Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Cân đối ngân sách nhà nước- thực trạng và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.13 KB, 51 trang )

Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
Cân đối ngân sách nhà nước- thực trạng và hướng hoàn thiện
LỜI NÓI ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
2.Phạm vi nghiên cứu
3.Mục đích nghiên cứu
4.Phương pháp nghiên cứu
5.Bố cục luận văn
PHẦN NỘI DUNG
Chương I:
Những vấn đề lý luận chung về ngân sách nhà nước và cân đối ngân sách nhà nước
1.1.Khái quát về ngân sách nhà nước
1.1.1.Khái niệm ngân sách nhà nước
1.1.2.Đặc điểm ngân sách nhà nước
1.2.Khái quát về cân đối ngân sách nhà nước
1.2.1. Các lý thuyết về cân đối ngân sách nhà nước
1.2.1.1. Lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách
1.2.1.2. Các học thuyết hiện đại về cân đối ngân sách nhà nước
1.2.2.Khái niệm cân đối ngân sách nhà nước
1.2.3.Đặc điểm cân đối ngân sách nhà nước
1.2.4.Vai trò của cân đối ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Chương II:
Nội dung cơ bản của vấn đề cân đối ngân sách nhà nước
2.1.Các nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước
2.2.Cân đối giữa tổng thu và tổng chi, giữa các khoản thu và các khoản chi ngân sách
nhà nước
2.2.1.Tổng thu ngân sách nhà nước
2.2.1.1.Thu nội địa
2.2.1.2.Thu từ xuất khẩu, nhập khẩu
2.2.1.3.Thu viện trợ không hoàn lại
2.2.2.Tổng chi ngân sách nhà nước


2.2.2.1.Chi đầu tư phát triển
2.2.2.2.Chi trả nợ và viện trợ
2.2.2.3.Chi thường xuyên
2.2.2.4.Chi bổ sung dự trữ ngân sách
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
1
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
2.2.3.Cân đối giữa tổng thu và tổng chi, các khoản thu và các khoản chi ngân sách nhà nước
2.3.Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước để đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước
2.3.1.Phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi của các cấp ngân sách
2.3.2.Phân định thẩm quyền quyết định thu, chi giữa các cơ quan Nhà nước
2.3.3.Phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính giữa các cấp ngân sách nhà nước
2.4.Kiểm soát tình trạng ngân sách nhà nước- Bội chi ngân sách nhà nước
2.4.1.Khái niệm và nguyên nhân bội chi ngân sách nhà nước
2.4.1.1.Khái niệm bội chi ngân sách nhà nước
2.4.1.2.Nguyên nhân bội chi ngân sách nhà nước
2.4.2.Các biện pháp xử lý bội chi ngân sách nhà nước
Chương III:
Thực trạng cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam từ khi chuyển đổi sang cơ
chế thị trường đến nay và hướng hoàn thiện.
3.1.Thực trạng cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam và một số nước trên thế giới.
3.1.1.Trên thế giới
3.1.2.Ở Việt Nam
3.1.2.1.Giai đoạn trước khi có luật ngân sách nhà nước
3.1.2.1.1.Tình hình thu chi ngân sách nhà nước
3.1.2.1.2.Về phân cấp quản lí ngân sách nhà nước
3.1.2.1.3.Về bội chi ngân sách nhà nước
3.1.2.2.Giai đoạn từ khi có luật ngân sách nhà nước đến nay
3.1.2.2.1.Về thu ngân sách nhà nước
3.1.2.2.2.Phân định nhiệm vụ chi và nguồn thu ngân sách nhà nước

3.1.2.2.3.Về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước để đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước
3.1.2.2.4.Bội chi ngân sách nhà nước
3.1.2.2.5. Về việc tuân thủ các nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước
3.2.Hướng hoàn thiện cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam
3.2.1.Định hướng cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam
3.2.2.Thuận lợi và thách thức trong quản lý và cân đối ngân sách nhà nước
3.2.3.Giải pháp hoàn thiện cân đối ngân sách nhà nước
3.2.3.1.Giải pháp mang tính tài chính
3.2.3.1.1.Hoàn thiện các chính sách về thuế
3.2.3.1.2.Chuyển dich cơ cấu thu ngân sách nhà nước
3.2.3.1.3.Cải cách công tác quản lý thu ngân sách nhà nước
3.2.3.2.Khắc phục tình trạng thu, chi ngân sách nhà nước vượt xa dự toán
3.2.3.3.Hoàn thiện các định mức phân bổ chi tiêu ngân sách nhà nước
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
2
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
3.2.3.4.Hoàn thiện phân cấp quản lý ngân sách nhà nước để đảm bảo cân đối ngân sách
nhà nước
3.2.3.5.Đẩy mạnh các biện pháp bù đắp bội chi ngân sách nhà nước
PHẦN KẾT LUẬN
LỜI NÓI ĐẦU
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
3
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội Đảng lần VI năm 1986 đã đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển kinh
tế của nước ta. Đảng và Nhà nước đã chủ trương chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp tập
trung sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt từ năm
1991 trở đi nền kinh tế nước ta đã thực sự bắt nhịp được theo cơ chế kinh tế mới, đất
nước cũng đã có nhiều sự thay đổi và phát triển trên nhiều phương diện, nhất là vai trò

quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế- xã hội của Nhà nước được đề cao hơn bao giờ
hết. Để đảm trách tốt được vai trò này, Nhà nước cần có những biện pháp và công cụ
hữu hiệu để can thiệp vào hoạt động kinh tế. Một trong những công cụ quan trọng để
Nhà nước can thiệp đúng lúc và kịp thời một cách toàn diện vào nền kinh tế chính là
ngân sách nhà nước. Mỗi một nhà nước khi thành lập và bắt đầu đi vào hoạt động thì
đều có ngân sách nhà nước để đảm bảo thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, để
thực hiện được tốt chức năng và nhiệm vụ đó thì đòi hỏi phải có một ngân sách nhà
nước cân đối và ổn định. Từ quá khứ đến hiện tại cũng đã có nhiều quan điểm, học
thuyết khác nhau bàn về cân đối ngân sách nhà nước nhưng trong thực tiển để làm được
vấn đề này là rất khó khăn, vì tình hình kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia luôn biến đổi
không ngừng nó có thể là tăng trưởng, phát triển nhưng cũng có thể rơi vào khủng
hoảng, suy thoái. Điều này dẫn đến ngân sách nhà nước có thể rơi vào tình trạng bội chi
hay bội thu. Vì vậy mỗi quốc gia cần lựa chọn và vận dụng những phương cách khác
nhau phù hợp với tình hình kinh tế- xã hội của nước mình để cân đối ngân sách nhà
nước cho hiệu quả.
Trong xu thế hội nhập kinh tế như hiện nay, vấn đề cân đối ngân sách nhà nước là rất
quan trọng và cần được quan tâm đúng mức. Bỡi lẽ, ngân sách nhà nước là công cụ tài
chính cốt yếu để Nhà nước điều phối toàn xã hội, giải quyết những vấn đề khó khăn của
đất nước, đem lại sự công bằng cho người dân,… Nhưng để đảm bảo tốt những vai trò
trên thì ngân sách nhà nước phải được cân đối. Thực tế ở Việt Nam trong thời gian vừa
qua, ngân sách nhà nước không ổn định và mất cân đối đã kéo theo những hậu quả làm
ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế và nhiều vấn đề xã hội nãy sinh như: thu
vào ngân sách nhà nước không đủ chi dẫn đến nợ nước ngoài nhiều, lạm phát tăng
nhanh, không có nguồn tài chính để đầu tư đúng mức vào hoạt động kinh tế… Để khắc
phục những vấn đề trên, chính phủ đã có nhiều cố gắng trong việc cải cách quản lý hành
chính, đổi mới chính sách thu, chi ngân sách để hướng tới một ngân sách nhà nước được
cân đối nhằm góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định xã hội và kiểm soát tình
trạng lạm phát đang diển ra ở nước ta và đưa Việt Nam tiến vào thời kỳ hội nhập của
nền kinh tế thế giới. Cân đối ngân sách nhà nước là một vấn đề phức tạp nhưng nó có
một vai trò quan trọng đối với kinh tế đất nước trong thời kỳ chuyển đổi, hội nhập và

GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
4
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
cùng với những lý do nêu trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “ Cân đối ngân sách nhà nước-
thực trạng và hướng hoàn thiện” làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình. Qua đó tôi hy
vọng có được những hiểu biết và nhận thức đúng đắn hơn về vấn đế cân đối ngân sách
nhà nước ở Việt Nam, góp phần hoàn thiện những chính sách về cân đối ngân sách nhà
nước trong thời kỳ mới đưa đất nước phát triển cùng thế giới.
2. Phạm vi nghiên cứu
Cân đối ngân sách nhà nước là một vấn đề rất rộng và phức tạp. Nhưng do hạn chế về
thời gian nghiên cứu nên trong luận văn của mình tôi chỉ tập trung nghiên cứu những
vấn đề sau:
- Giới thiệu những vấn đề chung về cân đối ngân sách nhà nước.
- Cân đối ngân sách nhà nước trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế kinh tế thị trường.
- Những đề xuất hoàn thiện tình hình cân đối ngân sách của nước ta dựa trên thực
trạng cân đối ngân sách nhà nước.
3. Mục đích nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài luận văn này tôi hướng tới những mục đích sẽ đạt được sau đây:
- Hệ thống lại những quan điểm, những định nghĩa về ngân sách nhà nước và cân
đối ngân sách nhà nước từ đó đưa những quan điểm phù hợp nhất với nước ta trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đưa ra những nội dung cơ bản về cân đối ngân sách nhà nước ở nước ta hiện
nay, tìm hiểu và nhận xét về tình hình cân đối ngân sách nhà nước ta trong thời gian vừa
qua, từ đó tìm ra những ưu khuyết điểm của chính sách cân đối ngân sách nhà nước để
đề xuất những giả pháp tích cực và hữu hiệu về vấn đề cân đối ngân sách nhà nước ở
nước nhằm thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển bền vững và ổn định.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu luận văn của mình, tôi đã sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu khoa học như: so sánh, phân tích và đánh giá, thống kê, thu
thập tài liệu,…để thể hiện nội dung luận văn của mình mang tính chất của một đề tài

nghiên cứu khoa học.
5. Bố cục của đề tài
Bố cục của luận văn được người viết trình bày như sau: Phần lời nói đầu, phần nội dung
và phần kết luận. Trong phần nội dung gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về ngân sách nhà nước và cân đối
ngân sách nhà nước.
- Chương 2: Nội dung cơ bản của vấn đề cân đối ngân sách nhà nước.
- Chương 3: Thực trạng cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam từ khi
chuyển đổi sang cơ chế thị trường đến nay và hướng hoàn thiện.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
5
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
Để hoàn thành đề tài luận văn này, tôi đã sử dụng những kiến thức được học trong nhà
trường, cùng với việc nghiên cứu các tài liệu có liên quan như: Sách, tạp chí, internet và
những số liệu thực tế. Bên cạnh sự nổ lực của bản thân, tôi còn nhờ sự dạy bảo, hướng
dẫn và giúp đỡ tận tình của Cô Lê Huỳnh Phương Chinh cùng các bạn trong lớp, trong
khoa. Tuy nhiên do kiến thức còn nhiều hạn chế nên việc nghiên cứu và trình bày đề tài
của tôi khó tránh khỏi những thiếu xót. Em kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của quý thầy cô và bạn bè để luận văn của em được hoàn thiện hơn. Sau cùng xin cho
em gửi đến các thầy cô, cùng tất cả các bạn, đặc biệt là cô Lê Huỳnh Phương Chinh lời
cám ơn chân thành và sâu sắc nhất.
Chương I:
Những vấn đề lý luận chung về ngân sách nhà nước và cân đối ngân sách nhà
nước.
1.1. Khái quát về ngân sách nhà nước
1.1.1.Khái niệm ngân sách nhà nước
Một Nhà nước muốn tồn tại và phát triển cần có một nguồn quỹ tài chính (Nguồn quỹ
này được Nhà nước huy động từ trong xã hội) để phục vụ cho hoạt động của Nhà nước,
giúp Nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình.Chính vì vậy, sự ra đời của
Nhà nước cũng kéo theo sự hình thành về ngân sách nhà nước.

Ở giai đoạn đầu của lịch sử phát triển Nhà nước, quỹ tài chính được hình thành với
mục đích đảm bảo cho sự tồn tại của bộ máy nhà nước.Tuy nhiên, quỹ tài chính này
chưa đảm bảo đầy đủ các yếu tố để được gọi là ngân sách nhà nước. Vì nó chưa đảm
bảo tính minh bạch và rỏ ràng trong cách sử dụng, quản lý và phân phối các nguồn lực
tài chính. Lúc này, các nguồn lực tài chính huy động được hoàn toàn không phải vì mục
đích phục vụ lợi ích chung cho toàn xã hội, mà còn phục vụ cho những mục đích chi
tiêu riêng, khác của những chủ thể đứng đầu Nhà nước. Đặc trưng này được biểu hiên
rỏ nhất là ở thời kỳ Nhà nước phong kiến, nguồn lực tài chính của Nhà nước tập trung
trong tay nhà Vua và hoàn toàn do nhà Vua quyết định phân chia và chi tiêu nó như thế
nào. Chính vì thế, việc sử dụng nguồn lực tài chính của quốc gia không được minh
bạch, rỏ ràng, theo hướng tiêu cực và chủ quan của một người. Đặc biệt, người dân
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
6
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
không thể kiểm sóat được những khoản đóng góp của mình vào quỹ tài chính đã chi tiêu
cho việc gì và mình đã được hưởng những lợi ích gì.
Ngân sách nhà nước đã xuất hiện từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, từ thời kỳ phong kiến
nhưng thuật ngữ “ ngân sách nhà nước” được thừa nhận với một ý nghĩa đầy đủ của nó
khi mầm móng tư bản chủ nghĩa ra đời
1
. Lúc này nhà Vua không còn quyền tự quyết đối
với các khoản thu chi của quốc gia nữa mà nó đã được chuyển giao lại cho Quốc hội.
Điều đó cũng tạo ra một bước ngoặc mới về việc quản lý và sử dụng ngân sách nhà
nước được minh bạch và rỏ ràng hơn. Ngân sách Nhà nước là một thuật ngữ xuất hiện
lần đầu tiên ở Anh vào thế kỷ 17. Khi đó, ngân sách nhà nước được hiểu là một nguồn
quỹ hoặc là túi tiền của người quản lý ngân khố, nó là toàn bộ những khoản thu chi
thuộc về Nhà nước và do Nhà nước thực hiện. Cho đến ngày nay, ngân sách nhà nước
được hiểu là bảng kế hoạch tài chính lớn nhất của một quốc gia bao gồm tất cả các
khoản thu chi phục vụ cho chức năng và nhiệm vụ của bộ máy nhà nước, thong qua đó
đảm bảo những lợi ích công cộng của xã hội.

Ngân sách nhà nước là một phạm trù rất rộng và bao quát, vừa liên quan đến lĩnh vực
kinh tế vừa liên quan đến góc độ quản lý Nhà nước. Vì vậy hiện nay có nhiều ý kiến
khác nhau định nghĩa về ngân sách Nhà nước, nhưng thể hiện rõ nhất và đầy đủ nhất về
bản chất của ngân sách nhà nước là hai định nghĩa trên hai phương diện kinh tế và pháp
lý.
 Ngân sách nhà nước xét về phương diện kinh tế
2
: Trước hết là một khái niệm
thuộc phạm trù kinh tế học hay hẹp hơn là tài chính học.Theo đó, ngân sách nhà nước là
bảng dự toán về các khoản thu và các khoản chi tiền tệ của một quốc gia, được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền quyết định thực hiện trong một khoản thời hạn nhất định,
thường là một năm. Từ định nghĩa đó ta thấy có 2 yếu tố cơ bản trong ngân sách nhà
nước:
+ Ngân sách nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính của một quốc gia, thông
qua hành vi kinh tế là xác lập nội dung thu chi liên quan đến ngân quỹ của Nhà nước.
Do đó phải được Quốc hội với tư cách là người đại diện cho toàn thể nhân dân trong
quốc gia đó quyết định trước khi chính phủ đem ra thi hành trên thực tế, để đảm bảo cho
việc thu, chi ngân sách có hiệu quả và phù hợp với người dân. Ngoài ra, Quốc hội còn là
người giám sát chính phủ trong quá trình thi hành ngân sách và có quyền phê chuẩn
bảng quyết toán ngân sách hàng năm do chính phủ đệ trình khi năm ngân sách kết thúc.
+ Ngân sách nhà nước có hiệu lực trong vòng một năm, tức là việc dự toán thu,
chi đã được đề ra phải hoàn thành trong năm ngân sách đó tính từ ngày 01/01 đến ngày
1
Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, Tư Pháp, 2007, Trang 9,10.
2
Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, NXB Tư Pháp 2007, Trang 11-12.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
7
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
31/12 hàng năm. Đây là khoản thời gian mà pháp luật quy định nhằm giới hạn rỏ việc

thực hiện dự toán ngân sách nhà nước. Khoản thời gian này có thể trùng hoặc không
trùng với năm dương lịch tùy theo tập quán của mỗi nước. Việc quy định rỏ thời gian
này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của ngân sách nhà nước, tránh sự tùy
tiện, độc đoán của Nhà nước trong việc thu nộp và chi tiêu ngân sách.
 Ngân sách nhà nước xét về phương diện pháp lý
3
: Theo phương diện này, ngân
sách nhà nước cũng không có nhiều khác biệt so với phương diện kinh tế, nó đều nói về
các khoản thu, chi do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện
trong một năm. Khi tiếp cận ngân sách nhà nước qua phương diện kinh tế, ta thấy đó là
một bảng kế hoạch tài chính khổng lồ của một quốc gia, trong đó dự liệu các khoản thu
chi và tiền tệ trong một năm. Còn ở phương diện pháp lý, ngân sách nhà nước được hiểu
là một đạo luật đặc biệt của mỗi quốc gia do Quốc hội ban hành và chính phủ thực hiện
trong một thời hạn xác định. Nhưng khác với những đạo luật thông thường, ngân sách
nhà nước được cơ quan lập pháp tạo ra theo trình tự thủ tục riêng và hiệu lực thi hành
của đạo luật này được xác định rỏ ràng là một năm.
Theo Điều 1 luật ngân sách nhà nước 2002, ngân sách nhà nước được định nghĩa là:
“ Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực
hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước”.
Qua những quy định và phân tích về ngân sách nhà nước ta thấy, ngân sách nhà nước
chính là một đạo luật tài chính do Quốc hội ban hành, dự toán về các khoản thu chi thực
hiện trong một năm của một quốc gia, bên cạnh đó ngân sách nhà nước còn là một công
cụ tài chính quan trọng để Nhà nước thực hiện và điều tiết hoạt động kinh tế- xã hội của
đất nước. Trong nền kinh tế thị trường nhiều biến động như hiện nay thì ngân sách nhà
nước có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội.
- Trước hết, ngân sách nhà nước là công cụ có hiệu lực của Nhà nước để
điều chỉnh thu nhập của toàn xã hội hạn chế sự phân hóa giàu nghèo đảm bảo sự công
bằng trong xã hội, góp phần giải quyết các vấn đề của xã hội như: trợ cấp thất nghiệp,
chính sách trợ giúp cho những người có thu nhập thấp, có hoàn cảnh khó khăn, chi

