua nội dung những tài liệu văn kiện của Hội như: án nghị quyết của
hội nghị trù bị toàn quốc đại biểu đại hội (23/1/1929), Tuyên ngôn của Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất Hội VNKMTN, Chính cương tối đê hạn độ

của Hội VNKMTN, Điều lệ của Hội VNKMTN, các nghị quyết của Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội VNKMTN và một số tài liệu liên quan
đến Hội đăng trên báo Thanh niên như Cách mạng, Nhân đức của Pháp,
Người An Nam ở Xiêm, v.v... chúng ta thấy được sự kết hợp ngày càng chặt
chẽ chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
sục sôi của nhân dân ta đã thúc đẩy sự ra đời của các tổ chức Đảng Cộng sản
ở Việt Nam. Tháng 3/1929, Chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam được thành
lập tại số nhà 5D phố Hàm Long, Hà Nội. Chi bộ đã chủ trương vận động
thành lập một Đảng Cộng sản thay tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Ngày 17/6/1929 tại nhà số 312 phố Khâm Thiên, Hà Nội, đại biểu các
tổ chức cơ sở đảng ở miền Bắc đã họp quyết định thành lập Đông Dương
Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ của Đảng, quyết định xuất
bản báo Búa Liềm - cơ quan ngôn luận của Đảng - và cử ra BCHTW của
Đảng.
Tài liệu của Đảng Cộng sản Đông Dương
2
(Đông Dương Cộng sản
Đảng) bao gồm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương, Điều lệ Đảng
Cộng sản, các Nghị quyết của TW, lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Đông
Dương ngày 12/12/1929, của TW Đảng Cộng sản Đông Dương gửi những
người cộng sản An Nam ở Tàu,... và một số tài liệu khác có liên quan như:
Thư của anh em cộng sản ở Tàu gửi cho các đồng chí cộng sản ở Bắc, Những

2

Xem Phụ lục số 1, 2, 3 trang 189, 190, 191- (bản chụp các tài liệu của Đông Dương Cộng sản
Đảng

Luận án tiến sĩ sử học


TS. Nguyễn Lệ Nhung - 0912581997
www.vanthuluutru.com

90
bức thư gửi các đồng chí, Về những nhiệm vụ trước mắt của những người
cộng sản Đông Dương, v.v... Ngoài ra, những bài báo đăng trên báo “Búa
Liềm”: Mặt trận thợ thuyền, Khẩu hiệu tranh đấu, Tiếng gọi của Quốc tế
Cộng sản, v. v... cũng cung cấp cho các nhà khoa học rất nhiều thông tin về
hoạt động của Đông Dương Cộng sản Đảng thời kỳ đầu thành lập.
An Nam Cộng sản đảng thành lập tháng 7/1929. Đảng này có một chi
bộ hoạt động ở Trung Quốc và phát triển thêm nhiều chi bộ ở Nam kỳ. Đảng
có cơ sở quần chúng ở xí nghiệp và trong giới thợ thủ công ở Sài Gòn và một
số tỉnh phía Nam. Tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động của An Nam
cộng sản Đảng bao gồm: Lời thông cáo giải thích cho đồng chí vì sao phải tổ
chức Đảng Cộng sản An Nam, Điều lệ của An Nam cộng sản Đảng, báo cáo
của Đảng Cộng sản An Nam vào cuối năm 1929 và những tài liệu văn kiện
liên quan khác [49].
Hoạt động của Tân Việt Cách mạng Đảng được phản ánh qua các tài
liệu như Đảng chương, Tờ thông đạt của Đảng bộ và báo cáo của đồng chí Hà
Huy Tập viết về lịch sử Tân Việt cách mạng Đảng [49]. Từ nguồn sử liệu này,
chúng ta thấy được sự ra đời của Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam
cộng sản Đảng có tác động mạnh mẽ đến sự phân hóa của đảng Tân Việt.
Những phần tử tiên tiến của Đảng đã tách ra thành lập các chi bộ cộng sản,
xúc tiến việc thành lập Đảng Cộng sản. Tháng 9/1929, họ tuyên bố thành lập
Đông Dương cộng sản liên đoàn.
Một số tài liệu của Quốc tế cộng sản có liên quan đến các tổ chức cộng
sản ở Đông Dương như: Ban thuộc địa, Những nhận xét về Nghị quyết thành
lập Đảng Cộng sản Đông Dương; Bản thảo luận tại phiên họp của Hội đồng
Ban Bí thư phương Đông ngày 18/10/1929 về việc thành lập Đảng Cộng sản

