Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

luận văn thạc sĩ Hiệu quả đầu tư tài chính của Tổng công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội - MIC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.08 KB, 46 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc
lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn
gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
HOÀNG VĂN DIỆN
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động bảo hiểm giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế không chỉ
góp phần phòng chống, hạn chế, khắc phục các thiệt hại, tổn thất cho nền kinh
tế mà còn đóng vai trò là một trong những tổ chức đầu tư lớn trên thị trường tài
chính. Thực tế kinh doanh bảo hiểm trên thế giới đã chứng tỏ rằng kết quả kinh
doanh của phần lớn các công ty bảo hiểm là nhờ vào hoạt động đầu tư. Hoạt
động đầu tư nói chung và đầu tư tài chính nói riêng có vai trò quan trọng, quyết
định sự tồn tại và phát triển của bất kỳ doanh nghiệp bảo hiểm nào.
Hoạt động kinh doanh của Tổng Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân
đội trong những năm qua đã có những bước phát triển vượt bậc. Tuy nhiên,
hoạt động đầu tư tài chính của Tổng Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân
đội chưa đạt hiệu quả cao do tỷ trọng đầu tư chưa cao, phạm vi quá bó hẹp, quá
thuần tuý, tính chuyên nghiệp trong quản lý chưa đồng bộ, mức độ tập trung
hóa, đa dạng hóa còn thấp. Khi nền kinh tế đang phát triển ngày một sôi động
đòi hỏi Tổng Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội cần phải nâng cao
hoàn thiện hóa đồng bộ các hoạt động đầu tư để đem lại khả năng cạnh tranh và
đứng vững trên thị trường. Để thực hiện được công việc này thì đòi hỏi phải có
những phân tích, đánh giá quá trình hoạt động đầu tư tài chính tại công ty. Do
vậy, tác giả chọn đề tài “Hiệu quả đầu tư tài chính của Tổng công ty Cổ
phần Bảo hiểm Quân đội - MIC” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây vấn đề hoạt động đầu tư tài chính trong doanh
nghiệp bảo hiểm đã được nghiên cứu và đề cập ở nhiều góc độ và khía cạnh


khác nhau. Một số chủ đề được nêu ra trong các công trình nghiên cứu vào
những năm gần đây như:
“Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại Tổng công ty Bảo Việt” của Thạc
sĩ Bùi Đức Thịnh (2001).
“Giải pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư tại các doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ ở Việt Nam” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh Tú (2008).
“Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại
Tổng công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam” của Thạc sĩ Ngô Thị Kim Liên
(2001).
Các công trình nghiên cứu trên đã nêu lên được thực trạng hoạt động đầu
tư tại các công ty bảo hiểm trong giai đoạn nghiên cứu và có nhiều đóng góp
quan trọng trong việc hoàn thiện hoạt động đầu tư tài chính tại các doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn khác nhau và mỗi công ty với những đặc
điểm riêng lại có những chiến lược kinh doanh riêng để phù hợp với tình hình
thực tế. Do đó tác giả chọn nghiên cứu tình hình đầu tư tài chính tại Tổng Tổng
Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hoạt động đầu
tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Nghiên cứu thực trạng hiệu quả hoạt động đầu tư tài chính của Tổng
Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội trên các phương diện huy động, tạo lập
và sử dụng vốn đầu tư.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư
tài chính của Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động đầu tư tài chính của
doanh nghiệp bảo hiểm. Về mặt lý luận là các vấn đề cơ bản về hoạt động đầu
tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm. Về mặt thực tiễn, phân tích và đánh
giá thực trạng hiệu quả hoạt động và đề xuất định hướng giải pháp nâng cao

hiệu quả hoạt động đầu tư tài chính tại của Tổng Tổng Công ty Cổ phần Bảo
hiểm Quân đội.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn hoạt động đầu tư tài chính của Tổng
Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội từ năm 2012 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp và sử
dụng các bảng số liệu để minh họa. Phương pháp nghiên cứu tình huống và
nghiên cứu điển hình lấy Tổng Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội làm
đối tượng nghiên cứu trực tiếp trên cơ sở so sánh với toàn hệ thống các doanh
nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn cũng vận dụng kết quả
các công trình khoa học liên quan để làm phong phú và sâu sắc hơn các cơ sở
khoa học và thực tiễn của đề tài.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn hệ thống hóa các quan niệm về đầu tư, từ đó làm rõ bản chất
hoạt động đầu tư tài chính tại các doanh nghiệp bảo hiểm. Luận văn đưa ra ba
nguyên tắc đầu tư cơ bản đối với doanh nghiệp bảo hiểm là: nguyên tắc an
toàn, nguyên tắc sinh lời và nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh toán thường
xuyên trên cơ sở phân tích nguồn vốn đầu tư.
Luận văn trình bày có hệ thống các hình thức đầu tư của doanh nghiệp bảo
hiểm: đầu tư tiền gửi, đầu tư chứng khoán, … Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt
động đầu tư và một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư của doanh
nghiệp bảo hiểm.
Bằng số liệu cụ thể, luận văn tập trung phân tích, đánh giá thực trạng hoạt
động đầu tư của MIC trong những năm gần đây trên các mặt: tổ chức hoạt động
đầu tư; nguồn vốn đầu tư; quy mô, cơ cấu danh mục đầu tư và hiệu quả hoạt
động đầu tư. Thông qua phân tích, luận văn rút ra một số thành quả đạt được và
những hạn chế cần khắc phục đối với hoạt động đầu tư của MIC.
Trên cơ sở đánh giá thị trường và các mục tiêu cơ bản đối với hoạt động
đầu tư của MIC, chương 3 của luận văn đã đưa ra một số giải pháp, kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại MIC trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động đầu tư tài chính của doanh
nghiệp bảo hiểm
Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động đầu tư tài chính của Tổng Tổng
Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội (MIC)
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tài chính của
Tổng Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DNBH Doanh nghiệp bảo hiểm
MIC Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm Quân đội
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
Bảng
Bảng
Bảng
Bảng
Bảng
Bảng
Bảng
Bảng
Bảng
Bảng
Bảng
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Số hiệu Tên sơ đồ Trang
Sơ đồ
Sơ đồ
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ

HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP BẢO
HIỂM
1.1. Khái quát chung về DNBH phi nhân thọ
1.1.1. Bảo hiểm và DNBH Phi nhân thọ
a) Bảo hiểm
Theo các chuyên gia bảo hiểm, một định nghĩa đầy đủ và thích hợp cho
Bảo hiểm phải bao gồm việc hình thành một quỹ tiền tệ (quỹ bảo hiểm), sự
chuyển giao rủi ro và kết hợp số đông các đơn vị, đối tượng riêng lẻ và độc lập,
chịu cùng rủi ro như nhau thành một nhóm tương tác.
Tuy nhiên, bảo hiểm do đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn của con người
vốn dĩ rất phong phú và biến động, nên cũng rất đa dạng. Rất khó tìm kiếm một
định nghĩa về bảo hiểm cho nhiều góc nhìn khác nhau, tương ứng với các lĩnh
vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội. Sau đây là một số trích dẫn:
Theo Tiến sỹ David Bland, “bảo hiểm là một hợp đồng theo đó một bên,
(gọi là doanh nghiệp bảo hiểm), bằng việc thu một khoản tiền (gọi là phí bảo
hiểm), cam kết thanh toán cho bên kia (gọi là người được bảo hiểm) một khoản
tiền, hoặc hiện vật tương đương với khoản tiền đó khi xảy ra một sự cố đi
ngược lại quyền lợi của người được bảo hiểm".
Theo Từ điển thuật ngữ kinh doanh bảo hiểm của Bảo Việt: “Bảo hiểm là
cơ chế chuyển giao theo hợp đồng gánh nặng hậu quả của một số rủi ro thuần
tuý bằng cách chia sẻ rủi ro cho nhiều người cùng gánh chịu”.
Theo Từ điển bảo hiểm Pháp - Việt, Nhà xuất bản Thống kê 1996: Bảo
hiểm là một nghiệp vụ mà theo đó, một bên là người được bảo hiểm chấp nhận
trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm hay khoản đóng góp cho chính mình hay
cho một người thứ ba khác để trong trường hợp rủi ro xảy ra, sẽ được trả một
khoản bồi thường từ một bên khác là người bảo hiểm, người chịu trách nhiệm
đối với toàn bộ rủi ro, đền bù những thiệt hại theo luật số lớn.
Theo Giáo trình Lý thuyết Bảo hiểm của Học viện Tài chính, “Bảo
hiểm là phương pháp chuyển giao rủi ro được thực hiện qua hợp đồng bảo
hiểm, trong đó bên mua bảo hiểm chấp nhận trả phí bảo hiểm và DNBH cam

kết bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
Sự khác nhau trong các quan niệm xuất phát từ việc nhìn nhận bảo hiểm ở
các góc độ và cách thức tiếp cận khác nhau. Bảo hiểm là một lĩnh vực rộng và
phức tạp hàm chứa yếu tố kinh doanh, pháp lý và kỹ thuật nghiệp vụ đặc trưng
nên rất khó tìm được một định nghĩa hoàn hào thể hiện được tất cả những khía
cạnh đó. Điều có thể chấp nhận được là xây dựng một khái niệm từ góc độ và
cách thức tiếp cận hữu ích cho mục đích nghiên cứu. Theo cách hiểu chung nhất,
bảo hiểm là một phương thức chuyển giao, phân tán rủi ro trên cơ sở quy luật số
đông, theo đó một bên (người tham gia bảo hiểm) nộp một khoản tiền nhất định
(được gọi là phí bảo hiểm) cho bên kia (DNBH) để đổi lấy lời hứa rằng khi rủi
ro/sự kiện bảo hiểm xảy ra, DNBH sẽ bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho
người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng bảo hiểm.
Khái niệm đưa ra ở đây muốn nhấn mạnh nguồn gốc ra đời như một loại
phương pháp chuyển giao rủi ro; đặc thù pháp lý: hợp đồng và các chủ thể đặc
trưng của quan hệ bảo hiểm.
b) Doanh nghiệp bảo hiểm
Hiện nay, hoạt động bảo hiểm ở Việt Nam tồn tại dưới 2 dạng: Hoạt động
bảo hiểm không mang tính kinh doanh (hay còn gọi là bảo hiểm xã hội - BHXH)
và hoạt động bảo hiểm mang tính kinh doanh. BHXH không loại trừ hoạt
động kinh doanh bảo hiểm mà cùng tồn tại để bổ sung cho nhau. Trong khi
BHXH mang lại sự bảo đảm cơ bản có tính đồng loạt cho một bộ phận nhất
định dân chúng trước một số rủi ro chung thì hoạt động kinh doanh bảo hiểm
cung cấp hàng loạt các sản phẩm bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng có
thể là cao hơn, đặc biệt hơn, rộng rãi hơn của các thành viên xã hội. Theo Luật
kinh doanh bảo hiểm (Điều 3, Chương 1) thì: “Kinh doanh bảo hiểm là hoạt
động của DNBH nhằm mục đích sinh lợi, theo đó DNBH chấp nhận rủi ro của
người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để
DNBH trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được
bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là hoạt động kinh doanh hết sức đặc thù,

