Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Ứng dụng một số bài tập nâng cao thể lực chung cho sinh viên các ngành kỹ thuật trường đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.22 KB, 72 trang )


Trong sự nghiệp đổi mới ngày nay, con người luôn chiếm vị trí hàng đầu,
bởi vì chỉ có con người lao động và sáng tạo thì mới có thể thực hiện được mục
tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Giáo dục thể chất (GDTC) cho thế hệ trẻ là một bộ phận cơ bản trong hệ
thống GDTC nhân dân, trong đó các bài tập thể dục thể thao (TDTT) là một biện
pháp quan trọng nhằm đem lại sức khoẻ cho mọi người và thể chất cường tráng
cho thế hệ mai sau. Trong dự thảo nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX có
viết “Phát triển mạnh mẽ phong trào TDTT quần chúng cả bề rộng lẫn chiều sâu,
làm cho TDTT thực sự trở thành một phương tiện đại chúng, góp phần bảo vệ và
tăng cường sức khoẻ cho nhân dân, phục vụ các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội
của đất nước”. Muốn phát triển phong trào TDTT thì không thể thiếu được vai trò
GDTC trong nhà trường ở các cấp học.
Những năm cuối thế kỷ XX, cách mạng khoa học và công nghệ đạt tới đỉnh
cao của sự phát triển, đòi hỏi con người phải có trí tuệ cao. Trí tuệ phát triển càng
cao, thì đòi hỏi thể chất, nền tảng của trí tuệ, cũng được phát triển một cách tương
xứng. Việc nâng cao sức khoẻ con người, là vấn đề trọng tâm, cốt lõi của mọi mô
hình phát triển của các quốc gia, các chế độ chính trị xã hội. Vì vậy, Đảng và nhà
nước ta luôn luôn coi trọng phát triển thế hệ trẻ theo hướng “ Cao về trí tuệ, cường
tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”.
Đây là quan điểm phát triển con người toàn diện trong giai đoạn cách mạng
hiện nay. Những năm qua ở nước ta công tác giáo dục thể chất trong các nhà
trường đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Ở tất cả các cấp học, một chương trình giáo
dục thể chất đã được biên soạn thống nhất, với nhiều nội dung cơ bản đã được đưa
vào giảng dạy. Đội ngũ giáo viên giảng dạy thể dục đông về số lượng, chất lượng
cũng được nâng cao.
Để giáo dục con người phát triển toàn diện, mỗi học sinh, sinh viên trước hết
phải có sức khoẻ. Sức khoẻ là cơ sở tiếp thu khoa học kỹ thuật, sau khi ra trường
1
góp phần xây dựng đất nước, cở sở của sức khoẻ là phát triển các tố chất thể lực.
Nhiệm vụ của GDTC trong các nhà trường một mặt trang bị cho sinh viên tiếp thu


được các kỹ năng, kỹ xảo nhưng mặt quan trọng hơn là phát triển cho họ những tố
chất thể lực cần thiết.
Một số công trình nghiên cứu khoa học ở nước ta, đã xác nhận rằng trình độ
thể lực chung của học sinh, sinh viên Việt nam còn ở mức độ yếu nên các tác giả
cũng đề nghị nên đưa vào chương trình Giáo dục thể chất các bài tập phát triển các
tố chất thể lực cho học sinh và sinh viên ở tất cả các cấp học.
Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà nội là một trong những
trường Đại học mới được thành lập. Trường có nhiệm vụ đào tạo cử nhân Kinh tế
và Kỹ sư của một số ngành kỹ thuật như: Công nghệ thông tin, Cơ - Điện tử, Điện
- Điện tử, Xây dựng, Kiến trúc…
Thực tiễn công tác GDTC tại trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà
Nội cho thấy, trong những năm qua nhà trường luôn kiểm tra, đánh giá trình độ thể
lực của sinh viên, cũng như đánh giá công tác GDTC. Tuy nhiên hiệu quả của công
tác này chưa cao do việc thực hiện chưa đồng bộ, sân bãi dụng cụ còn thiếu. Việc
đánh giá thể lực của sinh viên chỉ diễn ra ở một số môn học cũng như một bộ phận
không nhỏ sinh viên không đạt tiêu chuẩn thể lực do Bộ Giáo dục và Đào tạo
(GD&ĐT) ban hành.
Đặc thù của khối các ngành kỹ thuật chủ yếu là nam sinh viên, khối lượng
học tập lớn. Sau khi tốt nghiệp công việc đại đa số là vất vả và nặng nhọc. Qua
quan sát trình độ thể lực chung của sinh viên các ngành khối kỹ thuật cho thấy,
trình độ thể lực chung của sinh viên không đồng đều và còn thấp. Thông qua các
kỳ kiểm tra kết thúc môn học GDTC cho thấy khoảng trên 30% sinh viên không
đạt yêu cầu.
Xuất phát từ những lý do đó, chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Ứng dụng một
số bài tập nâng cao thể lực chung cho sinh viên các ngành kỹ thuật trường đại
học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội”.
2
Thông qua nghiên cứu các cơ sở lý luận và thực tiễn
trong công tác giảng dạy môn giáo dục thể chất tại trường đại học Kinh doanh và
Công nghệ Hà Nội chúng tôi lựa chọn và áp dụng các bài tập nhằm phát triển thể

lực chung cho nam sinh viên của trường theo đặc thù các chuyên ngành đào tạo.
Thông qua đó nâng cao được chất lượng công tác giảng dạy môn GDTC nói riêng
và chất lượng đào tạo chung của nhà trường.