Đông Dương và các tài liệu khác có liên quan
3
. Tài liệu Hội nghị thành lập
Đảng phản ánh sự ra đời và hoạt động của Đảng trong cao trào cách mạng đầu
tiên của lịch sử Việt Nam hiện đại. Đó là các văn kiện: Chánh cương vắn tắt
của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của ĐCSVN, án nghị
quyết của TW toàn thể Đại hội về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm
vụ cần kíp của Đảng tháng 10/1930, Chỉ thị của TW Thường vụ về thành lập
“Hội Phản đế Đồng Minh”,... và một số tài liệu có liên quan như: Thư của
QTCS gửi những người cộng sản Đông Dương, Thư của Ban Phương Đông
gửi Đảng Cộng sản Đông Dương, Biên bản Hội nghị với các đại biểu Đông
Dương ngày 9/9/1930,...[74]. Nhóm tài liệu khác của QTCS và Đảng Cộng
sản Đông Dương cho phép xác định chính cương, đường lối, nhiệm vụ của

3

Xem Phụ lục 3, 4, 5, 7, 8, 9, 10 từ trang 191-199 - (bản chụp tài liệu của Đảng Cộng sản Đông
Dương và QTCS).

Luận án tiến sĩ sử học

TS. Nguyễn Lệ Nhung - 0912581997
www.vanthuluutru.com

91
Đảng thời kỳ đầu thành lập, cung cấp những thông tin về vai trò lịch sử của
các đồng chí Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng ta
4
.
Nhìn chung, những nhóm tài liệu văn kiện kể trên hiện có trong Kho

Lưu trữ Đảng có thể cung cấp nhiều thông tin phong phú về sự ra đời và
những hoạt động của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, về quá trình
hợp nhất các tổ chức Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, về tổ chức và
phương hướng hoạt động của các đoàn thể chính trị và Mặt trận dân tộc thống
nhất do Đảng lãnh đạo, về sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng đối với cao trào
công-nông chống đế quốc, phong kiến, tư sản đang diễn ra rộng khắp toàn
quốc, nhất là ở Nghệ An và Hà Tĩnh.
Nghiên cứu toàn diện và cụ thể qua các nguồn tài liệu khác nhau về lịch
sử các tổ chức tiền thân của Đảng và sự ra đời của ĐCSVN sẽ giúp cho chúng
ta thấy được một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, một giai
đoạn có tính chất bước ngoặt cơ bản của cách mạng Việt Nam, phản ánh tinh
thần độc lập tự chủ, cách mạng và sáng tạo của Đảng ta trong việc xác định
cương lĩnh, đường lối, chính sách và tổ chức sắp xếp lực lượng cách mạng ở
Việt Nam ngay từ khi Đảng mới thành lập.
* Về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước cũng được phản ánh đầy
đủ qua nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ Đảng [68-69-74-77]. Đó là các Cương
lĩnh chính trị của Đảng năm 1930, 1991, các tài liệu văn kiện Đại hội Đảng,
Hội nghị BCHTW, tài liệu các cấp ủy Đảng, các cơ quan Nhà nước từ TW
đến địa phương trong quá trình lãnh đạo và quản lý đất nước.
Như chúng ta đã biết, sự lãnh đạo của Đảng trong xã hội nói chung,
cũng như đối với Nhà nước nói riêng là yêu cầu khách quan, là điều kiện cốt
tử để giành thắng lợi cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Xét về mục đích thì
Đảng Cộng sản và Nhà nước XHCN có chung một mục đích là xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Nhưng về phương diện xã hội thì chức
năng của Đảng và Nhà nước có sự khác nhau: Đảng lãnh đạo chính trị đối với
Nhà nước và xã hội, tức là đề ra đường lối, chính sách đối với Nhà nước và xã
hội, lãnh đạo tổ chức mọi lực lượng cách mạng trong xã hội thực hiện phương
hướng, mục tiêu đã đề ra. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình bằng cách
đề ra Cương lĩnh, đường lối chiến lược, phương hướng phát triển kinh tế - xã
hội cũng như sách lược và quy định những mục tiêu phát triển của xã hội, còn

Nhà nước có chức năng là thể chế hóa bằng pháp luật quyền hạn, lợi ích,
nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp luật. [39,
117]

4

Xem Phụ lục 3, 4, 5, 7, 8, 9, 10 từ trang 191-199 - (bản chụp tài liệu của Đảng Cộng sản Đông
Dương và QTCS).