bắt đầu xuất hiện ở nước ta vào năm 1993 sau khi có sự ra đời của Nghị định
100/1993/NĐ-CP. Hiện nay, loại hình kinh doanh này chịu sự quy định của Luật
số 24/2000/QH10 ngày 09/12/2000 về kinh doanh Bảo hiểm, Luật số
61/2010/QH12 ngày 24/11/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh
doanh Bảo hiểm số 24/2000/QH10 và các nghị định, thông tư quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành.
Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm được chia ra thành bảo hiểm nhân
thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm liên quan
tới sinh mạng con người bao gồm bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm
tử kỳ, bảo hiểm hỗn hợp Bảo hiểm phi nhân thọ liên quan đến các tổn thất về
tài sản và tai nạn con người, bao gồm bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại, bảo
hiểm hàng hóa vận chuyển, bảo hiểm hàng không, bảo hiểm xe cơ giới, bảo
hiểm cháy, nổ, bảo hiểm thânt àu và trách nhiệm dân sự chủ tàu DNBH phi
nhân thọ kinh doanh loại hình bảo hiểm phi nhân thọ.
Về mặt pháp lý, DNBH phi nhân thọ là doanh nghiệp được thành lập, tổ
chức và hoạt động theo quy định của luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định
khác của pháp luật có liên quan đến kinh doanh bảo hiểm. DNBH phi nhân thọ
do Bộ Tài chính cấp giấy phép thành lập và hoạt động, Cục quản lý và giám sát
bảo hiểm quản lý và giám sát hoạt động. Theo quy định tại Luật số
24/2010/QH, BNBH phi nhân thọ bao gồm: Công ty cổ phần bảo hiểm, Công ty
trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm, Hợp tác xã bảo hiểm, Tổ chức bảo hiểm tương
hỗ.
Về mặt kinh tế, DNBH phi nhân thọ huy động vốn bằng cách bán chứng
nhận bảo hiểm (hoạt động kinh doanh bảo hiểm) cho công chúng và sử dụng
nguồn vốn huy động được để đầu tư trên thị trường tài chính.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh
Theo điều 60 của Luật số 24/2000/QH10 quy định hoạt động của DNBH
phi nhân thọ bao gồm: Kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh Tái bảo hiểm; Đề
phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất; Giám định tổn thất; Đại lý giám định tổn thất,
xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn; Quản lý quỹ và đầu

tư vốn; Các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.
Trong đó, kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của DNBH nhằm mục đích
sinh lợi, theo đó DNBH chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở
bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để DNBH trả tiền bảo hiểm cho người
thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm.
Kinh doanh Tái bảo hiểm là hoạt động của DNBH nhằm mục đích sinh
lợi, theo đó DNBH nhận một khoản phí bảo hiểm của DNBH khác để cam kết
bồi thường cho các trách nhiệm đã nhận bảo hiểm. Kinh doanh Tái bảo hiểm
bao gồm:
+ Chuyển 1 phần trách nhiệm đã nhận bảo hiểm cho một hay nhiều DNBH
khác;
+ Nhận bảo hiểm lại một phần hay toàn bộ trách nhiệm mà DNBH khác
đã nhận bảo hiểm.
Cũng theo nghị định này, DNBH không được phép đồng thời kinh doanh
bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ, trừ trường hợp DNBH phi nhân
thọ kinh doanh dịch vụ bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tai nạn con người bổ trợ
Đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất
DNBH không chỉ có trách nhiệm bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo
hiểm do rủi ro, tai nạn bất ngờ gây ra nhằm giúp người bảo hiểm ổn định kinh
tế, khôi phục sản xuất và đời sống mà còn tiến hành các biện pháp đề phòng rủi
ro và tổn thất trước khi tai nạn xảy ra
Thông qua phân tích nguyên nhân của những rủi ro tai nạn bất ngờ,
DNBH rút ra được những biện pháp cần thiết để cùng khách hàng thực hiện
nhằm đề phòng tổn thất xảy ra.
Giám định tổn thất
Giám định tổn thất là nhiệm vụ, là một khâu quan trọng trong chu trình
hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Sau khi nhận được thông báo của người được
bảo hiểm về tai nạn, rủi ro xảy ra, giấy yêu cầu giám định và các giấy tờ khác
liên quan, DNBH phải cử giám định viên đến hiện trường cùng các thành viên