Để đạt được mục đích đề ra, đề tài tiến hành giải quyết các mục tiêu sau:
Mục tiêu 1: Nghiên cứu thực trạng công tác giảng dạy môn giáo dục thể chất
tại trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà nội.
Mục tiêu 2: Lựa chọn và đánh giá hiệu quả các bài tập nâng cao thể lực
chung cho sinh viên trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà nội.
3

 !"#$%&
''(()*+,-./012345/6+,75
!8/1+9:--4;0<=4,=(>-<7'
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và
làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, mỗi người cần phải học
tập và làm theo những chuẩn mực và tấm gương đạo đức của Người. Trong lĩnh
vực thể dục thể thao, quan điểm “Dân cường thì quốc thịnh” của Người càng có ý
nghĩa sâu sắc và thiết thực. Tấm gương rèn luyện thân thể của Người là một thực
tiễn sinh động, một bài học quí báu để mỗi người trong chúng ta có thể góp phần
mình vào công cuộc xây dựng một dân tộc, một đất nước giàu về vật chất, văn
minh về văn hóa, mạnh mẽ về tinh thần. Đó cũng là một trong những hành động
thiết thực nhằm thực hiện mục tiêu của công cuộc đổi mới, nhằm mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ
cộng hoà ra đời, nhưng dân tộc ta, Đảng ta đứng trước muôn vàn khó khăn thử
thách; giặc ngoài thù trong cùng với giặc đói, giặc dốt, giặc lụt đe doạ chính quyền
cách mạng non trẻ. Giữa lúc công việc bộn bề, nhiều vấn đề cấp bách phải giải
quyết, nhưng chỉ gần 5 tháng sau Lễ tuyên ngôn độc lập, ngày 30 tháng Giêng năm
1946, Người ký Sắc lệnh số 14 về việc lập Nha Thể dục Trung ương trực thuộc Bộ

Thanh niên. Sắc lệnh qui định Nha Thể dục Trung ương có nhiệm vụ cùng Bộ Y tế
và Bộ Quốc gia giáo dục nghiên cứu phương pháp và thực hành thể dục trong toàn
quốc. Bộ Thanh niên sẽ ấn định những việc về tổ chức và ngân sách của Nha Thể
dục Trung ương. Sau đó ít ngày, Trường thể dục đã ra đời và đặt cơ sở tại căn nhà
ở đường Cột Cờ (Hà Nội) - nơi trước đó là một khu trại học tập của sĩ quan Pháp.
Đây là sự kiện, là dấu mốc khai sinh ngành Thể dục thể thao cách mạng Việt
Nam. Tiếp đó, ngày 27 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số
38 về việc lập Nha Thanh niên và Thể dục trực thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục với cơ
4
cấu gồm Phòng Thanh niên và Phòng Thể dục Trung ương
.
Cũng trong ngày ký
Sắc lệnh 38, Người viết bài Sức khoẻ và thể dục đăng trên báo Cứu quốc - Đây là
lời kêu gọi đầu tiên toàn dân tập thể dục của Người dưới chế độ mới. Tối ngày 26
tháng 5 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Lễ khai mạc Đại hội Thanh niên Hà Nội.
Tại đây, Lễ hội thanh niên vận động đã được phát động và Ban tổ chức đã mời
Người châm ngọn lửa phát động phong trào Khỏe vì nước. Từ Hà Nội, phong trào
này đã lan tỏa ra cả nước. Nhớ lại những sự kiện trên đây, chúng ta có thể khẳng
định, Bác Hồ không chỉ là người khai sinh ra ngành Thể dục thể thao cách mạng
Việt Nam, mà còn là người khởi xướng phong trào thể dục quần chúng với khẩu
hiệu cách mạng Khỏe vì nước.
Hồ Chủ tịch coi vấn đề TDTT và rèn luyện sức khỏe thể hiện tính nhân văn,
nhưng cao hơn, ở tầm vĩ mô: Khỏe vì nước, khỏe để phục vụ Tổ quốc, phụng sự
nhân dân. Rèn luyện sức khỏe là yêu nước, là trách nhiệm của người yêu nước. Đó
là quan điểm chính trị, cách mạng. Trong Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục, Người
đã thể hiện rõ quan điểm này. Người viết: “Giữ gìn dân chủ mới; xây dựng nước
nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành công. Mỗi một
người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu, mỗi một người dân mạnh khỏe, tức là cả
nước mạnh khỏe.
Vậy rèn luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của một người yêu

nước… Dân cường thì quốc thịnh. Tôi mong đồng bào ai cũng gắng tập thể dục”
.
Ngay trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu
nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vẫn có sự quan tâm sâu sắc tới lĩnh vực
quan trọng này. Tại Thủ đô kháng chiến Việt Bắc, ngành TDTT các hoạt động
TDTT vẫn được duy trì. Hồ Chí Minh vẫn luyện tập thường xuyên đồng thời rất
quan tâm đến việc rèn luyện sức khỏe của cán bộ, chiến sĩ.
Đối với thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở, muốn
làm chủ nhân tương lai của đất nước phải rèn luyện đạo đức cách mạng; học tập
văn hóa, kỹ thuật chuyên môn, đồng thời phải rèn luyện sức khỏe và thể chất, “có
5
khỏe mạnh mới đủ sức để tham gia một cách dẻo dai, bền bỉ vào những công việc
ích nước lợi dân”. Từ năm 1958, Người đã chỉ đạo Ủy ban Thể dục Thể thao Trung
ương phát động Phong trào Thể dục, vệ sinh trong học sinh, sinh viên toàn miền
Bắc. Để rèn luyện sức khỏe, sẵn sàng tham gia cách mạng, Người đã chỉ đạo việc
tổ chức phong trào tập luyện 5 môn thể thao vũ trang kết hợp Chạy, nhảy, bơi, bắn,
võ với khẩu hiệu Khỏe để sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Phong trào thi
đua rèn luyện trong các lực lượng vũ trang Vai trăm cân, chân ngàn dặm sẵn sàng
vượt Trường Sơn vào miền Nam chiến đấu đã có sự quan tâm sâu sắc của Người,
Đảng và Nhà nước và lãnh đạo lực lượng vũ trang. Trong những năm kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, khắp các địa phương trên miền Bắc các hoạt động thể dục
thể thao vẫn được duy trì thường xuyên. Khẩu hiệu Khỏe để lao động, chiến đấu,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã trở thành nếp sống, đi vào cuộc sống sinh hoạt của
đông đảo các tầng lớp nhân dân ngay cả trong những ngày ác liệt của cuộc chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và tay sai.
GDTC trong Nhà trường là một bộ phận quan trọng của nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa (XHCN). GDTC có tác dụng tích cực đối với sự hoàn thiện cá tính, nhân
cách, những phẩm chất cần thiết và hoàn thiện thể chất của học sinh nhằm đào tạo
con người mới phát triển toàn diện, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ gìn an ninh, quốc phòng.

Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu của GDTC trong nhà trường các cấp là
gắn liền và góp phần thực hiện mục tiêu của giáo dục và đào tạo theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII, nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có
tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ và năng động sáng tạo.
Đảng và Nhà nước luôn coi trọng công tác GDTC, coi như một mặt trong
mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường Xã hội chủ nghĩa, GDTC trong nhà
trường các cấp còn giữ vị trí quan trọng và then chốt trong chiến lược phát triển sự
nghiệp Thể dục Thể thao.
6
GDTC là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu giáo dục và đào tạo, đồng thời là
một bộ phận quan trọng của nền Thể dục Thể thao Việt Nam. GDTC trong trường
học, đang cùng với thể thao thành tích cao, thể thao cho mọi người và các bộ phận
thể dục thể thao khác, đảm bảo cho nền thể dục thể thao phát triển cân đối và
đồng bộ, góp phần thực hiện kế hoạch củng cố, xây dựng và phát triển thể dục thể
thao Việt Nam
Tháng 03/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn dân tập thể
dục, Người khảng định :… Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới,
việc gì cũng cần có sức khoẻ mới thành công. Mỗi một người dân yếu ớt là làm
cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi một người dân khoẻ mạnh, tức là góp phần cho
cả nước mạnh khoẻ…” Vì thế, Người khuyên “… Luyện tập thể dục bồi bổ sức
khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước …” [41]
Những quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo nói chung,
về GDTC trong trường học nói riêng, được xuất phát từ lý luận của học thuyết Mác
– Lê Nin về con người và sự phát triển con người toàn diện, từ tư tưởng quan điểm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về TDTT về giáo dục nói chung và GDTC cho thế hệ
trẻ nói riêng.
Từ những cơ sở lý luận đó, Đảng ta đã quán triệt trong suốt thời kỳ lãnh đạo
cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và tiến lên xây dựng CNXH ngày nay, được
cụ thể hoá qua Nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng, các Chỉ thị, các nghị quyết, Nghị

định, Thông tư về TDTT, ở từng giai đoạn cách mạng theo yêu cầu nhiệm vụ và
tình hình cụ thể của đất nước
Nghị quyết Đại hội Đảng III viết “… Công tác giáo dục phải được phát triển
theo quy mô lớn, nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ thành người lao động làm chủ nước
nhà, có giác ngộ XHCN, có văn hoá và có khoa học kỹ thuật, có sức khoẻ nhằm
phục vụ đắc lực cho việc đào tạo cán bộ và nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân
lao động…”.
7
Đại hội Đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV, 1976 cũng nêu rõ: “…
Cần nâng cao chất lượng toàn diện của nội dung giáo dục, hiện đại hoá chương
trình khoa học kỹ thuật, mở rộng kiến thức quản lý kinh tế, tăng cường giáo dục
chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối chính sách của Đảng và đạo đức cách mạng, bồi
dưỡng kỹ năng lao động và năng lực nghiên cứu khoa học kỹ thuật, coi trọng đúng
mức giáo dục thẩm mỹ, TDTT và tập luyện quân sự…” [3]
Bước sang thời kỳ mới, Nghị quyết Đại hội đảng cộng sản Việt Nam lần thứ
VI đã ghi rõ: “…Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào TDTT quần chúng,
từng bước đưa việc rèn luyện thành thói quen hàng ngày của đông đảo nhân dân ta,
trước hết là thế hệ trẻ, nâng cao chất lượng GDTC trong các trường học…”
Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII năm 1996 đã
khẳng định: “…Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ phải thực sự
trở thành quốc sách hàng đầu…”
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) đã ghi rõ: “…
Việc dạy và học TDTT trong trường học và bắt buộc…” [31]
Để cụ thể hoá các quan điểm chỉ đạo trên, Đảng cộng sản Việt Nam luôn có
những Chỉ thị, Nghị quyết kịp thời đề ra chủ trương đẩy mạnh tiến trình phát triển.
Qua những giao đoạn cách mạng, căn cứ vào những yêu cầu, tình hình và nhiệm vụ
cụ thể, Đảng và Nhà nước đã ban hành các chỉ thị như:
- Chỉ thị 106/CT-TW ngày 02/10/1958 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về
công tác TDTT và Chỉ thị 180/CT-TW ngày 26/08/1970 của Ban bí thư Trung
ương Đảng về tăng cường công tác TDTT trong những năm tiếp theo là một bước

phát triển mới, xác định vị trí quan trọng của TDTT, coi TDTT là một nhu cầu của
quần chúng, là một mặt của xây dựng CNXH, chủ trương trên là được cụ thể hoá
tới sự phát triền phong trào TDTT trong học sinh, sinh viên…[1]
- Chỉ thị 112/CT ngày 09/05/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về công tác
TDTT trong những năm trước mắt có ghi: “…Đối với học sinh, sinh viên, trước hết
nhà trường phải thực hiện nghiêm túc việc dạy học và học môn TDTT theo chương
8
trình quy định, có biện pháp tổ chức, hướng dẫn các hình thức tập luyện và hoạt
động thể thao tự nguyện ngoài giờ học…[26]
- Chỉ thị 36/CT-TW ngày 24/03/1994 về công tác TDTT trong giai đoạn mới
đã nêu rõ: “ Cải tiến chương trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo
giáo viên TDTT cho trường học các cấp, tạo những điều kiện cần thiết về cơ sở vật
chất, để thực hiện chế độ GDTC bắt buộc ở tất cả các trường học. [4]
- Cũng trong năm 1996, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị 133/TTg ngày
07/03/1996, về việc xây dựng và quy hoạch phát triền ngành TDTT, về GDTC
trường học đã ghi rõ: “…Bộ giáo dục - Đào tạo cần đặc biệt coi trọng việc GDTC
trong nhà trường, cải tiến nội dung giảng dạy TDTT nội khoá, ngoại hoá, quy định
tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho học sinh các cấp học, có quy chế bắt buộc đối với
các trường…”[9]
GDTC trường học là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu giáo dục đào tạo và
thể dục ngành nghề là một mặt quan trọng trong hệ thống GDTC học đường.
Cùng với các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã thực hiện chủ trương, đường lối về công tác giáo dục thể thao nói chung và
GDTC học đường nói riêng, bằng rất nhiều các văn bản pháp quy, cụ thể như:
- Thông tư liên tịch số 08/LB-DN-TDTT ngày 24/12/1986 về công tác
TDTT trong các trường dạy nghề và sư phạm.
- Thông tư liên tịch số 04-93/GĐ-ĐT-TDTT ngày 14/07/1993 về việc xây
dựng kế hoạch đồng bộ, xác định mục tiêu, nội dung, biện pháp nhằm cải tiến công
tác tổ chức quản lý TDTT và GDTT trong trường học các cấp.
- Thông tư số 11/TT-GDTT ngày 01/08/1994 về việc hướng dẫn chỉ thị