Luận án tiến sĩ sử học

TS. Nguyễn Lệ Nhung - 0912581997
www.vanthuluutru.com

92
Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với Nhà nước và các tổ chức đoàn thể
chính trị-xã hội là những bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị. Nhà nước
xã hội chủ nghĩa là phương tiện, là công cụ chủ yếu sắc bén để thông qua Nhà
nước Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Nhà nước
XHCN mà chúng ta đang xây dựng - Nhà nước pháp quyền Việt Nam - dựa
trên cơ sở mở rộng và tăng cường khối đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng. Đó là
Nhà nước của dân, do dân, vì dân, quản lý xã hội bằng luật pháp và dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Trong hệ thống chính trị của CNXH, Nhà nước giữ vị trí
trung tâm và đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện
tập trung ở Nhà nước, được thực hiện thông qua Nhà nước. Sức mạnh của
Đảng là sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, trong đó vị trí then chốt
là Nhà nước do Đảng lãnh đạo. Trong Cách mạng dân tộc dân chủ và Cách
mạng XHCN, ĐCSVN đóng vai trò là đội tiên phong chính trị của giai cấp
công nhân, đồng thời trở thành người lãnh đạo toàn xã hội.

Nhìn chung trong 70 năm qua, cương lĩnh, đường lối, chính sách của
Đảng đã cơ bản phản ánh được ý chí, nguyện vọng và những lợi ích chung
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Đảng lãnh đạo đất
nước bằng cách đề ra cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chính sách lớn trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây chính là những quyết định, những tư
tưởng chỉ đạo để Nhà nước vận dụng sáng tạo phù hợp với chức năng của
mình. Dựa trên Cương lĩnh chính trị tháng 10 năm 1930 và nhiều nghị quyết
quan trọng khác, Đảng đã lãnh đạo đất nước ta giành nhiều thắng lợi quyết
định trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, lập nên Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa, Nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam á. Sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945, đến năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của chế độ cộng hòa
dân chủ ở nước ta được chính Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì soạn thảo đã ra
đời dựa trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo nhạy bén của Đảng ta với việc xây dựng
một nền hành chính vững mạnh, có hiệu lực theo đường lối đã vạch ra của
Cương lĩnh chính trị.
Đến Cương lĩnh 1991, Đảng ta đã xác định: chủ nghĩa xã hội là một xã
hội con người được giải phóng, nhân dân lao động làm chủ đất nước, có một
nền kinh tế phát triển cao và nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,
mọi người có cuộc sống ấm no hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá
nhân, công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo, các dân tộc trong nước
đoàn kết, bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau, có quan hệ hữu nghị với các dân tộc
khác trên thế giới [42, 08 - 09]. Những luận điểm cơ bản và tư tưởng khoa
học, mục đích và nhiệm vụ, chính sách và biện pháp thực tiễn, phương hướng
hành động,... của Cương lĩnh chính là cơ sở cho việc ban hành các chính sách
xã hội và các chính sách kinh tế để thực hiện chức năng của Nhà nước, là
Luận án tiến sĩ sử học

TS. Nguyễn Lệ Nhung - 0912581997
www.vanthuluutru.com


93
những căn cứ và nhận thức để Nhà nước điều tiết các quan hệ xã hội, nhằm
thực hiện việc tổ chức và lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo định hướng
XHCN. Trong số những văn bản được thể chế hóa, trước tiên phải kể đến
Hiến pháp - đạo luật cơ bản, và các luật tổ chức Nhà nước, những nguyên tắc
và quy định về cơ cấu tổ chức, các thiết chế quyền lực, cơ chế hoạt động và
mối quan hệ giữa các thiết chế quyền lực ấy. Chúng tạo điều kiện để bộ máy
Nhà nước ta vận hành phù hợp với điều kiện của giai đoạn phát triển hiện tại
của đất nước và những thay đổi của tình hình quốc tế đang biến động.
Thành tựu của 10 năm đổi mới là thành quả phấn đấu của toàn dân, của
sự năng động trong điều hành của Nhà nước, đặc biệt phải nói đến sự đúng
đắn của đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI.
Nó đã tạo ra bước ngoặt đi lên của cả dân tộc. Nhìn lại thời gian hơn 10 năm
qua, các chủ trương của Đảng đã đi vào cuộc sống của nhân dân thông qua sự
quản lý của Nhà nước bằng chính các bộ luật, pháp lệnh, các nghị định,... và
sự điều hành ngày một năng động, có hiệu quả của chính các cơ quan Nhà
nước.
Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị năm 1988 về đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế nông nghiệp đã nhanh chóng đi vào cuộc sống. Chính sách kinh tế
nhiều thành phần được Đảng lãnh đạo thông qua Nhà nước đã khuyến khích,
tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển trong lĩnh vực nông
nghiệp, góp phần giải quyết tốt vấn đề nông thôn, nông dân, nông nghiệp.
Nghị quyết Đại hội VIII và các nghị quyết TW đã đề ra và khẳng định chủ
trương cải cách doanh nghiệp Nhà nước, trong đó việc thực hiện cổ phần hóa
một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là một trong những giải pháp để đổi mới
và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước [45, 35]. Trên cơ sở chủ trương
đó, Chính phủ đã có những Nghị định (Nghị định 28-CP, Nghị định 44-CP)
về cổ phần hóa, và hiện nay, việc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước
đang được tiếp tục thực hiện dưới sự chỉ đạo của Nhà nước.
Bây giờ chúng ta hãy xem xét, nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng trên