liên quan để xác định tính chất, nguyên nhân mức độ thiệt hại Điều quan
trọng của công tác giám định là xác định nguyên nhân rủi ro có thuộc phạm vi
bảo hiểm hay không và tổn thất thực tế là bao nhiêu để làm căn cứ bồi thường
Đại lý giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người
thứ ba bồi hoàn
DNBH không chỉ giám định tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm của mình
mà còn có thể làm đại lý giám định tổn thất cho DNBH khác
Căn cứ biên bản giám định, đối chiếu với hợp đồng bảo hiểm, doanh
nghiệp xem xét giải quyết bồi thường theo các nguyên tắc quy định. Giải quyết
bồi thường phải nhanh chóng, kịp thời, đúng thủ tục nhằm nhanh chóng giúp
người bị hại khắc phục hậu quả của rủi ro, tai nạn bất ngờ. Nếu có sự tranh
chấp giữa người được bảo hiểm và người bảo hiểm về số tiền bảo hiểm, việc
giải quyết sẽ được chuyển cho các cơ quan thẩm quyền theo luật định.
Quản lỹ quỹ và đầu tư vốn
Mục đích hoạt động kinh doanh bảo hiểm là lợi nhuận. Do đó, quản lý quỹ
bảo hiểm (phí bảo hiểm) và đầu tư vốn là hết sức quan trọng. Quản lý quỹ là
tức là quản lý thu chi đúng chế độ, thu đúng, thu đủ, triệt để khai thác các
nguồn thu, chi đúng chế độ kịp thời, tiết kiệm nhất là chi bồi thường, chi quản
lý Nguồn quỹ thu được chưa chi đến phải đem đầu tư sinh lời nhưng phải
đảm bảo vừa sinh lời cao, vừa đảm bảo không mất vốn.
Ngoài ra, doanh nghiệp bảo hiểm còn thực hiện hoạt động đầu tư và các
hoạt động tài chính khác như mua trái phiếu Chính phủ; mua cổ phiếu, trái
phiếu doanh nghiệp; kinh doanh bất động sản; góp vốn vào các doanh nghiệp
khác; cho vay theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng; gửi tiền tại các tổ
chức tín dụng.
Khác với các lĩnh vực kinh doanh khác, lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm phi
nhân thọ có những đặc trưng riêng như:
- Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình: nó là lời cam kết của DNBH
với người tham gia bảo hiểm, không giống với các sản phẩm hiện hữu hay các
dịch vụ quan sát được;

- Hoạt động kinh doanh có tính chất ngược (chu trình ngược) khi mà
doanh thu có trước (nguyên tắc ứng trước), chi phí bồi thường phát sinh sau.
- Hoạt động kinh doanh rủi ro: vừa có nghĩa DNBH dễ gặp rủi ro trong
kinh doanh do không lường trước được chi phí, vừa có nghĩa DNBH kinh
doanh dựa trên những tổn thất, tai nạn mà phía khách hàng sẽ gặp phải trong
tương lai.
- Chi phí kinh doanh có thể cao gấp nhiều lần (tùy thuộc vào tỷ lệ phí thỏa
thuận giữa hai bên hoặc được Nhà nước quy định bắt buộc). Ví dụ như trong
nghiệp vụ thân tàu, một mức phí vài trăm triệu cho một năm nhưng tổn thất có
thể lên tới hàng trăm tỷ đồng.
Đặc điểm hoạt động kinh doanh đòi hỏi DNBH phải theo dõi và quản lý
riêng đối với từng hoạt động và lĩnh vực kinh doanh, cụ thể lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm gốc, kinh doanh tái bảo hiểm, hoạt động đầu tư, hoạt động
khác để đảm bảo nguyên tắc bảo toàn vốn trong kinh doanh cũng như cung
cấp thông tin cho các nhà quản trị ra quyết định.
1.1.3. Đặc điểm tài chính
a) Vốn điều lệ, vốn pháp định
Theo quy định của Nghị định số 46/2007/NĐ-CP, DNBH tự chủ về tài
chính, tự chịu trách nhiệm về quản lý giám sát hoạt động tài chính, kết quả hoạt
động kinh doanh và thực hiện các nghĩa vụ, cam kết của mình theo quy định
của pháp luật. Theo điều 4 của Nghị định số 46/2007/NĐ-CP, mức vốn pháp
định của DNBH được quy định như sau:
- Kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ: 300 tỷ đồng;
- Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ: 600 tỷ đồng.
- Mức vốn pháp định của DN môi giới bảo hiểm: 4.000 tỷ đồng.
Sau khi các thành viên, cổ đông góp hoặc cam kết góp vốn trong một thời
hạn nhất định, khoản vốn đó chính là vốn điều lệ của DNBH, khoản vốn này sẽ
được ghi vào điều lệ DNBH. Trong quá trình hoạt động, DNBH, phải luôn duy
trì mức vốn điều lệ đã góp không thấp hơn mức vốn pháp định và phải được bổ
sung tương xứng với nội dung, phạm vi và địa bàn hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp. Nếu trong trường hợp thay đổi vốn điều lệ, DNBH phải có đơn
đề nghị và văn bản giải trình gửi Bộ Tài chính. Đối với trường hợp DNBH
được thành lập, tổ chức và hoạt động trước ngày Nghị định này có hiệu lực, có
số vốn điều lệ thấp hơn mức vốn pháp định quy định như trên thì trong thời hạn
3 năm, kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực, DNBH phải bổ sung đủ vốn điều
lệ theo quy định.
b) Dự phòng nghiệp vụ
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là hoạt động kinh doanh hết sức đặc thù:
kinh doanh rủi ro, chính vì vậy, Nhà nước quan tâm, bảo vệ đối tượng mua bảo
hiểm. Bộ Tài chính quy định doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập dự phòng
nghiệp vụ theo từng nghiệp vụ bảo hiểm đối với phần trách nhiệm giữ lại của
doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, dự
phòng nghiệp vụ bao gồm: dự phòng phí, dự phòng bồi thường và dự phòng
dao động lớn. Trong đó nội dung của các khoản dự phòng được quy định như
sau:
- Dự phòng phí chưa được hưởng, được sử dụng để bồi thường cho
trách nhiệm sẽ phát sinh trong thời gian còn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm
trong năm tiếp theo;
- Dự phòng bồi thường cho khiếu nại chưa giải quyết, được sử dụng để
bồi thường cho các tổn thất đã phát sinh thuộc trách nhiệm bảo hiểm chưa
khiếu nại hoặc đã khiếu nại nhưng đến cuối năm tài chính chưa được giải
quyết;
- Dự phòng bồi thường cho các dao động lớn về tổn thất, được sử dụng
để bồi thường khi có dao động lớn về tổn thất hoặc tổn thất lớn xảy ra mà tổng
phí bảo hiểm giữ lại trong năm tài chính sau khi đã trích lập dự phòng phí chưa
được hưởng và dự phòng bồi thường cho khiếu nại chưa giải quyết không đủ
để chi trả tiền bồi thường đối với phần trách nhiệm giữ lại của DNBH.
c) Đầu tư vốn
Việc trích lập nguồn dự phòng vì vậy nguồn vốn đầu tư của DNBH ngoài
nguồn vốn chủ sở hữu, các nguồn hợp pháp khác theo quy định của pháp luật