36/CT-TW
- Thông tư số 2896/GDTC ngày 04/05/1995 về việc hướng dẫn chỉ thị
133/TTg
9
- Chương trình mục tiêu “Cải tiến nâng cao chất lượng GDTC, sức khoẻ,
phát triển và bồi dưỡng tài năng trẻ thể thao học sinh và sinh viên trong nhà trường
các cấp”
Đến nay, hệ thống tổ chức, quản lý GDTC đã được hình thành và phát triển
trong nhà trường các cấp từ trung ương đến địa phương, khẳng định vị thế quan
trọng của công tác GDTC trong sự nghiệp giáo dục - đào tạo của nước ta.
'?'@01:-A=4-=(>3B3!8/1=4
/438/C'
1.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung công tác GDTC trong các trường Đại
học.
Công tác GDTC trong trường học chiếm một vị trí quan trọng đối với quá
trình đào tạo đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhằm thực hiện mục tiêu trên, công
tác GDTC trong trường học các cấp phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Giáo dục đạo đức XHCN, rèn luyện tinh thần tập thể, ý thức tổ chức kỷ
luật, xây dựng niềm tin, lối sống tích cực, lành mạnh, tinh thần tự giác học tập và
rèn luyện thân thể, chuẩn bị sẵn sàng phục vụ sản xuất và bảo vệ Tổ quốc.
- Cung cấp cho sinh viên những kiến thức lý luận cơ bản về nội dung và
phương pháp tập luyện TDTT, kỹ năng vận động và kỹ thuật cơ bản của một số
môn thể thao thích hợp. Trên cơ sở đó, bồi dưỡng khả năng sử dụng các phương
tiện để rèn luyện thân thể, tham gia tích cực vào việc tuyên truyền và tổ chức các
hoạt động TDTT của nhà trường và xã hội.
- Góp phần duy trì và củng cố sức khoẻ của sinh viên, phát triển cơ thể một
cách hài hoà, cân đối, xây dựng thói quen lành mạnh và khắc phục những tật xấu
trong cuộc sống nhằm sử dụng thời gian vào những công việc có ích, có hiệu quả

trong quá trình học tập đạt được những chỉ tiêu thể lực quy định.
10
- Giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên và tạo điều kiện để nâng cao trình độ thể
thao của sinh viên, VĐV
Hoạt động TDTT trong các trường Đại học là một phần quan trọng trong
việc giáo dục toàn diện cho sinh viên. Để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục trong
hoạt động TDTT, cần quán triệt sự thống nhất của 2 mặt: Thứ nhất là GDTC trong
các trường Đại học là một bộ phần hữu cơ của mục tiêu giáo dục toàn diện cho thế
hệ trẻ, là phương tiện quan trọng và có hiệu quả để phát triển hài hoà, cân đối cơ
thể và các tố chất thể lực cho sinh viên; Thứ hai là GDTC trong các trường Đại học
là một quá trình sư phạm có tác dụng tích cực đến phầm chất chính trị, tư tưởng,
đạo đức, tác phong và thẩm mỹ. Đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành
nhân cách cho người cán bộ tương lai.
D6''E7FG;(H=I1:-4;0<
 G;
J
KF>
L1B
$ $$ $$$ $!
I Lý luận 14 8 6 - -
II Thực hành 136 - - - -
Thể dục 32 16 16 - -
Điền kinh 48 20 16 6 6
Các môn thể thao tự chọn 56 16 22 8 10
Tổng MN ON ON P O
Chương trình quy định chặt chẽ về thời gian, nội dung học tập, đồng thời để
phù hợp với đặc điểm riêng của từng trường như điều kiện về sân bãi, thời tiết của
từng khu vực và đội ngũ cán bộ giảng dạy và chương trình đã cho phép “mềm hóa”
một phần không quá 1/3 chương trình.
1.2.2. Thực trạng sự phát triển thể chất của sinh viên các trường Đại học,