chính sách dân số, giúp đỡ đồng bào bị thiên tai,…Để thực hiện được việc này, Nhà
nước đã sử dụng công cụ thuế điều chỉnh những người có thu nhập cao trong xã hội, tạo
nguồn thu về cho ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước là công cụ điều tiết hoạt
động kinh tế của một quốc gia. Thông qua các hoạt động: Cấp phát vốn, đầu tư cơ sở
vật chất hạ tầng cho các ngành then chốt, mũi nhọn của đất nước, áp dụng các chính
sách thuế để định hướng đầu tư phát triển kinh doanh… Nhà nước đã đảm bảo cho nền
3
Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, NXB Tư Pháp 2007, Trang 14-15.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
8
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
kinh tế phát triển ổn định và tạo thế cân bằng giữa các ngành nghề, địa phương của đất
nước. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường nhiều biến động hiện nay, sự thay đổi về giá
cả, mất cân bằng về cung cầu, lạm phát xãy ra thì vai trò điều tiết của ngân sách nhà
nước góp phần quan trọng vào việc bình ổn thị trường, kiềm chế lạm phát. Nhà nước
thực hiện các biện pháp giảm chi, tăng thu và huy động nguồn vốn từ trong nhân dân để
bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước, sử dụng quỹ dự trữ nhà nước để điều tiết nền kinh
tế.
- Ngân sách nhà nước còn là công cụ để hướng dẫn tiêu dùng của xã hội, xuất
phát từ đặc điểm ngân sách nhà nước đảm bảo điều kiện vật chất để thực hiện chức
năng và nhiệm vụ của nhà nước. Vì vậy hàng năm nhà nước phải chi một khoản tiền rất
lớn cho hoạt động của bộ máy nhà nước từ cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp đồng
thời chi cho các khoản nhằm bình ổn, phát triển kinh tế- xã hội. Ngân sách nhà nước có
chứa đựng những khoản dự toán chi ngân sách hang năm để định hướng việc chi tiêu
cho xã hội, khoản chi nào là phù hợp, là cần thiết để cân đối với các khoản thu năm đó,
tránh tình trạng chi tiêu lãng phí, tràn lang dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm ngân sách nhà nước
Thông qua định nghĩa về ngân sách nhà nước, ta thấy ngân sách nhà nước là một loại
hình ngân sách đặc biệt quan trọng. Nó không chỉ mang những đặc điểm chung của các
loại ngân sách thông thường, mà còn hàm chứa những đặc điểm riêng thể hiện bản chất

của một loại hình ngân sách của một quốc gia như:
- Ngân sách nhà nước vừa là một bảng kế hoạch tài chính vừa là một đạo luật của
một quốc gia. Ngân sách nhà nước chính là toàn bộ các khoản thu, chi của một quốc gia
đã được dự toán thực hiện trong một năm, việc thiết lập ngân sách nhà nước không chỉ
mang tính kỹ thuật nghiệp vụ kinh tế giống như các loại ngân sách thông thường khác
mà nó còn mang tính kỹ thuật pháp lý, ngân sách nhà nước được soạn thảo và thực hiện
bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đặc biệt phải được Quốc hội xem xét, biểu quyết
thông qua giống như việc ban hành một đạo luật. Đặc điểm này đã làm cho ngân sách
nhà nước khác hẵn với các loại ngân sách thông thường khác như: ngân sách của gia
đình của các tổ chức chính tri- xã hội,… Ngân sách nhà nước đảm bảo về giá trị pháp và
bắt buộc các chủ thể liên quan phải thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình giống
như việc thực hiện, chấp hành một đạo luật. Còn các loại ngân sách khác thì việc thực
hiện và chấp hành của các chủ thể có liên quan, chỉ dừng ở mức độ thỏa thuận để ràng
buộc trách nhiệm của mỗi người.
- Ngân sách nhà nước là bảng kế hoạch tài chính của toàn thể quốc gia, sẽ được
Quốc hội biểu quyết thông qua trước khi trao cho chính phủ thi hành. Đặc điểm này thể
hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp trong quá trình
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
9
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
xây dựng và thực hiện ngân sách. Trong đó cơ quan lập pháp thường có vai trò áp đảo
hơn, cơ quan hành pháp chỉ là cơ quan thừa hành thực hiện bảng kế hoạch tài chính mà
Quốc hội đã thông qua, nhưng đồng thời còn phải chịu sự giám sát của Quốc hội trong
khi thực thi nhiệm vụ ngân sách nhà nước nhằm hạn chế sự lạm quyền của các cơ quan
hành pháp bảo đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động tài chính nhà
nước. Điều này bộc lộ lên nét đặc trưng riêng của ngân sách nhà nước mà ở các loại
hình ngân sách khác không có, ngân sách nhà nước được thiết lập và thi hành có sự
tham gia, giám sát của nhân dân theo phương cách trực tiếp hay gián tiếp thông qua vai
trò của Quốc hội, có sự tham gia của cơ quan hành pháp, cơ quan lập pháp và có sự
phân chia nhiệm vụ rỏ ràng giữa hai cơ quan này. Trong khi đó, các loại hình ngân sách

khác thì Nhà nước để cho chính chủ thể đó tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về hậu
quả xãy ra. Một số cơ quan hành pháp của Nhà nước chỉ tham gia kiểm tra, giám sát
trong những trường hợp cần thiết, mà không tạo nên mối tương quan giữa cơ quan hành
pháp và cơ quan lập pháp.
- Ngân sách nhà nước được thiết lập và thực thi nhằm phục vụ hoạt động của bộ
máy nhà nước, đảm bảo cho Nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình vì lợi
ích chung của toàn xã hội. Bộ máy nhà nước muốn hoạt động được cần có một số tiền
rất lớn để chi tiêu và số tiền đó được trích ra từ ngân sách nhà nước. Nhà nước thực hiện
chức năng và nhiệm vụ của mình nhằm bảo đảm cho sự phát triển của toàn xã hội, phục
vụ lợi ích của toàn dân, không phân biệt người giàu nghèo hay đẳng cấp địa vị xã hội.
Đặc biệt ngân sách nhà nước còn ưu tiên để giúp đỡ phục vụ cho những người nghèo,
hỗ trợ để giảm bớt những tệ nạn xã hội. Vì vậy chính phủ luôn tìm cách thỏa mãn giữa
nhiệm vụ thu và nhiệm vụ chi đã được hoạch định và cho phép thực hiện bởi Quốc hội.
Đặc điểm này đã thể hiện một bản chất rất riêng của ngân sách nhà nước, ngân sách nhà
nước phục vụ cho toàn xã hội, toàn dân, không phân biệt người giàu, người nghèo hay
cá nhân, tổ chức nào để đảm bảo cho sự phát triển của cả đất nước. Còn các loại ngân
sách khác chỉ bao hàm được một số đối tượng cụ thể và những mục tiêu hẹp hơn.
- Ngân sách nhà nước được thiết lập và vận hành theo bốn nguyên tắc cơ bản sau:
+ Nguyên tắc ngân sách nhất niên: Nguyên tắc này ra đời đầu tiên ở nước
Anh vào cuối thế kỷ 17 nhưng sau đó lại trở thành nguyên tắc được thừa nhận tại các
nước có nền dân chủ phát triển sớm ở châu Âu như: Pháp, Đức. Nguyên tắc này hàm
chứa hai nội dung cơ bản sau: Mỗi năm, Quốc hội sẽ biểu quyết ngân sách một lần theo
hạn kỳ do luật định và bản dự toán ngân sách nhà nước này chỉ có hiệu lực thi hành
trong một năm, chính phủ là người được phép thi hành bản dự toán đó
4
. Ở Việt Nam,
nguyên tắc này đã được ghi nhận trong luật, các khoản thu và chi ngân sách nhà nước
4
Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, NXB Tư Pháp 2007, Trang 28.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ

10
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
được thực hiện trong một năm, tính từ ngày 01/01 đến ngày 31/12 năm dương lịch.
Nguyên tắc này được đặt ra nhằm mục đích giúp cho Nhà nước kiểm soát kịp thời các
hoạt động thu, chi của quốc gia, tránh sự lãng phí, đảm bảo sự dân chủ cho người dân.
Nhân dân có quyền tham gia vào việc quản trị nguồn tài chính của đất nước thông qua
người đại diện của mình là Quốc hội.
+ Nguyên tắc ngân sách đơn nhất: Nguyên tắc này cũng lần đầu tiên được
xây dựng ở Anh, Pháp, Đức,…và ngày nay nó được thừa nhận ở nhiều nước trên thế
giới. Nguyên tắc này hiểu theo cách thông thường, là mọi khoản thu và chi tiền tệ của
quốc gia trong một năm chỉ được phép trình bày trong một văn kiện duy nhất, đó là bản
dự toán ngân sách sẽ được chính phủ trình quốc hội quyết định để thực hiện
5
. Ở nước ta
chưa có một quy định cụ thể, chính thức nào về nguyên tắc này, nhưng trong luật ngân
sách nhà nước có quy định: “ Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp được quyền quyết
định điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước các cấp trong trường hợp cần thiết…” đã
thể hiện sự vận dụng linh hoạt nguyên tắc này ở nước ta. Nguyên tắc này hướng tới mục
tiêu: đảm bảo tính khả thi cho dự toán ngân sách nhà nước trong quá trình thực hiện,
giúp cho Quốc hội dễ dàng kiểm soát và theo dõi hoạt động của ngân sách nhà nước. Vì
mọi vấn đề có liên quan đều được tập trung trong một văn kiện, từ đó sẽ giúp cho các cơ
quan có thẩm quyền có cách nhìn bao quát và đầy đủ về tình hình ngân sách của quốc
gia. Trên cơ sở đó, Nhà nước sẽ đề ra được những nhiệm vụ khả quan hơn của ngân
sách năm sau.
+ Nguyên tắc ngân sách toàn diện: Nguyên tắc này xuất hiện vào khoản thế kỷ 17, 18 ở
các nước châu Âu. Nguyên tắc này được thể hiện qua hại nội dung sau: Mọi khoản thu
và chi đều phải được ghi cụ thể, rỏ ràng trong bảng dự toán ngân sách hàng năm đã
được Quốc hội quyết định; các khoản thu và chi không được phép bù trừ cho nhau mà
mọi khoản thu dùng để tài trợ cho mọi khoản chi
6

. Thực hiện tốt nguyên tắc này, bảng
dự toán ngân sách nhà nước sẽ đảm bảo được thiết lập rỏ ràng, cụ thể, minh bạch và đầy
đủ. Nước ta cũng đã ghi nhận và vận dụng nguyên tắc này bằng những quy định cụ thể
trong luật.
+ Nguyên tắc ngân sách thăng bằng: Nguyên tắc này cũng đã xuất hiện khá sớm ở các
quốc gia trên thế giới. Lúc đầu các nhà tài chính học cho rằng, sự thăng bằng của ngân
sách nhà nước là một ý niệm kế toán nhiều hơn là ý nghĩa về phương diện kinh tế hay
pháp lý. Theo đó, sự thăng bằng của ngân sách nhà nước được hiểu là tổng số thu phải
cân bằng với tổng số chi trong năm ngân sách. Còn các nhà tài chính học đương đại đưa
ra quan điểm mới về sự thăng bằng của ngân sách nhà nước là: Sự thăng bằng ngân sách
5
Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, NXB Tư Pháp 2007, Trang 30, 31.
6
Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, Tư Pháp, 2007, Trang 32.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
11
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
không hoàn toàn không đồng nghĩa với sự cân bằng giữa tổng thu và tổng chi mà thực
chất là sự cân bằng giữa tổng thu hoa lợi và tổng chi có tính chất phí tổn
7
. Nguyên tắc
này cũng đã được ghi nhận trong luật ngân sách nhà nước Việt Nam hiện hành. Nguyên
tắc này đã giúp xác định được tình trạng ngân sách nhà nước đang ở mức thăng bằng,
bội thu hay thâm hụt tại một thời điểm để từ đó đưa ra những hướng giải quyết vấn đề
ngân sách nhà nước cho phù hợp. Hiện nay nguyên tắc ngân sách thăng bằng vẫn chưa
đảm bảo thực hiên tốt ở nhiều quốc gia, do những biến đổi về tình hình kinh tế- xã hội
liên tục xãy ra như: khủng hoảng kinh tế, lạm phát, thiên tai,…
Ngân sách nhà nước là công cụ chủ yếu giúp nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ
của mình. Với công cụ này, Nhà nước đảm bảo cho sự vân hành của nền kinh tế- xã hội
theo hướng ổn định và phát triển, đem lại sự công bằng và bình đẳng cho mọi người

dân, giải quyết kịp thời những vấn đề khó khăn của đất nước. Để thực hiện tốt được các
vấn đề trên, Nhà nước đã lập kế hoạch thu chi cụ thể của một năm được sự xét duyệt và
phê chuẩn của các cơ quan có thẩm quyền, rồi đưa ra thi hành trên thực tế nhằm hướng
tới mục tiêu đạt được sự cân đối giữa các khoản thu chi ngân sách nhà nước và hoàn
thành nhiệm vụ mà năm ngân sách đề ra.
1.2. Khái quát về cân đối ngân sách nhà nước
1.2.1. Các học thuyết về cân đối ngân sách nhà nước
Cân đối ngân sách là một vấn đề quan trọng được đặt ra đối với mỗi Nhà nước, nó đảm
bảo cho Nhà nước đó thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Nhưng ở từng thời
kỳ khác nhau thì chức năng và nhiệm của Nhà nước sẽ có sự thay đổi, nó được mỡ rộng
và nâng lên cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Đăc biệt khi nền kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trường, Nhà nước đã có sự can thiệp vĩ mô vào hoạt động kinh tế. Do đó,
ngân sách nhà nước đã trở thành công cụ đắc lực để Nhà nước can thiệp vào hoạt động
kinh tế và vấn đề cân đối ngân sách nhà nước lại càng được quan tâm hơn với nhiều học
thuyết bàn về nó.
1.2.1.1. Lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách
Theo lý thuyết này, nội dung của cân bằng ngân sách rất đơn giản: “ Mỗi năm số thu
phải ngang với số chi”
8
. Quan điểm này bao gồm hai nguyên tắc cơ bản sau: Một là,
tổng số những khoản chi không được quá tổng số những khoản thu. Hai là, tổng số
những khoản thu của ngân sách không bao giờ được lớn hơn tổng số những khoản chi
của ngân sách. Tức là ngân sách nhà nước phải được cân bằng tuyệt đối, bội chi hay bội
thu ngân sách đều biểu hiện sự lãng phí về nguồn lực trong nhân dân.Ngoài ra, thuyết
này còn đòi hỏi ngân sách nhà nước phải cân bằng cả khi lập dự toán và trong quá trình
7
Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, Tư Pháp, 2007, Trang 34, 35.
8
Xem: Trần Đình Ty, Quản lý tài chính công, NXB Lao Động 2003, Trang 326.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ

12
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
thực hiện, nếu chỉ cân bằng khi lập dự toán còn trong quá trình thực hiện lại không cân
bằng thì không thể coi là cân bằng thực sự.
1.2.1.2. Các học thuyết hiện đại về cân đối ngân sách nhà nước
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường tự do cạnh tranh thì sự can thiệp của Nhà
nước vào hoạt động kinh tế đóng một vai trò rất quan trọng, đảm bảo sự ổn định và phát
triển của nền kinh tế, lúc này cân đối ngân sách lại trở thành một công cụ thiết yếu hơn.
Trong bối cảnh đó, quan điểm về cân đối ngân sách nhà nước cũng có nhiều thay đổi.
- Lý thuyết về ngân sách chu kỳ
Nền kinh tế trãi qua một chuỗi dài các chu kỳ, mỗi chu kỳ đều trãi qua giai đoạn
phồn thịnh và suy thoái. Ở giai đoạn phồn thịnh của nền kinh tế thì của cải vật chất tạo
ra nhiều, năng suất lao động xã hội cao, thất nghiệp ít,…Do đó nguồn thu vào ngân sách
nhà nước sẽ lớn hơn nhu cầu chi tiêu và ngân sách nhà nước thường ở tình trạng bội thu.
Vì vậy nếu không xem xét cân đối ngân sách nhà nước theo chu kỳ, Nhà nước rất dễ
dùng số bội thu này chi tiêu vào những việc không cần thiết. Ngược lại, khi có khủng
hoảng xãy ra nền kinh tế chuyển sang giai đoạn suy thoái, của cải vật chất tạo ra ít, năng
suất lao động của xã hội thấp, thất nghiệp gia tăng,…Dẫn đến việc thu ngân sách gặp
nhiều khó khăn, ngoài ra Nhà nước còn chi tiền để phục hồi nền kinh tế và giải quyết
các vấn đề xã hội phát sinh làm cho ngân sách nhà nước dễ rơi vào tình trạng bội chi
9
.
Như vậy, theo thuyết này sự cân bằng ngân sách nhà nước sẽ không duy trì được trong
khuôn khổ một năm mà sẽ duy trì trong khuôn khổ một chu kỳ kinh tế. Nghĩa là, nguyên
tắc cân đối giữa thu và chi ngân sách nhà nước vẫn được tôn trọng nhưng sự cân bằng
ngân sách nhà nước phải thực hiện trong một chu kỳ phat triển kinh tế.
- Lý thuyết về ngân sách cố ý thiếu hụt
Lý thuyết cổ điển đã chỉ ra, muốn thăng bằng ngân sách trong giai đoạn suy thoái
thì phải giảm thu hoặc tăng chi
10