còn có thêm nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
Theo đó, việc đầu tư từ nguồn vốn chủ sở hữu phải bảo đảm an toàn, hiệu
quả và tính thanh khoản theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. DNBH được phép đầu
tư ra nước ngoài theo quy định của pháp luật đối với phần vốn chủ sở hữu vượt
quá mức vốn pháp định hoặc biên khả năng thanh toán tối thiểu, tùy theo số nào
lớn hơn. Còn nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ BH của DNBH là tổng
dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm trừ các khoản tiền mà DNBH dùng để bồi
thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với BH phi nhân thọ (không thấp
hơn 25% tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và được gửi tại các tổ chức tín
dụng hoạt động tại Việt Nam.
d) Biên khả năng thanh toán
KDBH là hoạt động mang tính đặc thù với “Chu trình sản xuất ngược”,
trong đó DNBH thu phí bảo hiểm trước, tiến hành bồi thường hoặc trả tiền bảo
hiểm sau khi có sự kiện BH xảy ra. Cho nên, hơn bất cứ DN nào khác, DNBH
phải thật sự an toàn, phải đảm bảo được khả năng chi trả khi tổn thất xảy ra. Sự
an toàn của các DNBH được đo lường thông qua khả năng thanh toán. Để đảm
bảo được khả năng thanh toán của DNBH, DNBH phải luôn duy trì khả năng
thanh toán trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm. DNBH được
coi là có đủ khả năng thanh toán khi đã trích lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ
bảo hiểm và có biên khả năng thanh toán không thấp hơn biên khả năng thanh
toán tối thiểu. Trong đó, biên khả năng thanh toán tối thiểu của doanh nghiệp
kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ là số lớn hơn của một trong hai kết quả tính
toán sau:
- 25% tổng phí bảo hiểm thực giữ lại tại thời điểm tính biên khả năng
thanh toán;
- 12,5% của tổng phí bảo hiểm gốc và phí nhận Tái bảo hiểm tại thời
điểm tính biên khả năng thanh toán.
Sau khi đã tính biên khả năng thanh toán tối thiểu, DNBH tính biên khả
năng thanh toán của DNBH để tiến hành so sánh. Biên khả năng thanh toán của
DNBH là phần chênh lệch giữa giá trị tài sản và các khoản nợ phải trả của

DNBH tại thời điểm tính biên khả năng thanh toán. Tuy nhiên, các tài sản tính
biên khả năng thanh toán của DNBH phải bảo đảm tính thanh khoản (tức là
phải tính đến các tài sản bị loại trừ toàn bộ hoặc một phần thực hiện theo
hướng dẫn của Bộ Tài chính). DNBH bị coi là có nguy cơ mất khả năng thanh
toán khi biên khả năng thanh toán của DNBH thấp hơn biên khả năng thanh
toán tối thiểu. Khi đó, DNBH phải chủ động thực hiện ngay các biện pháp tự
khôi phục khả năng thanh toán đồng thời báo cáo Bộ Tài chính về thực trạng
tài chính, nguyên nhân dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán và phương án
khôi phục khả năng thanh toán. Trong trường hợp DNBH không tự khôi phục
được khả năng thanh toán thì Bộ Tài chính có quyền yêu cầu DNBH thực hiện
khôi phục khả năng thanh toán, gồm những biện pháp sau: bổ sung nguồn vốn
chủ sở hữu; TBH; thu hẹp nội dung, phạm vi và địa bàn hoạt động; đình chỉ
một phần hoặc toàn bộ hoạt động; củng cố tổ chức bộ máy và thay đổi người
quản trị, điều hành của DN; yêu cầu chuyển giao hợp đồng bảo hiểm; các biện
pháp khác. Trong trường hợp DNBH không khôi phục được khả năng thanh
toán theo yêu cầu của Bộ Tài chính, DNBH sẽ bị đặt vào tình trạng kiểm soát
đặc biệt.
e) Doanh thu, chi phí, kết quả
Với đặc điểm tổ chức hoạt động của DNBH đã trình bày ở trên, doanh thu
của DNBH bao gồm thu từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm, thu từ hoạt động
đầu tư tài chính, thu nhập hoạt động khác.
Doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm là số tiền phải thu phát sinh
trong kỳ sau khi đã trừ các khoản phải chi để giảm thu phát sinh trong kỳ (bao
gồm doanh thu kinh doanh bảo hiểm gốc và tái bảo hiểm): Số tiền phải thu phát
sinh trong kỳ bao gồm: thu phí bảo hiểm gốc, thu phí nhận Tái bảo hiểm, thu
hoa hồng nhượng Tái bảo hiểm, thu phí về dịch vụ đại lý bao gồm giám định
tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn, xử lý hàng
bồi thường 100%, thu phí giám định tổn thất không kể giám định hộ giữa các
đơn vị thành viên hạch toán nội bộ trong cùng một DNBH hạch toán độc lập.
Các khoản phải chi để giảm thu phát sinh trong kỳ bao gồm: hoàn phí bảo