Cao đẳng ở nước ta hiện nay.
Chăm lo cho thế hệ trẻ về mọi mặt, là trách nhiệm của toàn xã hội, nhằm đào
tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước. Sự chăm lo về nhiều mặt, trong đó
có mặt quan trọng và tất yếu là chăm lo về sức khoẻ và thể lực, bởi vì sự cường
11
tráng về thể chất, không những là nhu cầu về bản thân mà còn là vốn quý để tạo
những tài sản vật chất và tinh thần cho xã hội.
Ý thức được điều này, từ lâu, ở nước ta đã đưa ra vấn đề GDTC là quốc sách
và duy trì GDTC đại học là bắt buộc đối với sinh viên.
Theo đánh giá của các nhà chuyên môn hiện nay, sức khoẻ, thể lực của sinh
viên trong các trường Đại học Cao đẳng đã khá hơn nhiều so với kết quả điều tra
trước đây. Điều đó đã được chứng minh thông qua đánh giá hiệu quả GDTC sinh
viên bằng đánh giá TĐTL chung và kết quả nhiều công trình nghiên cứu điều tra
tình hình sức khoẻ, thể lực sinh viên.
Theo tác giả Lê Văn Lẫm, Vũ Đức Thu, Nguyễn Trọng Hải và Vũ Bích Huệ
[36] thì sinh viên nước ta đến năm 1998, ở lứa tuổi 18 – 22 có chiều cao đứng ở
nam là: 165,16cm, ở nữ là 154,81. So với năm 1996, thì chiều cao đứng của sinh
viên cùng lứa tuổi ở nam là 163,97 cm đến nữ là 153,2 cm. Kết quả đánh giá phát
triển các chỉ tiêu tố chất thể lực cho thấy sinh viên hiện nay TĐTL chung tốt hơn
trước đây. Nằm sấp co duỗi tay ở nữ sinh viên (1998), đạt từ 8 đến 13 lần, cao
hơn hẳn năm 1993, lúc đó nữ sinh viên chỉ đạt từ 4 – 7 lần.
Kết quả nghiên cứu các chỉ tiêu đánh giá thể lực sinh viên trường Đại học
Mỏ - Địa chất ( 1989) của Hoàng Công Dân cho thấy, ở Nam chiều cao đứng là từ
157, 0 cm đến 164,5 cm, ở nữ chiều cao đứng từ 152,0 cm đến 153,0 cm và năm
1999 ở nam chiều cao đứng là 163 cm đến 165 cm, ở nữ là 154 cm đến 156 cm.
[27]
Theo Hoàng Thái Sinh (2001) trong đề tài “Đánh giá tiềm năng thể chất và
giải pháp nâng cao thể lực sinh viên Đại học Huế” đã đưa ra kết quả nghiên cứu
một số chỉ tiêu thể lực của sinh viên Đại học Huế năm 1998 là cao hơn năm 1985 :
Chiều cao đứng của nam sinh viên Huế năm 1985 là 162,30cm, nữ là 152,31 cm,

trong khi năm 1998 Nam là 163,30cm, nữ là 152,67 cm. Cân nặng của sinh viên
Huế năm 1985 Nam là 48,28kg, nữ 44,20kg; Năm 1998 nam là 49,38kg, nữ là
45,00kg. [48]
12
Các số liệu trên cũng cho thấy, trình độ thể lực chung của sinh viên nước ta
gần đây có sự gia tăng so với các năm trước. Điều này, đã phản ánh thực tế đời
sống kinh tế ổn định và các điều kiện được cải thiện của đất nước qua quá trình
GDTC đúng hướng ở trong các trường Đại học. Tuy vậy, người Việt Nam vốn đã
thấp bé và trải qua nhiều cuộc chiến tranh, do đó trình độ thể lực dù có gia tăng
trong thời gian gần đây, thì vẫn thấp hơn các nước trong khu vực cùng lứa tuổi. So
với tiêu chuẩn RLTT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 1989, đến nay
sinh viên viên đạt được yêu cầu còn quá ít ( theo Phạm Thị Nghị (1998), sinh viên
Đà Nẵng chạy 50m ở nam là 9,5 giây, ở nữ là 10,68 giây tiêu chuẩn đạt ở nam là
7,9 giây đến 7,5 giây ở nữ là 9,5 giây đến 8,9 giây, thành tích chạy 1000m ở nam
sinh viên Đà nẵng là 4 phút 35 giây, chạy 500m của nữ sinh viên Đà Nẵng là 2
phút 53 giây, trong khi đó tiêu chuẩn đạt ở nam là 4 phút đến 3 phút 35 giây và ở
nữ là 2 phút 40 đến 2 phút 2 giây.
Nghiêm Xuân Thúc (1996) qua nghiên cứu đánh giá thực trạng thể lực sinh
viên Đại học Bách khoa tiêu chuẩn rèn luyện thực trạng thể lực của Bộ GD - ĐT
đã kết luận: Số sinh viên đạt tiêu chuẩn đánh giá sức khoẻ mạnh rất cao, ở chỉ tiêu
bật xa đạt 92%, nữ đạt 91,1% ở chi tiêu co tay xà đơn, nam đạt 72,5% , nằm sấp
co duỗi tay, nữ đạt 70,0% Trong khi đó, tiêu chẩun đánh giá sức bền ở chỉ tiêu
chạy 1000m nam đạt 20,5% và ở chỉ tiêu chạy 500m nữ đạt 23,5%. Số sinh viên
đạt cả bốn nội dung tiêu chuẩn RLTT chiếm 12,3% đặc biệt tỷ lệ này ở nữ chiếm
rất thấp, chỉ có 4,4%. So sánh trình độ thể lực chung của sinh viên một số trường
Đại học với nhau cho thấy trình độ thể lực chung của sinh viên trong các trường
khoa học kỹ thuật, các trường Sư phạm thấp hơn nhiều. [49]
Tóm lại, từ việc phân tích, so sánh tình hình sức khoẻ, thể lực của sinh viên
nước ta, cho thấy, trình độ thể lực của sinh viên nước ta tuy có tiến bộ hơn trước,
song vẫn ở mức thấp, chưa đạt được yêu cầu đặt ra, đặc biệt trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta hiện nay. Sức khoẻ, thể lực của sinh viên là
con em dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa chắc chắn còn thấp hơn một mức so
với vùng đồng bằng thành phố, nhất là con em đồng bào dân tộc ít người. Vì vậy,
13
năng lực thể lực của sinh viên đang ở dạng tiềm ẩn, cần có biện pháp thích hợp để
phát huy sự nỗ lực thể chất, nhằm nâng cao trình độ thể lực chung cho họ.
'Q'-RS01HT6+9-4;0RU'
1.3.1. Các quan điểm về phương tiện giáo dục thể lực.
Giáo dục thể lực chung là quá trình nhằm phát triển toàn diện các tố chất thể
lực cũng như khả năng chức phận khác nhau, không đặc trưng cho một hoạt động
riêng biệt nào và tạo điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả của quá trình giáo
dục thể lực chuyên môn nhằm phát triển toàn diện năng lực thể chất và làm phong
phú vốn kỹ năng kỹ xảo của VĐV.
Các môn thể thao đều đòi hỏi phát triển toàn diện các tố chất thể lực, cùng
với những tố chất chuyên môn ưu thế phù hợp với đặc điểm từng môn thể thao,
quan hệ giữa các thành tố cơ bản cấu thành năng lực thế lực trong từng môn thể
thao có những nét riêng. Khi đề cập đến giáo dục các tố chất vận động thấy rằng
trong hoạt động chung của con người thì hoạt động cơ bắp là dạng đặc trưng và có
mối tương quan chặt chẽ với các tố chất thể lực cơ bản. Các tố chất luôn hiện diện
trong mối tương tác lẫn nhau (không có biểu thị riêng tuyệt đối). Việc nghiên cứu
quan hệ mang tính đặc trung đó của tố chất thể lực trong cá môn thể thao được
nhiều tác giả nghiên cứu như Philin, Novicov và Matveev, Lê Bửu, Nguyễn Thế
Tuyền; Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn…Những năm gần đây khi nghiên cứu sâu
hơn về tố chất thể lực theo 3 dạng cơ bản sức nhanh, sức mạnh, sức bền, phát hiện
có những môn thể thao nằm giữa các loại trên, tức là những môn mang đặc trưng
của 1 loại tố chất chủ đạo nhưng liên quan đến tố chất khác.
Đa số các nhà chuyên môn cho rằng, tố chất thể lực chung phải được phát
triền toàn diện và lâu dài trong suốt quá trình tập luyện.Tuy nhiên với đặc thù của
lứa tuổi sinh viên (18-22 tuổi), các tố chất thể lực phải phát triển theo đặc điểm
riêng, từng tố chất thể lực được phát triển dựa theo tuổi sinh học thời kỳ nhạy cảm,