. Nhưng cả hai phương pháp này đều kiềm hãm sự phát
triển kinh tế, làm cho nền kinh tế càng đình trệ hơn. Do vậy khi kinh tế rơi vào giai đoạn
suy thoái, phải tránh sự kiềm hãm đó bằng cách cố găng hy sinh thăng bằng ngân sách,
phải sử dụng sự mất cân đối ngân sách, tăng chi tiêu để đưa nền kinh tế thoát khỏi suy
thoái. Tuy nhiên, việc cố ý tạo sự thiếu hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng xấu
đến chính sách tiền tệ, lạm phát gia tăng. Nhưng những người ủng hộ thuyết này cho
rằng: “ Sự phục hồi kinh tế sẽ đem lại nguồn để ngân sách nhà nước trở về tình trạng
cân bằng và đẩy lùi lạm phát”.
- Thuyết hạn chế tiêu dùng thi hành trong thời chiến
9
Xem: Trần Đình Ty, Quản lý tài chính công, NXB Lao Động 2003, Trang 328, 329.
10
Xem: Trần Đình Ty, Quản lý tài chính công, NXB Lao Động 2003, Trang 330.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
13
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
Thuyết này cho rằng, vì muốn thỏa mãn nhu cầu của chiến tranh ngân sách nhà nước
phải chi tiêu rất nhiều, trong khi đó khối lượng tài sản cung cấp trên thị trường lại khan
hiếm hơn thời bình
11
. Lúc này ngân sách nhà nước phải thiết lập một chế độ hạn chế chi
tiêu và kiểm soát giá cả. Chế độ này sẽ hướng người dân đến việc chi tiêu không hết số
thu nhập có khả năng sử dụng của mình, do đó Nhà nước sẽ tìm cách thu hồi số tiền dư
đó vào ngân sách nhà nước bằng cách đánh thuế hoặc phát hành công trái.
Tóm lại, mỗi thuyết bàn về cân đối ngân sách ở mỗi khía cạnh, góc độ và thời điểm
khác nhau nhưng cùng hướng tới vấn đề làm sao cho ngân sách nhà nước được cân
bằng. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay thì thuyết cổ điển không còn phù hợp nữa
vì quá cứng nhắc, việc duy trì chính sách chi tiêu theo thuyết này tuy rất cần thiết nhưng
không thể đem đến sự phát triển bền vững cho nền kinh tế. Các thuyết hiện đại thì đưa
ra những biện pháp mạnh hơn để đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước nhưng trong điều

kinh tế chuyển đổi và hội nhập như nước ta hiện nay, chúng ta cần phải lựa chọn và vận
dụng hợp lý các lý thuyết đó để đưa đất nước phát triển.
1.2.2. Khái niệm cân đối ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính của một quốc gia trong đó dự trù
các khoản thu và chi được thực hiện trong một năm. Trên thực tế quá trình thu chi ngân
sách nhà nước luôn trong trạng thái biến đổi không ngừng, nó bị ảnh hưởng bởi sự vận
động của nền kinh tế quốc gia, có khi những khoản thu dự kiến không đủ đáp ứng nhu
cầu chi tiêu trong năm đó, hoặc có khi mức thu lại vượt xa những khoản chi. Do vậy các
khoản chi tiêu và thu ngân sách nhà nước phải được tính toán chính xác và phù hợp với
thực tế để đảm bảo cho ngân sách nhà nước trong trạng thái cân bằng, ổn định. Thu và
chi ngân sách là hai vấn đề quan trọng để đảm bảo cho ngân sách nhà nước được cân
đối, hai vấn đề này lại nằm trong mối tương quan giữa tài chính và kinh tế, vì kinh tế có
phát triển thì Nhà nước mới huy động được nguồn thu vào ngân sách nhà nước, còn
kinh tế không ổn định, kém phát triển thì nguồn thu vào ngân sách nhà nước giảm và
còn phải chi nhiều để hổ trợ. Điều đó dể dẫn đến ngân sách nhà nước bị mất cân đối.
- Xét về bản chất, cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa các nguồn thu mà
Nhà nước huy động được tập trung vào ngân sách nhà nước trong một năm và sự phân
phối, sử dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong năm đó
- Xét về góc độ tổng thể, cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối tương quan
giữa thu và chi trong một tài khóa. Nó không chỉ là sự tương quan giữa tổng thu và tổng
chi mà còn thể hiện sự phân bổ hợp lý giữa cơ cấu các khoản thu và cơ cấu các khoản
chi của ngân sách nhà nước
11
Xem: Học viện tài chính, Giáo trình quản lý tài chính nhà nước, NXB Tài Chính 2004, Trang 265.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
14
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
- Xét trên phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối ngân sách nhà nước là
cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp ngân sách, giữa trung ương
và địa phương và giữa các địa phương với nhau để thực hiện chức năng và nhiệm vụ

được giao.
Cân đối ngân sách nhà nước không chỉ đơn thuần là sự cân bằng về số lượng biểu hiện
qua các con số giữa tổng thu và tổng chi, mà nó còn biểu hiện qua các khía cạnh khác
nhau. Tựu trung lại ta có thể hiểu: Cân đối ngân sách nhà nước là một bộ phận quan
trọng của chính sách tài khóa, phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa thu và
chi ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội mà Nhà nước đã đề
ra trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể.
1.2.3. Đặc điểm cân đối ngân sách nhà nước
Từ những quan niệm về cân đối ngân sách nhà nước ta có thể rút ra một số đặc điểm cơ
bản sau đây:
- Cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi
ngân sách nhà nước trong năm ngân sách nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Nó vừa
là công cụ thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước, vừa bị ảnh hưởng bởi các chỉ
tiêu kinh tế- xã hội. Cân đối ngân sách nhà nước không phải là để thu chi cân đối hoặc
chỉ là cân đối đơn thuần về mặt lượng, mà cân đối ngân sách nhà nước nhằm thực hiện
các mục tiêu chiến lược kinh tế- xã hội của Nhà nước đồng thời các chỉ tiêu kinh tế- xã
hội này cũng quyết định sự hình thành về thu, chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên việc
tính toán thu, chi không phản ánh một cách thụ động các chỉ tiêu kinh tế- xã hội, mà cân
đối ngân sách nhà nước có tác động làm thay đổi hoặc điều chỉnh một cách hợp lý các
chỉ tiêu kinh tế- xã hội, bằng khả năng quản lý hoặc phân bổ nguồn lực có hiệu quả.
- Cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa tổng thu và tổng chi, giữa các
khoản thu và các khoản chi, cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp
trong hệ thống ngân sách nhà nước, đồng thời kiểm soát được tình trạng ngân sách nhà
nước đặc biệt là tình trạng bội chi ngân sách nhà nước. Cân bằng thu- chi ngân sách nhà
nước chỉ là tương đối chứ không thể đạt mức tuyệt đối được vì hoạt động kinh tế luôn ở
trạng thái biến động Nhà phải điều chỉnh hoạt động thu, chi cho phù hợp. Bên cạnh đó,
cần phân bổ nguồn thu cho hợp lý để đảm bảo sự ổn định về kinh tế- xã hội giữa các địa
phương. Mặt khác, nếu ngân sách không cân bằng mà rơi vào tình trạng bội chi thì cần
đưa ra những giải quyết kịp thời để ổn định lại ngân sách nhà nước.
- Cân đối ngân sách nhà nước mang tính định lượng và tính tiên liệu.Trong

quá trình cân đối ngân sách nhà nước, người quản lý phải xác định các con số thu, chi
ngân sách nhà nước so với tình hình thu nhập trong nước, chi tiết hóa từng khoản thu,
chi nhằm đưa ra cơ chế sử dụng và quản lý nguồn thu phù hợp với hoạt động chi, từ đó
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
15
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
để làm cơ sở phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp ngân sách. Cân đối ngân
sách nhà nước phải dự đoán được các khoản thu, chi ngân sách một cách tổng thể để
đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội.
1.2.4. Vai trò của cân đối ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Cân đối ngân sách nhà nước là một công cụ quan trọng để Nhà nước can thiệp vào hoạt
động kinh tế- xã hội của đất nước, với vai trò quyết định đó thì cân đối ngân sách nhà
nước trong nền kinh tế thị trường có các vai trò sau:
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nước
thực hiện cân đối ngân sách nhà nước thông qua chính sách thuế, chính sách chi tiêu
hàng năm và quyết định mức bội chi cụ thể nên có nhiều tác động đến hoạt động kinh tế
cũng như cán cân thương mại quốc tế. Từ đó góp phần ổn định việc thực các mục tiêu
của chính sách kinh tế vĩ mô như: Tăng trưởng mức thu nhập bình quân trong nền kinh
tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát được duy trì ở mức ổn định và có thể dự toán được,

- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần phân bổ, sử dụng nguồn lực tài
chính có hiệu quả, để đảm bảo được vai trò này ngay từ khi lập dự toán Nhà nước đã lựa
chọn trình tự ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân sách nhà nước và sự gắn kết chặt chẽ
giữa chiến lược phát triển kinh tế- xã hội với công tác lập kế hoạch ngân sách. Trong
phân cấp quản lý ngân sách, nếu cân đối ngân sách nhà nước phân định nguồn thu một
cách hợp lý giữa trung ương với địa phương và giữa các địa phương với nhau thì sẽ đảm
bảo thực hiện được các mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra.
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần đảm bảo công bằng xã hội, giảm
thiểu sự bất bình đẳng giữa các địa phương. Nước ta với mỗi một vùng lại có một điều
kiện kinh tế- xã hội khác nhau, có những vùng điều kiện kinh tế- xã hội rất khó khăn

làm ảnh hưởng đến thu nhập và chất lượng cuộc sống của người dân, có những vùng
điều kiện kinh tế- xã hội thuận lợi, phát triển làm cho thu nhập và cuộc sống của người
dân được nâng lên. Vì vậy cân đối ngân sách nhà nước sẽ đảm được sự công bằng, giảm
thiểu sự bất bình đẳng giữa người dân và các vùng miền. Nhà nước có thể huy động
nguồn lực từ những người có thu nhập cao, những vùng có kinh tế phát triển để hổ trợ,
giúp đỡ những người nghèo có thu nhập thấp và những vùng kinh tế kém phát triển. Bên
cạnh đó, cân đối ngân sách nhà nước góp phần phát huy lợi thế của từng địa phương, tạo
nên thế mạnh kinh tế cho địa phương đó dựa trên tiềm năng có sẳn của địa phương.
Tóm lại, , Ngân sách nhà nước vừa là công cụ tài chính quan trọng, vừa là đạo luật của
một quốc gia. Nó được thiết lập và vận hành cùng với sự tồn tại và phát triển của quốc
gia đó. Đặc biệt trong thời kỳ chuyển đổi và hội nhập như hiện nay, ngân sách nhà nước
và vấn đề cân đối ngân sách càng đóng vai trò quan trọng hơn vào sự phát triển đất
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
16
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
nước, bình ổn xã hội. Hiểu và vận dụng tốt các học thuyết về cân đối ngân sách nhà
nước sẽ giúp nước ta có thể giải quyết những vấn đề còn tồn đọng về ngân sách nhà
nước trong thời gian vừa qua. Ngân sách nhà nước được cân đối, ổn định sẽ giúp Nhà
nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình đối với toàn dân, toàn xã hội.
Chương II:
NỘI DUNG VẤN ĐỀ CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1 Nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước
Cân đối ngân sách nhà nước là vấn đề rất quan trọng và cần thiết để Nhà nước thực
hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Nhưng để ngân sách nhà nước được giữ ở
mức cân đối và ổn định thì không đơn giản, vì nó còn phụ thuộc nhiều yếu tố như: Tình
hình kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia. Hiện nay, vấn đề lạm phát tăng
nhanh, khủng hoảng kinh tế, thiên tai,… đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thu, chi
ngân sách nhà nước. Sự không ổn định trong hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước đã
dẫn đến tình trạng mất cân đối ngân sách nhà nước. Đối với Việt Nam, từ khi đất nước
chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, cùng với vai trò của Nhà nước được nâng lên

trong hoạt động kinh tế thì việc cân đối đối ngân sách nhà nước ngày càng được chú
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
17
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
trọng hơn. Nắm được tầm quan trọng của cân đối ngân sách nhà nước trong sự nghiệp
phát triển đất nước và ổn định xã hội, nước ta đã đưa ra những chính sách và biện pháp
để đảm bảo cho ngân sách nhà nước được cân đối. Nhưng trước hết nước ta cần phải
xây dựng nguyên tắc cân đối ngân sách phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị và xã
hội của nước mình thì việc cân đối mới đảm bảo hiệu quả. Mặt khác, việc xây dựng
nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước phải được bắt đầu từ việc xác định vai trò của
nhà nước và phù hợp với từng bối cảnh cụ thể
12
.
Theo luật ngân sách nhà nước 2002 thì ngân sách nhà nước được cân đối dựa trên
nguyên tắc sau:
+ Tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần
tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển, trường hợp còn bội chi, thì số bội chi
phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách.Nguyên tắc này
đã phân định ranh giới giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, thể hiện sự thận
trọng trong chính sách tài khóa của Việt Nam. Theo đó, các khoản thu thường xuyên
được sử dụng để trang trải chi thường xuyên và một phần thu thường xuyên cùng với
thu bù đắp được sử dụng để chi đầu tư phát triển
13
. Trong đó, chi đầu tư phát triển được
chú trọng hơn, vì nó có thể làm tăng khả năng thu hồi vốn cho ngân sách nhà nước
nhưng phải đảm bảo được sự cân đối giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, vì
giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong chi tiêu công của Nhà nước. Chi
đầu tư phát triển là hoạt động cần thiết đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của một quốc
gia. Nó tạo ra những điều kiện cở sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho nền kinh tế, cũng từ
đó kéo theo sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác và đảm bảo các vấn đề xã hội của đất

nước, giúp nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Vì vậy chi đầu tư
phát triển là vấn đề được Nhà nước ưu tiên trong xây dựng nguyên tắc cân đối ngân
sách nhà nước.
+ Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và nước
ngoài. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc không sử dụng
cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để
chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay thì vấn
đề bội chi ngân sách là không thể tránh khỏi đối với một quốc gia. Nhưng chưa hẵn bội
chi ngân sách nhà nước là biểu hiện sự yếu kém của nền kinh tế, mà nó còn là một trong
các cách thức tạo ra sự cân đối ngân sách nhà nước trong dài hạn, đảm bảo cho nền kinh
tế- xã hội phát triển và ổn định. Nguyên tắc vay bù đắp bội chi nên dành cho mục đích
12
Xem:Nguyễn Thị Bình Minh và Bùi Thị Mai Hòa, “Cân đối ngân sách nhà nước nhìn từ góc độ lý luận và
thực tiển” , Tạp chí tài chính số 10/2006, Trang 33.
13
Xem: Nguyễn Thị Bình Minh và Bùi Thị Mai Hòa, “Cân đối ngân sách nhà nước nhìn từ góc độ lý luận và
thực tiển” , Tạp chí tài chính số 10/2006, Trang 38.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
18
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
phát triển và đảm bảo bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn là rất cần thiết
để đảm bảo ngân sách nhà nước được cân đối, tận dụng được nguồn vốn vay một cách
có hiệu quả. Chi cho tiêu dùng là hoạt động chi không mang tính chất thu hồi vốn và
không tạo thặng dư, do đó nguồn vay bù đắp bội chi chỉ để dành cho mục đích phát
triển. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt
quá tổng số thu; trường hợp tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu đầu tư xây
dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh
mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định,
nhưng không vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được
phép huy động vốn không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng

năm của ngân sách cấp tỉnh.
+ Nguyên tắc này đã tạo cho chính quyền địa phương có được nhiều ưu thế hơn
trong việc quyết định ngân sách cấp mình. Vấn đề cho phép cấp tỉnh vay nợ là cần thiết,
giúp cho chính quyền địa phương có thể chủ động hơn trong việc tạo ra những điều kiện
về cơ sở vật chất hạ tầng để phát triển kinh tế và đảm bảo vấn đề xã hội của địa phương
mình. Tuy nhiên, khoản vay nợ này lại được tính vào thu trong cân đối ngân sách địa
phương, do vậy nhìn một cách tổng thể thì ngân sách địa phương tôn trọng nguyên tắc
phải cân bằng thu chi theo quy định của luật ngân sách nhà nước năm 2002, song thực
chất ngân sách địa phương có bội chi và khoản bội chi này lại không tính vào trong bội
chi ngân sách nhà nước. Điều này dẫn đến sự thiếu minh bạch trong cân đối ngân sách
nhà nước ở Việt Nam. Ngoài ra việc quy định tỷ lệ tối đa chung cho mọi địa phương là
30%( trừ Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) là chưa hợp lý, vì mỗi địa phương có điều kiện
kinh tế, xã hội khác nhau nên nhu cầu vay nợ, khả năng quản lý nợ và hoàn trả nợ là
khác nhau.
Ngoài những nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước theo quy định của luật hiện hành,
thì trong quá trình cân đối ngân sách nhà nước thì cần phải dựa trên hệ thống các
nguyên tắc lập ngân sách và quản lý chi tiêu công hiệu quả như:
• Tính tổng thể và tính kỷ luật tài chính: Để kiểm soát được các nguồn tài
chính có hiệu quả, yêu cầu trong cân đối ngân sách nhà nước phải đánh giá đúng nguồn
lực tài chính đó và lựa chọn những công cụ thích hợp nhất để phân bổ nguồn lực nhằm
đạt được mục tiêu ngân sách đã đề ra. Điều này có nghĩa là, khi cân đối ngân sách nhà
nước thì những quyết định về chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên cần phải được
gắn kết với nhau. Trong chi tiêu ngân sách nhà nước cần tập trung chi vào những khoản
cần thiết, chi tiêu tiết kiệm, tránh lãng phí để thực hiện tốt các chiến lược mà chính phủ
đề ra.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
19
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
• Tính linh hoạt và tính tiên liệu: Trong cân đối ngân sách nhà nước, tính
linh hoạt và tính tiên liệu là cần thiết, vì nó giúp nhà quản lý đưa ra cách xử lý và điều