hiểm, giảm phí bảo hiểm, phí nhượng Tái bảo hiểm, hoàn giảm phí nhận Tái
bảo hiểm, hoàn giảm hoa hồng nhượng hoa hồng nhượng Tái bảo hiểm.
Cũng như một số lĩnh vực kinh doanh khác như viễn thông, ngân hàng,
việc quản lý doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm vô cùng phức tạp do
tính chất bán lẻ nhiều. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội bảo hiểm thì bình
quân doanh thu mỗi hợp đồng bảo hiểm, đơn bảo hiểm, giấy chứng nhận bảo
hiểm là 1 triệu đồng, như vậy, để đạt được doanh thu 1.000 tỷ đồng, DNBH
phải quản lý tới 1.000.000 hợp đồng bảo hiểm.
Doanh thu hoạt động tài chính: thu hoạt động đầu tư, thu từ hoạt động
mua bán chứng khoán, thu lãi trên số tiền ký quỹ, thu cho thuê tài sản, thu khác
theo quy định của pháp luật.
Thu nhập hoạt động khác: thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định, các
khoản nợ khó đòi đã xoá nay thu hồi được, thu khác theo quy định của pháp
luật.
Theo điều số 21 nghị định này thì chi phí của DNBH là số tiền phải chi,
phải trích phát sinh trong kỳ bao gồm: chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm,
chi phí hoạt động tài chính và chi phí hoạt động khác.
Trong đó chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm là số tiền phải chi, phải
trích phát sinh trong kỳ sau khi đã trừ các khoản phải thu để giảm chi phát sinh
trong kỳ, bao gồm chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc và kinh doanh
tái bảo hiểm. Chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc gồm bồi thường bảo
hiểm gốc đối với bảo hiểm phi nhân thọ; trích lập dự phòng nghiệp vụ; chi hoa
hồng bảo hiểm; chi giám định tổn thất; chi phí về dịch vụ đại lý bao gồm giám
định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn; chi xử
lý hàng bồi thường 100%; chi quản lý đại lý bảo hiểm; chi đề phòng, hạn chế
rủi ro, tổn thất; chi đánh giá rủi ro của đối tượng bảo hiểm; các khoản chi, trích
khác theo quy định của pháp luật. Các khoản phải thu để giảm chi phát sinh
trong kỳ bao gồm: thu đòi người thứ ba bồi hoàn; thu hàng đã xử lý, bồi thường
100%. Chi phí hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm bao gồm chi bồi thường
nhận Tái bảo hiểm, thu bồi thường nhượng Tái bảo hiểm

Việc theo dõi và quản lý chi phí kinh doanh bảo hiểm vô cùng phức tạp do
tính chất nhỏ lẻ nhưng khối lượng lớn. Riêng nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới
chiếm khoàng 40% - 50% doanh thu, tỷ lệ bồi thường khoảng 50%/doanh thu,
trong đó có khoảng 7,5 triệu xe mô tô, xe máy và 1,4 triệu xe ô tô đã tham gia
bảo hiểm. Mỗi năm, toàn thị trường bảo hiểm phi nhân thọ giải quyết trên
300.000 vụ bồi thường với số tiền bồi thường trên 3.000 tỷ đồng. Điều này đòi
hỏi công tác quản trị rất tốn kém thời gian và công sức.
Chi phí hoạt động tài chính: chi phí hoạt động tài chính của DNBH bao
gồm 5 loại chi phí sau: chi phí hoạt động đầu tư; thu nhập đầu tư phải trả cho
bên mua bảo hiểm theo cam kết tại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ; chi phí cho
thuê tài sản; chi thủ tục phí ngân hàng, trả lãi tiền vay; chi, trích khác theo quy
định của pháp luật.
Chi phí hoạt động khác: chi nhượng bán, thanh lý tài sản cố định; chi phí
cho việc thu hồi khoản nợ phải thu khó đòi đã xoá nay thu hồi được; chi, trích
khác theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào đặc điểm doanh thu và chi phí của DNBH, kết quả kinh doanh
của DNBH bao gồm kết quả của ba hoạt động trên: lợi nhuận hoạt động kinh
doanh bảo hiểm, lợi nhuận hoạt động đầu tư tài chính và lợi nhuận hoạt động
khác. Sau khi tính được kết quả kinh doanh bảo hiểm, DNBH phải làm đầy đủ
nghĩa vụ với ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật như: nộp thuế
Thu nhập doanh nghiệp theo luật định, trích lập quỹ dự trữ bắt buộc (được tính
bằng 5% lợi nhuận sau thuế, tối đa có thể bằng 10% mức vốn điều lệ của doanh
nghiệp), sau đó DNBH mới được phân phối lợi nhuận còn lại theo quy định của
pháp luật.
DNBH phải thực hiện công tác quản trị tài chính theo các nguyên tắc,
chuẩn mực do Bộ Tài chính quy định đồng thời DNBH, phải xây dựng, triển
khai và giám sát việc thực hiện quy chế tài chính, quy chế đầu tư, quy chế kiểm
soát và kiểm toán nội bộ và các quy trình thủ tục tương ứng.
Tóm lại, có thể nói những đặc điểm hoạt động kinh doanh và đặc điểm tài
chính của DNBH hết sức phức tạp với đặc thù “kinh doanh rủi ro” và “sản xuất

