Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Chế độ sở hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.1 KB, 11 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khi ra đời cho đến nay, các quan hệ kinh tế luôn là đối tượng điều chỉnh của
pháp luật nói chung và luật Hiến pháp nói riêng. Một trong những vấn đề cơ bản của chế
định về chế định kinh tế là vấn đề sở hữu được xác định trong Hiến pháp năm của các
nước. Đối với nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vấn đề sở hữu đã được quy
định trong các bản hiến pháp và ngày càng được hoàn thiện hơn để đáp ứng mục đích phát
triển kinh tế của đất nước trong từng giai đoạn.

II. NỘI DUNG:
1.Khái niệm sở hữu:
Sở hữu theo nghĩa hẹp được hiểu là quan hệ giữa người với người về tư liệu sản xuất (ở
trạng thái tĩnh). Với cách hiểu như thế này, sở hữu chỉ là đối tượng điều chỉnh của một chế
định pháp luật chuyên ngành.
Hiểu theo nghĩa rộng thì sở hữu là yếu tố cơ bản trải lên toàn bộ quan hệ sản xuất, bao gồm
không chỉ quan hệ giữa người với người về tư liệu sản xuất mà cả quan hệ giữa họ về mặt
tổ chức sản xuất và chi phối đối với lợi ích kinh tế do sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất tạo
ra (ở tạng thái chiếm hữu). Với cách hiểu này, sở hữu phải là đối tượng điều chỉnh của cả
hệ thống pháp luật thống nhất và đồng bộ.
2. Chế độ sở hữu theo Hiến pháp năm 1992:
Trong Hiến pháp năm 1946, Nhà nước ta chưa xác định các hình thức sở hữu trong nền
kinh tế quốc dân. Đến Hiến pháp năm 1959, lần đầu tiên các hình thức sở hữu chủ yếu của
nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác định tại Điều 11 bao gồm: hình
thức sở hữu toàn dân, hình thức sở hữu tập thể, hình thức sở hữu của người lao động riêng
lẻ và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc. Trong một thời gian dài, nhà nước ta lấy
việc xoá bỏ sở hữu tư nhân làm thước đo chủ yếu để đánh giá mức độ chín muồi của Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhà nước ta thực hiện quốc hữu hoá ruộng đất, vì vậy, Hiến
pháp năm 1980 chỉ ghi nhận hai hình thức sở hữu chủ yếu là: Sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể. Còn các thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, dựa trên sở hữu tư nhân
chưa được ghi nhận trong Hiến pháp năm (Điều 18).
Với công cuộc đổi mới do Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986)
khởi xướng, nhà nước nhận thức được rằng sự tồn tại của hình thức sở hữu, trong đó có


hình thức sở hữu tư nhân là khách quan, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất của nước ta trong giai đoạn này. Thực tiễn phát triển kinh tế ở nước ta cũng chứng
minh trong điều kiện nền kinh tế còn lạc hậu, lực lượng sản xuất còn yếu kém mà chủ
trương phát triển của sở hữu toàn dân thuần khiết thì không những kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất mà sở hữu toàn dân cũng bị kìm hãm trong vị trí độc quyền của nó.
Vì vậy, thừa nhận và bảo hộ sự tồn tại của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất chẳng
những giải phóng được năng lực sản xuất to lớn mà còn hỗ trợ, bổ sung và tạo môi trường
cho các hình thức sở hữu cạnh tranh lành mạnh.
Thể chế hoá đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta, Hiến pháp năm 1992 đã thừa nhận
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dựa trên nhiều hình thức sở hữu: Sở hữu toàn dân,
sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng,
được quy định cụ thể tại Điều 15:
“Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh
doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.”
a) Sở hữu toàn dân:
Trước hết, sở hữu toàn dân là sở hữu trong đó toàn thể nhân dân là chủ sở hữu đối với tài
sản. Tuy nhiên, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người đại diện cho nhân
dân nên sở hữu toàn dân ở đây còn được hiểu là sở hữu nhà nước. Vì bản chất giai cấp của
Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân lao động nên những gì thuộc sở hữu nhà nước đều
được sử dụng vào mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân lao động.
• Chủ thể của sở hữu Nhà nước:
Vì Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đại diện chủ sở hữu đối với tài sản
thuộc sở hữu toàn dân nên Nhà nước là chủ thể duy nhất của sở hữu toàn dân. Ở đây, nhà
nước thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân bao nhiêu thì thẩm quyền đại diện cho
toàn dân thực hiện quyền sở hữu toàn dân càng lớn bấy nhiêu. Với tư cách như vậy, chỉ có
nhà nước mới có thẩm quyền định đoạt các tài sản của sở hữu toàn dân và phải chịu trách