Mặt trận văn hóa-xã hội. Tài liệu lưu trữ của Đảng ghi lại những thành quả
lao động tạo nên những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của nhân dân ta
qua các thời kỳ lịch sử. Dấu ấn văn hóa ấy được phản ánh trong nguồn sử
liệu-tài liệu lưu trữ của Đảng rất đậm nét. Chúng có thể cung cấp những thông
tin về chủ trương, chính sách của Đảng trong việc phát triển nền văn hóa dân
tộc, về tình hình phát triển văn hóa nói chung và từng lĩnh vực văn hóa nói
riêng như giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn học, sử học, mỹ thuật, v.v...
Giới sử học Việt Nam vô cùng trân trọng bản Đề cương văn hóa của
Đảng năm 1943 (do đồng chí Trường Chinh khởi thảo)[74], coi đó là một
cống hiến to lớn cho lịch sử nước nhà. Ba phương châm Dân tộc, Khoa học và
Đại chúng mà Đề cương nêu ra luôn luôn là những điều chỉ dẫn có tính quy
Luận án tiến sĩ sử học

TS. Nguyễn Lệ Nhung - 0912581997
www.vanthuluutru.com

94
luật cho sự phát triển của nền văn hóa cách mạng nước ta. Thí dụ, tại kho lưu
trữ TW, các nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu nhiều vấn đề có liên quan trực
tiếp đến đời sống tinh thần và sức khỏe của nhân dân, về văn hóa, giáo dục,
đào tạo, về chính sách dân số, công tác thanh niên, v.v... trong “Hồ sơ về việc
thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư BCHTW Đảng khóa VII, 1993”,
trong đó thể hiện rõ mục tiêu của Đảng ta là “tất cả là cho con người, tất cả vì
hạnh phúc con người - mục tiêu phấn đấu cao nhất của chúng ta” [42, 88].
Nhiều Nghị quyết của TW và gần đây nhất là Nghị quyết Hội nghị
BCH TW lần thứ năm (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trên thực tế đã là cơ sở, là nền móng
cho việc xây dựng, ban hành luật pháp, ban hành các chính sách về văn hóa.
Để Nghị quyết của Đảng thực sự đi vào cuộc sống, Nhà nước đã và đang xây
dựng các luật, pháp lệnh, các văn bản pháp quy điều chỉnh các hoạt động trên

lĩnh vực văn hóa; bổ sung những luật đã ban hành cho phù hợp với tình hình
mới; nghiên cứu xây dựng Luật di sản văn hóa dân tộc, Luật quảng cáo, Pháp
lệnh thư viện, xây dựng chính sách kinh tế trong văn hóa, chính sách xã hội
hóa hoạt động văn hóa, v. v...
Như vậy, xét về phương diện xã hội, Đảng lãnh đạo về chính trị trong
mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và các tổ chức xã hội bằng đường lối và
các chính sách của Đảng. Đảng lãnh đạo, tổ chức mọi lực lượng cách mạng
trong xã hội thực hiện cho được đường lối, chủ trương mà Đảng đã đề ra. Còn
Nhà nước do Đảng lãnh đạo, chức năng của Nhà nước là thể chế hóa bằng
pháp luật quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh
tế, xã hội theo pháp luật [37, 117]. Trên cơ sở đó, Nhà nước quản lý, điều
hành mọi mặt đời sống xã hội. Uy tín và quyền lãnh đạo của Đảng được thực
hiện thông qua hoạt động của Nhà nước. Nhà nước mạnh, hoạt động có hiệu
quả là điều kiện đầu tiên để Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với
xã hội. Nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý của Nhà nước chính là nâng cao
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Như vậy là, đưa nghị quyết của
Đảng vào cuộc sống, chính là toàn bộ đường lối, chủ trương, chính sách lớn
của Đảng được thể chế hóa thành chủ trương, chính sách, hiến pháp và pháp
luật của Nhà nước. Đây cũng chính là quá trình thực hiện sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước XHCN của chúng ta. Nghiên cứu vấn đề này trong
lịch sử ĐCSVN từ nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ Đảng là góp phần làm rõ
thêm vị trí, vai trò của ĐCSVN trong hệ thống chính trị xã hội và không
ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
* Nhiều chính sách, đường lối, chủ trương chiến lược do Đảng đề ra
trong những thời điểm quan trọng của cách mạng Việt Nam được phản ánh rõ
nét qua nguồn sử liệu-tài liệu lưu trữ của Đảng: Nghiên cứu, tìm hiểu quan
điểm của Đảng ta về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam giúp chúng ta hiểu

×