từng giai đoạn tập luyện.
14
Để đạt được thành tích thể thao cao, người ta phải sử dụng các phương tiện
khác nhau như:
- Các bài tập thể chất
- Các điều kiện tự nhiên (môi trường, không khí, nước, ánh sáng…)
- Các yếu tố vệ sinh.
Bài tập thể chất là nhóm phương tiện chính để huấn luyện tố chất thể lực, là
phương tiện quan trọng nhất để nâng cao thành tích thể thao. Các bài tập thể chất
phải phù hợp với mục đích, nhiệm vụ của quá trình tập luyện và không được sử
dụng một cách bừa bãi, không chọn lựa. Tính mục đích của một bài tập trong huấn
luyện tố chất thể lực thể hiện ở chỗ chúng được sử dụng để phát triển thành tích
trong chuyên môn sâu, phù hợp với yêu cầu cấu trúc thành tích lâu dài, nâng cao
khả năng chịu đựng lượng vận động một cách liên tục và phát triển thành tích thể
thao một cách nhanh chóng. Thông qua việc lựa chọn hợp lý từng bài tập thể chất
và phân chia một cách tối ưu lượng vận động của từng bài tập và nhóm bài tập có
thể bảo đảm cho người tập phát triển đầy đủ năng lực của họ trong lứa tuổi đạt
thành tích thể thao cao nhất.
Giáo dục tố chất thể lực là mặt cơ bản để phát triển thế chất và nâng cao
thành tích thể thao. Song, về bản chất mức độ phát triển các tố chất thể lực phụ
thuộc vào các trạng thái chức năng, cấu tạo của nhiều cơ quan và hệ cơ quan trong
cơ thể. Quá trình tập luyện để phát triển các tố chất thể lực, cũng chính là quá trình
hoàn thiện các hệ thống chức năng có vai trò chủ yếu trong mỗi hoạt động của cơ
bắp cụ thể.
Theo quan điểm của V.P. Philin [45] thì: Các tố chất thể lực phát triển có
tính giai đoạn và không đồng đều, tùy thuộc vào từng thời kỳ của lứa tuối, Vì vậy,
người giáo viên, huấn luyện viên không những phải nắm vững quy luật phát triển
tự nhiên, đặc biệt là thời kỳ nhạy cảm (thời kỳ thuận lợi cho việc phát triển các tố
chất) trong cơ thể, mà còn phái hiểu sâu sắc những đặc điểm phát triển tố chất thể
lực theo độ tuổi của từng cá thể người tập.

15
D.Harre (1996) [40], Novicov, L.P Matveev (1990) [44], V.P Philin (1996)
[45], cho rằng: Dù bất kỳ giai đoạn nào của quá trình đào tạo vận động viên,
công tác huấn luyện thể lực chung được coi là then chốt, bởi thể lực chung cùng
với thể lực chuyên môn được coi là nền tảng của việc đạt thành tích cao…
Theo quan điểm của Gozolin (1986)[30], Nabatnhicova (1985) [41]: Việc
giáo dục tố chất thể lực chung phải là một quá trình liên tục, nhiều năm trong
suốt quá trình đào tạo VĐV. Tùy thuộc vào mục đích của từng giai đoạn huấn
luyện mà tỷ trọng giữa giáo dục thể lực chung và thể lực chuyên môn được xác
định cho phù hợp.
Quá trình giáo dục thể lực là sự phù hợp của các phương tiện (bài tập thể
chất) cũng như các phương pháp sử dụng, trong quá trình giáo dục phải phù hợp
với các quy luật phát triển của đối tượng.
Quá trình giáo dục các tố chất thể lực chung là một quá trình tác động liên
tục, thường xuyên và theo kế hoạch được sắp xếp hợp lý bằng những bài tập
TDTT nhằm phát triển các mặt chất lượng và khả năng vận động. Quá trình ấy
tác động mạnh mẽ tới hệ thần kinh, cơ bắp cũng như tới các cơ quan nội tạng
của con người. Thông thường, các tố chất thể lực được chia thành 5 loại cơ bản:
Sức nhanh, sức mạnh, sức bền, khả năng mềm dẻo, khả năng phối hợp vận động
(khả năng khéo léo).
Khi đề cập đến vấn đề thể lực, thì hoạt động cơ bắp là dạng đặc trưng và
mang tính trọng tâm. Hoạt động cơ bắp được thể hiện ở 3 phương diện:
- Sự co cơ (phụ thuộc chủ yếu vào tỷ lệ cấu trúc sợi cơ, số lượng sợi cơ và
thiết diện cơ)
- Sự trao đổi chất (tức là các quá trình sản sinh năng lượng)
- Sự dẫn truyền kích thích (hoạt động thần kinh cơ)
Theo tác giả Gozolin (1986)[30], V.P Philin (1996)[45] cho rằng, ba
phương diện trên luôn có mối tương quan với khả năng hoạt động của tố chất thể
16
lực. Đặc biệt, chúng luôn có mối tương quan chặt chẽ với 3 tố chất thể lực cơ bản:

Sức mạnh, sức nhanh, sức bền. Trong đó, độ lớn của sức mạnh quan hệ chủ yếu tới
khả năng co cơ, thể hiện theo hướng thay đổi giữa yếu tố thời gian duy trì và
cường độ vận động của cơ bắp, từ đó mà phân ra thành sức mạnh tối đa, sức mạnh
nhanh và sức mạnh bền. Độ lớn của sức nhanh quan hệ chủ yếu tới khả năng dẫn
truyền của hệ thần kinh và liên quan đến thành phần của sợi cơ (nhanh phản ứng,
nhanh vận động và nhanh động tác). Độ lớn của sức bền quan hệ chủ yếu tới hoạt
động trao đổi chất trong điều kiện yếm khí và ưa khí. Chính vì vậy, có sức bền cự
ly ngắn, sức bền cự ly dài và sức bền cự ly trung bình. (Đ.Harre 1996)
Qua tham khảo các công trình nghiên cứu khoa học của nhiều chuyên gia
đầu ngành về lĩnh vực lý luận và phương pháp GDTC và HLTT trong nước như:
Lê Văn Lẫm, Lê Bửu, Dương Nghiệp Chí, Phạm Trọng Thanh, Nguyễn Toán,
Nguyễn Thế Truyền, Phạm Danh Tốn…, cho thấy: Quá trình giáo dục thể lực cho
người tập là hướng đến việc củng cố và nâng cao khả năng chức phận của hệ thống
cơ quan trước lượng vận động thể lực (bài tập thể chất) và như vậy đã tác động đến
quá trình phát triển của các tố chất vận động. Đây có thể coi là quan điểm có xu
hướng sư phạm trong quá trình giáo dục các tố chất vận động…
Dưới góc độ y học (Lê Bửu, Dương Nghiệp Chí, Nguyễn Hiệp, Nguyễn
Ngọc Cừ, Lưu Quang Hiệp, Tình Hùng Thanh, Phan Hồng Minh, Lê Nguyệt
Nga…) cho rằng: Nói đến giáo dục tố chất thể lực chung trong tập luyện thể dục
thể thao là nói tới những biến đổi thích nghi và dự báo về mặt sinh học (cấu trúc và
chức năng) diễn ra trong cơ thể người tập dưới tác động của tập luyện được biểu
hiện ở năng lực hoạt động cao hay thấp…
Theo quan điểm tâm lý học (Phạm Ngọc Viễn, Lê Văn Xem…) [53] cho
rằng: Quá trình chuẩn bị thể lực chung cho VĐV là quá trình giải quyết những khó
khăn liên quan đến việc thực hiện các hành động kỹ thuật, là sự phù hợp những
yếu tố tâm lý trong hoạt động tập luyện và thi đấu của VĐV.
17
Như vậy, từ các quan điểm nêu trên cho thấy: Chuẩn bị thể lực chung cho
đối tượng học sinh, sinh viên là sự tác động có hướng đích của lượng vận động
(bài tập thể chất) đến người tập, nhằm hình thành và phát triển lên một mức độ mới

của khả năng vận động, biểu hiện ở sự hoàn thiện các năng lực thể chất, đồng thời
còn nhằm nâng cao khả năng hoạt động của các cơ quan chức phận tương ứng với
các năng lực vận động của người tập nâng cao các yếu tố tâm lý trước hoạt động
đặc trưng của mỗi môn thể thao.
1.3.2. Các cơ sở sinh lý các tố chất thể lực trong hoạt động TDTT
Hoạt động thể lực, nhất là hoạt động thể lực trong TDTT, rất đa dạng và
phức tạp, phụ thuộc vào công suất hoạt động, cơ cấu động tác và thời gian gắng
sức. Mỗi loại hoạt động đòi hỏi cơ thể phải thể hiện khả năng hoạt động thể lực
của mình về mặt nào đó như cử tạ, ném đẩy, chạy bền. Hoạt động thể lực có thể
phát triển các mặt khác nhau của năng lực hoạt động thể lực. Các mặt khác nhau đó
của khả năng hoạt động thể lực được gọi là tố chất thể lực hay tố chất vận động.
Có 5 tố chất vận động chủ yếu của con người là: Sức mạnh, sức nhanh, sức bền,
khéo kéo và độ dẻo. Trong bất kỳ hoạt động thể lực nào, các tố chất thể lực cũng
không biểu hiện một cách đơn độc mà luôn phối hợp hữu cơ với nhau. Đồng thời,
trong phần lớn các môn thể thao hoặc một vài tố chất được thể hiện rõ rệt nhất
quyết định kết quả hoạt động chung.
HK)KRV5/F<K/'
Sức nhanh là khả năng thực hiện động tác trong một khoảng thời gian ngắn
nhất. Sức nhanh như một tố chất thể lực, nó thể hiện ở dạng đơn giản và ở dạng
phức tạp. Dạng đơn giản của sức nhanh bao gồm:
- Thời gian phản ứng
- Thời gian của một động tác đơn
- Tần số của một hoạt động cục bộ
18
Dạng phức tạp của sức nhanh là thời gian thực hiện các hoạt động thể thao
phức tạp khác nhau như chạy 100m, tốc độ đấm trong môn Quyền anh.
Sức nhanh là tố chất tổng hợp của cả 3 yếu tố cấu thành, là thời gian phản
ứng, thời gian của động tác đơn lẻ và tần số hoạt động. Yếu tố quyết định của tất cả
các dạng sức nhanh là độ linh hoạt của các quá trình thần kinh và tốc độ co cơ.
Độ linh hoạt của quá trình thần kinh thể hiện ở khả năng biến đổi nhanh