phối nguồn lực tài chính một cách hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi để nhà nước thực hiện
các mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra. Tính linh hoạt yêu cầu phải trao quyền cho người
quản lystrong việc ra quyết định phân bổ nguồn lực tài chính. Tính tiên liệu đóng vai trò
quan trọng trong việc thực hiện chính sách và chương trình có hiệu quả. Nguyên tắc này
đòi hỏi cân đối ngân sách nhà nước phải chú ý đến sự cân đối trong ngắn hạn và dài
hạn, và phải vận dụng cách tiếp cận trung hạn đối với việc điều chỉnh mất cân đối ngân
sách nhà nước.
• Tính trung thực: Khi cân đối ngân sách nên dựa vào những dự toán đã
được lập từ thực tế tình hình kinh tế- xã hội của đất nước, mà không có sự thiên vị về
vấn đề thu hoặc chi ngân sách nhà nước. Những dự toán quá lạc quan sẽ dễ đưa đến sự
vi phạm tính kỷ luật tài chính và dẫn đến việc không thực hiện được những chiến lươc,
chính sách Nhà nước đã đề ra.
• Thông tin, minh bạch và trách nhiệm: Đây là vấn đề rất cần thiết trong
cân đối ngân sách nhà nước. Thông tin tốt sẽ làm tăng thêm tính trung thực và giúp
người quản lý sẽ đưa ra những quyết định hợp lý. Thông tin chính xác và kịp thời về chi
phí, đầu ra và kết quả đạt được sẽ giúp cho quá trình thực hiện cân đối ngân sách nhà
nước đạt hiệu quả. Tính minh bạch và trách nhiệm trước hết yêu cầu những người ra
quyết định phải có tất cả những dữ liệu và thông tin thích hợp, phải chịu trách nhiệm về
quyết định của mình.
2.2 Cân đối giữa các khoản thu và khoản chi ngân sách nhà nước trong cơ
cấu ngân sách nhà nước
Trong ngân sách nhà nước, cơ cấu các khoản thu và chi ngân sách nhà nước có liên quan
mật thiết đến vấn đề cân đối ngân sách nhà nước.Vì cân đối ngân sách chính là sự cân
bằng về các khoản thu và chi ngân sách, đảm bảo cho sự cân bằng này thì trong quá
trình cân đối ngân sách nhà nước phải dựa trên một cơ cấu ngân sách hợp lý và được
phân định rỏ ràng. Cơ cấu ngân sách nhà nước sẽ giúp cho cân đối ngân sách nhà nước
thực hiện dễ dàng và xác thực hơn. Dựa vào cơ cấu thu, Nhà nước sẽ xác định được
những khoản thu vào ngân sách nhà nước trong một năm tài khóa, từ đó làm cơ sở tiền
đề cho việc tiến hành thực hiện các khoản chi ngân sách nhà nước và Nhà nước có thể
dựa vào những khoản thu đã được dự kiến sẵn để lên kế hoạch chi tiêu hợp lý trong năm

đó. Ngược lại, các khoản chi ngân sách nhà nước là mục tiêu hướng tới và là giới hạn để
xây dựng kế hoạch thu ngân sách nhà nước. Nhà nước dựa vào cơ cấu chi ngân sách nhà
nước để từ đó dự trù được các khoản phải chi trong năm, nhưng phải đảm bảo được sự
phối hợp cân đối giữa các khoản thu và chi ngân sách nhà nước để đạt được mục tiêu
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
20
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
ngân sách đề ra. Ta thấy, các khoản thu và chi ngân sách nước có mối quan hệ chặt chẽ,
hỗ trợ cho nhau trong suốt một năm ngân sách và cùng hướng tới mục tiêu đảm bảo cho
ngân sách nhà nước được cân đối và ổn định.
2.2.1 Cơ cấu các khoản thu trong cân đối ngân sách nhà nước
o Nhìn từ góc độ kinh tế: Thu ngân sách nhà nước được hiểu là nguồn vốn tiền
tệ của Nhà nước do Nhà nước huy động để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của chính bộ máy
nhà nước đó.
o Nhìn từ góc pháp lý: Thu ngân sách nhà nước đó là những khoản thu theo
những hình thức pháp lý nhất định. Theo đó, thu ngân sách nhà nước được cụ thể hóa
trong văn bản pháp luật thực định như sau:
“Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí,lệ phí, các khoản thu từ
hoạt động kinh tế của Nhà nước, các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân, các
khoản viện trợ, các khoản thu khác theo quy định của pháp luật”.[ Khoản 1 Điều 2 Luật
ngân sách nhà nước 2002]
Các khoản thu của ngân sách nhà nước chủ yếu được chia thành hai loại sau:
• Thu có tính chất hoa lợi: Theo thông lệ các khoản thu có tính chất hoa lợi bao
gồm: Khoản thu về thuế; khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước; khoản đóng góp
tự nguyện của tổ chức, cá nhân; khoản thu từ viện trợ không hoàn lại của nước ngoài
cho chính phủ;… Trong đó khoản thu về thuế được xem là quan trọng và thương xuyên
nhất, nó đóng góp một phần lớn vào nguồn thu của ngân sách nhà nước.
Thu có tính chất hoa lợi dựa vào hai yếu tố sau: Những khoản thu làm tăng ngân quỹ
nhưng không làm tăng trái khoản ( tức là làm tăng các khoản nợ).
• Thu không có tính chất hoa lợi: Theo quan điểm của Philip E.Taylor, khoản

thu không có tính chất hoa lợi được hiểu là những khoản thu làm tăng ngân quỹ nhưng
đồng thời cũng làm tăng một số lượng tương ứng các trái vụ của quốc gia
14
. Tức là thu
vào ngân sách nhà nước bao nhiêu thì cũng sẽ dùng để chi tương ứng như vậy, nó không
góp phần làm tăng ngân sách nhà nước. Các khoản thu này bao gồm: Thu về vay nợ và
viện trợ có hoàn lại; thu về lệ phí và phí;…
Trong cơ cấu các khoản thu ngân sách nhà nước, có những khoản thu cơ bản và mang
tính chất thường xuyên ảnh hưởng lớn đến vấn đề cân đối ngân sách nhà nước ở nước ta
hiện nay như: các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế
của nhà nước; các khoản thu từ các hoạt động viện trợ; các khoản đóng góp tự nguyện
của cá nhân và tổ chức.
2.2.1.1 Thu từ thuế, phí và lệ phí
14
Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, NXB Tư Pháp 2007, Trang 23.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
21
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
Thuế, phí và lệ phí đều là nguồn thu chủ yếu, thường xuyên của ngân sách nhà nước.
Các khoản thu này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn cho ngân sách nhà nước
và là công cụ để Nhà nước điều hành, quản lý xã hội góp phần thực hiện công bằng xã
hội. Các khoản thu này mang gía trị pháp lý cao, vì nó gắn liền với quyền lực của nhà
nước
15
. Nguồn thu từ thuế, phí và lệ phí vừa đảm bảo để ngân sách nhà nước chi cho
tiêu dùng, vừa hổ trợ cho chi đầu tư phát triển và chi cho tiêu dùng. Khi những nguồn
thu này bị tổn thất thì thường kéo theo tình trạng ngân sách nhà nước thu không đủ chi,
làm mất cân đối ngân sách nhà nước.
Thuế là khoản thu mang tính cưỡng chế của Nhà nước, nhằm động viên một bộ phận
thu nhập từ lao động, của cải, vốn, từ việc chi tiêu hàng hóa, dịch vụ và từ việc lưu giữ,

chuyển dịch tài sản của các tổ chức và cá nhân tập trung vào quỹ ngân sách nhà nước để
phục vụ nhu cầu chi tiêu của nhà nước
16
. Thu từ thuế là nguồn thu chiếm tỷ trọng chủ
yếu trong tổng thu ngân sách nhà nước chiếm khoản 90%, bỡi vì thuế đánh vào tất cả
các hoạt động tiêu dùng của xã hội như: hoạt động sản xuất, chế tạo, sữa chữa, chế biến,
… Còn đối với cá nhân, thuế đánh vào tất cả các thu nhập thường xuyên và bất thường
của họ dựa vào những quy định cụ thể của luật thuế. Thuế là khoản thu mang tính pháp
lý cao, được cụ thể hóa thành luật và do Quốc hội thông qua. Để đảm bảo thuế trở thành
nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, Nhà nước cần phải xác lập một hệ thống
thuế có khả năng bao quát đầy đủ các nguồn thu đã, đang và sẽ phát sinh trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, tổ chức thu nộp thuế phải chặt chẽ, đảm bảo thu đúng, thu
đủ, thu kịp thời.
Phí là khoản thu nhằm thu hồi chi phí đầu tư cung cấp các dịch vụ công cộng không
thuần túy theo quy định của pháp luật và là khoản tiền mà các tổ chức, cá nhân phải trả
khi sử dụng các dịch vụ công cộng đó
17
. Việc thu phí là hết sức cần thiết, khách quan,
phù hợp với vai trò quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước. Thu phí sẽ làm tăng thu nhập
cho ngân sách nhà nước, từ đó làm tăng khả năng đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất hàng
hóa và các dịch vụ công cộng, đảm bảo công bằng xã hội. Các khoản thu từ phí cũng có
thể là những khoản thu đưa vào ngân sách nhà nước, cũng có thể là những khoản thu để
lại cho các đơn vị thu sử dụng. Đối với các khoản thu về cho ngân sách nhà nước, đây là
một trong những nguồn thu quan trọng của các cấp ngân sách và được đưa vào cân đối
chung của ngân sách các cấp.
Lệ phí là những khoản thu gắn liền với việc cung cấp các dịch vụ hành chính pháp lý
của nhà nước cho các cá nhân và tổ chức nhằm phục vụ cho công việc quản lý hành
15
Học viện tài chính, Giáo trình quản lý tài chính nhà nước, NXB Tài Chính 2004, Trang 159.
16