ngược” (doanh thu có trước, chi phí có sau), ta có thể đúc kết được những đặc
điểm đặc trưng của Công ty bảo hiểm như sau:
Thứ nhất, công ty bảo hiểm là doanh nghiệp chuyên ngành.
Thứ hai, công ty bảo hiểm là trung gian tài chính.
Thứ ba, công ty bảo hiểm thường không vay vốn phục vụ kinh doanh bảo
hiểm.
Thứ tư, hoạt động của công ty bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong nền
kinh tế.
Thứ năm, hoạt động của công ty bảo hiểm được Nhà nước kiểm soát chặt
chẽ.
1.2. Tổng quan về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm đầu tư
Đầu tư theo nghĩa chung nhất là việc bỏ vốn hay chi dùng vốn cùng với
các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm thu
về các kết quả có lợi trong tương lai. Mục đích cuối cùng của các hoạt động
đầu tư là thu được những kết quả nhất định lớn hơn so với nguồn lực đã bỏ ra.
1.2.2. Phân loại hoạt động đầu tư
Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể
phân loại hoạt động đầu tư thành: đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và đầu tư
phát triển.
Đầu tư tài chính: Là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay
hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất cố định trước hoặc lãi suất tùy
thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty phát hành.
Đầu tư thương mại: Là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để
mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch
giá khi mua và bán.
Đầu tư phát triển: Là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn
lực vật chất, nguồn lực lao động, trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa, cấu
trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng, bồi dưỡng đào tạo nguồn
nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các

tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo
tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
1.2.3. Đặc điểm của hoạt động đầu tư tài chính
Hoạt động đầu tư tài chính không tạo ra sản phẩm mới cho nền kinh tế mà
chỉ làm tăng giá trị tài sản chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. Đầu tư tài chính
có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các trung gian tài chính.
1.2.4. Vai trò của hoạt động đầu tư tài chính
Vai trò nổi bật nhất của hoạt động đầu tư tài chính là hoạt động đầu tư
cung cấp một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Với sự hoạt động
của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển một cách dễ
dàng, khi cần có thể rút ra nhanh chóng thông qua việc chuyển nhượng, mua
bán các công cụ tài chính trên thị trường tài chính, điều này đã khuyến khích
người có tiền bỏ ra để đầu tư.
1.3. Hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
1.3.1. Đặc điểm hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm được hiểu là hành động chỉ
dùng vốn nhàn rỗi từ vốn chủ sở hữu và phí bảo hiểm thu được nhằm mục đích
thu lợi nhuận trong tương lai cho doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư được phân
thành hai loại chính là đầu tư trực tiếp và đầu tư tài chính. Trong khuôn khổ
của luận văn, tác giả chỉ đề cập nghiên cứu đến hoạt động đầu tư tài chính của
doanh nghiệp bảo hiểm.
Hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm mang những đặc
điểm chung của quá trình đầu tư. Tuy nhiên do đặc thù của hoạt động kinh
doanh bảo hiểm, hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm có
những đặc điểm riêng:
Thứ nhất, nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ bao gồm
những nguồn vốn hình thành từ vốn chủ sở hữu và nguồn vốn nhàn rỗi từ quỹ
dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
Thứ hai, doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu sự giám sát chặt chẽ của Nhà
nước bằng hệ thống những văn bản quy định hình thức và tài sản được phép

đầu tư.
Thứ ba, nguyên tắc đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm ngoài việc đảm
bảo những nguyên tắc chung còn phải tuân thủ những nguyên tắc riêng.
1.3.2. Nguyên tắc đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm
Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm được ví như một "cánh tay"
của doanh nghiệp bảo hiểm cùng với "cánh tay" kinh doanh trực tiếp. Trong
môi trường cạnh tranh quyết liệt để đảm bảo đầu tư an toàn và hiệu quả doanh
nghiệp bảo hiểm cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản sau :
Nguyên tắc an toàn
Nguyên tắc này được đặt ra nhằm hạn chế tối đa rủi ro trong đầu và bảo
toàn nguồn vốn sử dụng.
Hoạt động đầu tư luôn đứng trước những rủi ro như :
Rủi ro về lãi suất
Rủi ro tín dụng
Rủi ro thị trường
Rủi ro tiền tệ
Rủi ro biến động giá trong đầu tư chứng khoán .
Khi tiến hành hoạt động đầu tư, các doanh nghiệp bảo hiểm cần chú ý đến
tất cả những rủi ro trên để hoạt động đầu tư được hiệu quả hơn.
Trước những rủi ro đó việc đảm bảo an toàn vốn là rất quan trọng , nó
đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm, tạo lòng tin cho
khách hàng từ đó tăng thêm uy tín cho doanh nghiệp. Nguyên tắc này yêu cầu
doanh nghiệp bảo hiểm phải đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình nhằm
phân tán và giảm thiểu những rủi ro có thể gặp phải.
Nguyên tắc an toàn được pháp luật thể chế bằng việc quy định danh mục
đầu tư với những lĩnh vực có mức độ rủi ro đầu tư thấp.Cụ thể như sau :
Điều 98,Luật kinh doanh bảo hiểm ban hành năm 2000 quy định doanh
nghiệp bảo hiểm được đầu tư vào những lĩnh vực sau:
Mua trái phiếu chính phủ;
Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp;