nhiệm trước nhân dân về tài sản đó.
Nhà nước giao vốn, các tư liệu sản xuất, các phương tiện làm việc,… cho các cơ quan Nhà
nước, các tổ chức xã hội và công dân (chủ thể) để quản lý, sử dụng. Nhà nước chỉ giao
quyền sử dụng chứ không giao quyền sở hữu cho các chủ thể. Khi không sử dụng đúng
mục đích hoặc trái pháp luật thì Nhà nước có thể thu hồi hoặc chuyển giao quyền sử dụng
từ chủ thể này cho chủ thể khác. Nhà nước quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể cho
các chủ thể trong việc sử dụng tài sản để tài sản thuộc sở hữu nhà nước được bảo tồn và sử
dụng có hiệu quả.
• Khách thể của sở hữu nhà nước:
Khách thể của sở hữu nhà nước rất đa dạng. Theo Điều 17 thì:
“Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển,
thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công
trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kĩ thuật, ngoại giao,
quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều
thuộc sở hữu toàn dân”.
Như vậy, phạm vi khách thể của sở hữu nhà nước rất đa dạng, có trong tất cả các lĩnh vực:
công nghiệp, nông-lâm-ngư nghiệp, giao thông vận tải,… Do nắm trong tay phần lớn
những tư liệu sản xuất chủ yếu trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, Nhà nước có ưu thế
đặc biệt để điều hành nền kinh tế. Ngoài ra, Nhà nước còn có các tài sản khác mà pháp luật
quy định là của Nhà nước. So với Hiến pháp năm 1980, khách thể của sở hữu toàn dân có
sự thay đổi, ngày càng hoàn thiện hơn.
• Cơ sở pháp lý để hình thành sở hữu nhà nước:
Những tài sản sở hữu nhà nước được hình thành bằng nhiều cách, trên cơ sở pháp lý khác
nhau:
Thứ nhất, bằng con đường tiếp thu những tài sản của Nhà nước chế độ cũ để lại.
Thứ hai, bằng con đường tịch thu, trưng thu những tài sản của bọn Việt gian, tư sản mại
bản, của bọn làm ăn phi pháp hoặc những tài sản mà Nhà nước quy định thuộc quyền sở
hữu của Nhà nước.
Thứ ba, bằng con đường thu thuế. Nhà nước ban hành ra những luật thuế để quy định các
loại thuế, nghĩa vụ nộp thuế và mức độ thu cụ thể đối với từng đối tượng. Thuế là nguồn