Học viện tài chính, Giáo trình quản lý tài chính nhà nước, NXB Tài Chính 2004, Trang 115.
17
Lê thị Nguyệt Châu, Giáo trình Luật ngân sách nhà nước, Tủ sách đại học Cần Thơ 2007, Trang 49.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
22
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
chính nhà nước theo quy định của pháp luật
18
. Khoản tiền này không phải là giá dịch vụ
mà là khoản thu phục vụ cho yêu cầu quản lý của nhà nước. Chỉ có một số cơ quan
thuộc bộ máy nhà nước mới được phép thu lệ phí và phải được quy định cụ thể trong
văn bản pháp luật hoặc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Lệ phí là nguồn thu nộp
hoàn toàn vào ngân sách nhà nước và là nguồn thu thường xuyên của ngân sách các
cấp.Vì vậy thu lệ phí được bố trí trong cân đối thu chi của ngân sách các cấp, đảm bảo
cho nhu cầu chi bình thường của ngân sách cấp đó.
2.2.1.2 Các khoản thu ngoài thuế, phí và lệ phí
Ngoài nguồn thu cơ bản từ thuế, phí và lệ phí thì ngân sách nhà nước còn bao gồm
những nguồn thu khác bổ sung vào ngân sách nhà nước. Những nguồn thu đó không
mang tính chất thường xuyên, ổn định và chỉ là phần đóng góp khá nhỏ vào ngân sách
nhà nước nhưng nó cũng đảm bảo cho Nhà nước có nguồn vốn để thực hiện các mục
tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra, góp phần cân đối giữa hoạt động thu chi của ngân sách nhà
nước.
 Thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước: Bao gồm tiền thu hồi vốn của nhà
nước tại các cơ sở kinh tế, thu hồi tiền cho vay của nhà nước đối với các tổ chức và cá
nhân, thu nhập của nhà nước từ việc góp vốn vào các cơ sở kinh tế, kể cả thu từ lợi
nhuận sau khi thực hiện nghĩa vụ về thuế của tổ chức kinh tế có sự tham gia góp vốn
của nhà nước.
 Thu từ hoạt động viện trợ: Bao gồm các khoản thu từ viện trợ nhân dân,
viện trợ không hoàn lại của các quốc gia và các tổ chức quốc tế,…Đây là những nguồn
quan trọng để bổ sung vào ngân sách nhà nước, giúp cho nhà nước thực hiện các khoản

chi phát triển, cải cách kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống người dân.
 Thu từ các khoản đóng góp tự nguyện của cá nhân và tổ chức: Đây là
những khoản thu không mang tính ổn định vào ngân sách nhà nước, nhưng nó cũng góp
một phần qua trọng cho ngân sách nhà nước khi nhà nước tiến hành chi cho các vấn đề
xã hội của đất nước, các chương trình phát triển về giáo dục, kinh tế- xã hội,…góp phần
bù đắp những khoản thiếu hụt cho ngân sách nhà nước.
2.2.2 Cơ cấu các khoản chi trong cân đối ngân sách nhà nước
- Nhìn từ góc độ kinh tế: Chi ngân sách nhà nước là việc Nhà nước đã sử dụng
các hoạt động tài chính thông qua việc sử dụng ngân sách nhà nước để tài trợ cho việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước trong một thời hạn nhất định.
- Nhìn từ góc độ pháp lý: Chi ngân sách nhà nước là một chế độ tài chính đặc thù theo
đó Nhà nước thể hiện quyền sở hữu của mình đối với ngân sách nhà nước thong qua
việc cấp phát tài chính cho những đối tượng thuộc diện hưởng ngân sách nhà nước.
18
Lê thị Nguyệt Châu, Giáo trình Luật ngân sách nhà nước, Tủ sách đại học Cần Thơ 2007, Trang 49.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
23
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
Theo đó, chi ngân sách nhà nước được quy định tại Khoản 2 Điều 2 Luật ngân sách nhà
nước 2002:
“ Chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước, chi trả nợ của Nhà
nước, chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật”.
Cơ cấu chi ngân sách nhà nước được phân biệt thành hai loại sau:
 Các khoản chi có tính chất phí tổn: Là những khoản chi làm giảm ngân quỹ
nhưng không làm giảm trái vụ của quốc gia, tức là những khoản chi này không làm
giảm bớt nghĩa vụ thanh toán nợ nhưng lại làm giảm ngân quỹ của quốc gia
19
. Bao gồm
các khoản chi như: Chi viện trợ không hoàn lại cho nước ngoài; chi trợ cấp cho các đối

tượng chính sách xã hội;… Những khoản chi này gây nhiều tổn thất cho ngân sách nhà
nước, nhưng vì trách nhiệm chăm lo cho nhân dân và tinh thần hữu nghị quốc tế nên
ngân sách nhà nước cần phải chi những khoản đó.
 Các khoản chi không có tính chất phí tổn: Là những khoản chi làm giảm ngân
quỹ đồng thời cũng làm giảm trái vụ tương ứng của quốc gia, tức là những khoản chi
này sẽ làm giảm ngân quỹ của quốc gia đồng cũng làm giảm nghĩa vụ thanh toán nợ của
quốc gia đó
20
. Bao gồm các khoản chi như: Chi trả nợ của Nhà nước đối với các tổ chức,
cá nhân trong nước hoặc nước ngoài; chi đầu tư phát triển; chi cho sự nghiệp kinh tế;…
Các khoản chi này cũng không làm ảnh hưởng nhiều đến việc làm tăng hay giảm ngân
sách nhà nước, vì việc chi ra bao nhiêu sẽ làm giảm gánh nặng về nợ cho Nhà nước bấy
nhiêu.
Nội dung chi ngân sách rất đa dạng và phức tạp, bao gồm nhiều khoản mục khác
nhau. Vì vậy, Nhà nước sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình điều phối và sử dụng
ngân sách nhà nước. Nếu các khoản chi này không được phân loại rỏ ràng sẽ dễ dẫn đến
tình trạng chi tiêu không hợp lý, không đảm bảo được mục tiêu ngân sách đã đề ra và
ảnh hưởng đến sự thăng bằng trong ngân sách nhà nước. Các khoản chi được cơ cấu
hợp lý, đánh giá đúng mức độ, sự cần thiết và lợi ích của từng khoản chi sẽ mang lại
những hiệu quả thiết thực cho sự phát triển của đất nước. Trong cơ cấu chi ngân sách
nhà nước, bao gồm các khoản chi như: chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên và những
khoản chi khác được đảm bảo bằng nguồn thu của ngân sách nhà nước được xem là
những khoản chi cơ bản trong cân đối ngân sách nhà nước ở nước ta hiện nay.
2.2.2.1 Chi đầu tư phát triển
Chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước là quá trình nhà nước sử dụng một phần
vốn tiền tệ đã được tạo lập thông qua hoạt động thu của ngân sách nhà nước để đầu tư
19
Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, NXB Tư Pháp 2007, Trang 24.
20
Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, NXB Tư Pháp 2007, Trang 25.

GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
24
Cân đối ngân sách Nhà Nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện
xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất và để dự trữ vật tư hàng hóa
nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. Chi đầu
tư phát triển chủ yếu là những khoản chi nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật và tạo điều
kiện cho nền kinh tế tăng trưởng
21
. Ở Việt Nam hang năm ngân sách nhà nước đã giành
một lượng vốn lớn để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, đầu tư phát triển
sản xuất, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Chi đầu tư phát triển là khoản chi quan trọng nhưng không mang tính ổn định. Khoản
chi này tạo ra nguồn tài sản cố định, năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế. Mỗi năm,
Nhà nước phải bỏ ra một nguồn vốn khá lớn chi cho các hoạt động này nhưng do các dự
án đầu tư phát triển mỗi năm là khác nhau, nguồn tài chính của nhà nước cũng thay đổi
theo từng năm tùy thuộc nguồn thu vào ngân sách nhà nước. Dù vậy, Nhà nước ta vẫn
đảm bảo cho hoạt động chi đầu tư phát triển đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Chi đầu tư phát triển bao gồm những nội dung sau: Chi về đầu tư xây dựng
cơ bản; chi để hình thành và bổ sung vốn lưu động của doanh nghiệp nhà nước; chi cho
quỹ dự trữ tài chính; chi bổ sung một phần vốn điều lệ của quỹ hổ trợ phát triển để thực
hiện các hoạt động tín dụng đầu tư phát triển,… Trong chi đầu tư xây dựng cơ bản là
khoản chi lớn nhất nhưng nó cũng là khoản chi khá nhạy cảm dễ dẫn đến thất thoát lãng
phí trong quá trình sử dụng, vì vậy Nhà nước cần phải có những biện pháp giám sát,
quản lý chặt chẽ để tránh thất thoát, lãng phí ngân sách nhà nước.
2.2.2.2 Chi thường xuyên
Chi thường xuyên của ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng vốn từ quỹ
ngân sách nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ
thường xuyên của nhà nước về kinh tế- xã hội
22
. Hiện nay sự phát triển kinh tế- xã hội

của đất nước đã làm cho các khoản chi thường xuyên tăng lên với nhiều nội dung chi
khác nhau như: Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, dạy nghề, y tế, xã hội, văn
hóa thông tin, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường
các sự nghiệp khác; các hoạt động sự nghiệp kinh tế; các nhiệm vụ về quốc phòng, an
ninh, trật tự an toàn xã hội theo quy định của chính phủ và các văn bản hướng dẫn thực
hiện; hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam; hoạt động
của các tổ chức chính trị xã hội như: Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam, hội cựu chiến
binh Việt Nam, hội lien hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh;
hỗ trợ các tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề
nghiệp; phần chi thường xuyên trong các chương trình mục tiêu quốc gia; trợ giá theo
chính sách của nhà nước; các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật.
21
Học viện tài chính, Giáo trình quản lý tài chính nhà nước, NXB Tài Chính 2004, Trang 181- 182.
22
Học viện tài chính, Giáo trình quản lý tài chính nhà nước, NXB Tài Chính 2004, Trang 219.
GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh SVTH: Quách Hồng Thơ
25

×