Kinh doanh bất động sản;
Góp vốn vào các doanh nghiệp khác;
Cho vay theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng;
Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng
(trích điều 98-Luật kinh doanh bảo hiểm)
Nguyên tắc sinh lời
Một trong những mục tiêu quan trọng của hoạt động đầu tư là tạo ra lợi
nhuận. Lợi nhuận cao là mục tiêu của tất cả mọi doanh nghiệp khi tham gia
kinh doanh trên thị trường. Với doanh nghiệp bảo hiểm, lợi nhuận là rất cần
thiết giúp doanh nghiệp tăng cường sức mạnh tài chính, đứng vững trong cạnh
tranh và thực hiện các chiến lược của mình. Lợi nhuận tạo ra từ hoạt động đầu
tư sẽ giúp doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện giảm phí và mở rộng phạm vi
bảo hiểm.
Tóm lại đây là kết quả cuối cùng mà doanh nghiệp bảo hiểm theo đuổi .
Tuy nhiên, muốn thu được tỷ suất lợi nhuận cao thì rủi ro khi đầu tư cũng tăng
theo. Vì vậy nhà quản lý đầu tư cần nghiên cứu sao cho hoạt động đầu tư vừa
đảm bảo nguyên tắc an toàn lại vừa đem lại mức lợi nhuận như mong muốn.
Nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên
Khả năng thanh toán là khả năng mà doanh nghiệp bảo hiểm có thể sử
dụng các tài sản của mình để đáp ứng các trách nhiệm thanh toán đã đến hạn.
Do các khiếu nại của các DNBH rất khó dự đoán nên họ phải giữ một tỷ lệ đầu
tư nhất định vào các hạng mục đầu tư có tính thanh khoản cao để đảm bảo
thanh toán ngay khi cần thiết.
Song song với mục tiêu lợi nhuận là mục tiêu đảm bảo khả năng thanh
toán.Thực tế hai mục tiêu này thường có sự đánh đổi lẫn nhau: Khi doanh
nghiệp bảo hiểm muốn tăng lợi nhuận thì phải chấp nhận tăng khả năng rủi ro,
nếu rủi ro thực tế xảy ra thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp sẽ bị đe doạ.
Do đó việc đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm bảo có tính thanh
khoản hợp lý vì doanh nghiệp bảo hiểm có thể phải thanh toán cho khách hàng
bất kỳ lúc nào khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra.

Tất cả các nguyên tắc đầu tư cần được áp dụng một cách linh hoạt tuỳ
thuộc vốn đầu tư được hình thành từ nguồn nào.
Đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm từ các nguồn vốn nợ (như các quĩ Dự
phòng nghiệp vụ ) phải tuân thủ hết sức nghiêm ngặt các nguyên tắc đầu tư
trên. Bởi vì đây không phải là tiền của doanh nghiệp bảo hiểm mà là khoản nợ
của doanh nghiệp đối với khách hàng.
Các nguyên tắc đầu tư trên đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
cần đa dạng hoá các hạng mục đầu tư của mình, có chiến lược đầu tư thích hợp
với quy mô của doanh nghiệp cũng như phù hợp với điều kiện thị trường.
1.3.3. Vai trò của hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo
hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm không chỉ có nhiệm vụ thu chi quỹ tài chính bảo
hiểm mà còn phải phát triển quỹ tài chính này. Đầu tư tài chính nguồn vốn
nhàn rỗi có ý nghĩa quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp
bảo hiểm. Đầu tư có hiệu quả chính là phát triển quỹ tài chính của DNBH.
Hoạt động đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tài chính và khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường. Tỷ suất lợi nhuận
đầu tư cao sẽ giúp doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện giảm phí bảo hiểm, từ
đó tạo lợi thế so với đối thủ cạnh tranh.
Chiến lược thiết kế và bán sản phẩm của doanh nghiệp cũng bị chi phối
bởi hoạt động đầu tư thông qua việc định giá các sản phẩm bảo hiểm, mở rộng
phạm vi trách nhiệm cũng như tăng thêm quyền lợi cho khách hàng.
Hoạt động đầu tư đóng góp vào sự tăng trưởng thu nhập và lợi nhuận của
của doanh nghiệp bảo hiểm, đồng thời còn giúp các doanh nghiệp bảo hiểm bù
đắp sự mất giá của đồng tiền, bảo toàn quỹ tài chính bảo hiểm trước rủi ro lạm
phát .
Hoạt động đầu tư ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp bảo hiểm. Tỷ suất lợi nhuận đầu tư cao sẽ giúp doanh nghiệp bảo hiểm
có điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh, đóng góp quan trọng vào sự tăng
trưởng thu nhập và lợi nhuận của doanh nghiệp bảo hiểm, giúp mở rộng quy

mô doanh nghiệp, tăng cổ tức cho cổ đông, tăng quỹ phúc lợi và thu nhập cho
người lao động. Đối với xã hội, vai trò của hoạt động đầu tư được thể hiện rõ
nét nhất thông qua vị trí của doanh nghiệp bảo hiểm trong cấu trúc của hệ
thống thị trường tài chính. Ngoài ra, hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp
bảo hiểm còn có tác động không nhỏ đến sự phát triển của các ngành, các lĩnh
vực trong nền kinh tế, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, góp phần ổn
định xã hội, tăng thu cho ngân sách nhà nước và tăng tích lũy cho nền kinh tế

×