thu thường xuyên và lớn nhất vào ngân sách hàng năm.
Thứ tư, bằng con đường quốc hữu hoá những cơ sở kinh tế của địa chủ, phong kiến, tư sản
mại bản và những tư liệu sản xuất chủ yếu.
Thứ năm, trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, các hình thức sở hữu tư nhân, sở hữu
tập thể có thể chuyển hoá thành sở hữu nhà nưpức thông qua các hình thức: công tư hợp
doanh, liên doanh,…
Thứ sáu, bằng con đường tích luỹ trên cơ sở bảo toàn vốn, nâng cao năng suất lao động,
chất lượng lao động, làm ăn có lãi, bảo đảm đời sống của công nhân và có tích luỹ cho nhà
nước đối với các đơn vị kinh tế nhà nước.
Thứ bảy, bằng sự giúp đỡ không hoàn lại của các nước, các tổ chức, cá nhân tong và ngoài
nước…
• Một số vấn đề về sở hữu nhà nước:
Nhà nước ta đã có những quy định cụ thể để bảo vệ sở hữu nhà nước. Song, trong những
năm qua do chưa phân công trách nhiệm, phân cấp quản lý rõ rang nên tài sản thuộc sở hữu
nhà nước bị xâm phạm nghiêm trọng dưới nhiều hình thức như: Tham ô, lãng phí, trộm
cắp,…Để khắc phục tình trạng đó Nhà nước phải tăng cường giáo dục, thuyết phục và kiên
quyết áp dụng những biện pháp cưỡng chế, tăng cường các biện pháp pháp luật, khác phục
những sơ hở trong việc ban hành các văn bản pháp luật và trong quản lý kinh tế.
Trước đây, các doanh nghiệp và các tổ chức thuộc sở hữu toàn dân được Nhà nước bảo hộ
đến cùng, không bị phá sản, giải thể hay bị chuyển hình thức sở hữu. Vì đó là nền tảng, là
tiêu chí đấn giá mức độ chín muồi của Chủ nghĩa xã hội. Nhưng ngày nay, hiệu quả kinh tế
quyết định sự tồn tại và hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước. Nếu doanh nghiệp Nhà
nước nào làm ăn thua lỗ kéo dài có thể bị chuyển sang hình thức sở hữu khác hiệu quả hơn
hoặc bị giải thể, phá sản.
Hiện nay đầu tư của Nhà nước vào khu vực kinh doanh tuy đã hạn chế, (có xu hướng huy
động vốn xã hội vào xây dựng các công trình hạ tầng và một số doanh nghiệp công ích...),
nhưng tỷ trọng sở hữu nhà nước vào khu vực kinh doanh vẫn còn cao; trong đó một số
ngành cạnh tranh không cần thiết sở hữu nhà nước, cổ phần hóa chậm và không đạt mục
tiêu đề ra. Tuy không trực tiếp đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước, nhưng lại tăng quy mô
đầu tư vào các chương trình dự án có nguồn gốc ngân sách nhà nước và cơ sở hạ tầng dưới

sự chỉ đạo trực tiếp của các bộ, thông qua ban quản lý dự án. Một số ngành cạnh tranh
nhưng không có đối trọng nên vẫn duy trì thế độc quyền, đặc quyền, chi phối giá cả, làm
phương hại đến lợi ích người tiêu dùng và những người kinh doanh chân chính…
• Giải pháp:
Hiện nay trong công cuộc đổi mới, sở hữu nhà nước đang được điều chỉnh theo hai hướng.
Một là, xác định những khu vực, đơn vị được coi là then chốt, chủ yếu như các cơ sở công
nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo máy, công nghiệp hoá chất, giao thông, vận tải…phải
củng cố và mở rộng sở hữu nhà nước. Mặt khác, thu hẹp sở hữu nhà nước ở những ngành,
lĩnh vực, đơn vị kinh tế làm ăn kém hiệu quả hoặc chưa thực sự cần thiết dưới nhiều hình
thức: Chuyển quyền sở hữu, bán đấu thầu đất, chuyển thành công ty cổ phần,…
Hai là, thực hiện phân cấp quản lý tài sản thuộc sở hữu nhà nước nhằm mục đích bảo toàn
và phát triển số tài sản này. Trong những năm qua chúng ta đã tiến hành rộng rãi việc giao
vốn cho các đơn vị kinh tế quốc doanh, trên cơ sở tăng cường trách nhiệm sử dụng vốn của
các đơn vị kinh tế quốc doanh (cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một giải pháp
mang tính chất như những chiếc "van" an toàn để bảo đảm tính hiệu quả không những cho
các doanh nghiệp nhà nước, mà còn cho cả nền kinh tế). Đối với việc sử dụng ruộng đất là
sở hữu nhà nước cũng được quy định quyền sử dụng ổn định, lâu dài đối với chủ thể được
giao. Từ đó sẽ loại bỏ dần tình trạng vô trách nhiệm đối với sử dụng nhà nước, bảo đảm
hiệu quả kinh tế.
b) Sở hữu tập thể:
Sở hữu tập thể là sở hữu của các hợp tác xã hoặc các hình thức kinh tế tập thể ổn định khác
trong cá nhân, hộ gia đình góp vốn, góp sức cùng hợp tác sản xuất kinh doanh theo nguyên
tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi để thực hiện mục đích chung được quy định trong điều
lệ.
• Chủ thể của sở hữu tập thể:
Chủ thể của sở hữu tập thể là các hợp tác xã như hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã mua

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×