chóng giữa hưng phấn và ức chế trong các trung tâm thần kinh và tốc độ dẫn
truyền xung động trong các dây thần kinh ở ngoại vi. Tốc độ co cơ phụ thuộc vào
tỷ lệ sợi cơ nhanh và sợi cơ chậm trong bó cơ. Tốc độ co cơ chịu ảnh hưởng của
hàm lượng ATP và CP. Hoạt động tốc độ và thời gian sử dụng nguồn năng lượng
phần giải yếm khi ATP và CP chủ yếu. Vì vậy, khi hàm lượng ATP và CP cao
trong cơ, thì khả năng co cơ nhanh cũng tăng lên. Tập luyện sức nhanh làm cho
hàm lượng ATP và CP trong các sợi cơ tăng lên, cơ thể từ 10 đến 30%. Theo
Lacốplép tốc độ co cơ còn phụ thuộc vào hoạt tính của cơ thể phần giải và tổng
hợp ATP và CP.
Trong hoạt động TDTT, tốc độ và sức mạnh có liên quan mật thiết với nhau.
Mức độ phát triển sức mạnh ảnh hưởng rõ rệt đến sức nhanh. Như vậy, sức nhanh
phụ thuộc chủ yếu vào tính linh hoạt của thần kinh và tốc độ co cơ. Chúng đều là
những yếu tố được quyết định bởi các đặc điểm di truyền. Do đó, quá trình tập
luyện, sức nhanh biến đổi chậm và ít hơn sức mạnh và sức bền. Lứa tuổi tốt nhất
để phát triển sức nhanh là tuổi thanh thiếu niên.
HK)KRV5/F<K13
Sức mạnh là khả năng khắc phục trọng tải bên ngoài bằng sự căng cơ, sức
mạnh mà cơ phát ra phụ thuộc vào:
- Số lượng đơn vị vận động tham gia vào quá trình căng cơ.
- Chế độ co của các đơn vị vận động đó
- Chiều dài ban đầu của các sợi cơ trước lúc co.
19
Sức mạnh, trong đó có sức mạnh tối đa (Sức mạnh tuyệt đối) phụ thuộc vào
yếu tố độ dày của cơ, hay là tiết diện ngang của toàn bộ cơ. Sức mạnh tối đa tính
trên tiết diện ngang của cơ, được gọi là sức mạnh tương đối của cơ. Những đặc
điểm về hóa học của cơ có ý nghĩa lớn đối với sự hát triển mạnh. Những bài tập về
sức mạnh làm cho hàm lượng Protit cấu tạo của cơ, khả năng dự trữ nguyên liệu có
thể phân giải không có oxy tăng lên. Tốc độ của quá trình hoạt động của các men
cũng tăng khi sức mạnh được phá triển, chất Miozin của cơ tăng lên, chất miozin
không chỉ là protat có tính chất co rút của cơ, mà còn là men phân giải ATP, còn

gọi là ATP aza.
Cơ sở sinh lý của phát triển sực mạnh là tăng cường số đơn vị vận động
tham gia vào hoạt động, đặc biệt là các đơn vị vận động nhanh, chứa các sợi cơ
nhóm II có khả năng phì đại cỡ lớn. Có nhiều cơ chế sinh lý trong đó có những cơ
chế quan trọng nhất gồm có:
- Tăng số lượng đơn vị vận động được động viên trong các cơ chủ vận.
- Ức chế hoạt động của các cơ đối kháng
- Truyền đến cơ những xung động thông qua hệ thần kinh giao cảm
- Lực tăng cơ tối đa phụ thuộc vào số lượng sợi cơ.
Các yếu tố thần kinh trung ương điểu khiển sự co cơ và sự phối hợp hoạt
động giữa các cơ trước tiên và khả năng chức năng của nơron vận động, tức là mức
độ phát xung động với tần số cao.
Trong quá trình tập luyện sức mạnh, các yếu tố thần kinh trung ương được
điều chỉnh dần, nhất là khả năng phối hợp giữa các nhóm cơ của thần kinh trung
ương, các yếu tố này làm tăng cường sức mạnh chủ động tối đa đáng kể.
HK)KRV5/F<KT9
Sức bền là năng lực chống lại mệt mỏi của cơ thể trong vận động kéo dài.
Những vấn đề quan trọng nhất của sức bền là:
- Năng lực làm việc của hệ thống tim mạch.
20
- Quá trình trao đổi chất (đủ ôxy và thiếu ôxy)
- Khả năng tiết kiệm năng lượng
- Các phẩm chất tâm lý chuyên môn.
Sức bền có ý nghĩa đặc biệt đối với thành tích thi đấu của nhiều môn thể
thao, là yếu tố có ý nghĩa đặc biệt với khả năng chịu đựng lượng vận động của
người tập.
Phát triển tốt sức bền là tiền đề cần thiết cho khả năng hồi phục nhanh chóng
sau các lượng vận động lớn. Căn cứ vào các yêu cầu thi đấu sức bền được phân
thành: Sức bền cơ sở và sức bền chuyên môn.
- Sức bền cơ sở là năng lực của người tập nhằm chống lại mệt mỏi trong các

lượng vận động kéo dài, tốc độ vận động nằm trong giới hạn trao đổi năng lượng
đủ oxy. Cơ sở sinh lý học của nó là tính tiết kiệm của các hệ thống cơ quan: tuần
hoàn, hô hấp, các chức năng trao đổi chất và khả năng thực hiện động tác kinh tế
nhất.
Mục đích huấn luyện sức bền là cơ sở nâng cao khả năng hấp thụ ôxy, năng
lực trao đổi năng lượng đủ ôxy và phát triển các phẩm chất tâm lý chuyên môn
Thông qua việc phát triển sức bền sơ sở, tạo nên được một nền tảng chức
năng cho tất cả các môn thể thao sức bền và các môn thể thao khác.
- Sức bền chuyên môn là năng lực của người tập, nhằm chống lại sự mệt mỏi
trong hoạt động thi đấu chuyên môn.
Phát triển sức bền với mục đích mở rộng và nâng cao nặng lực hoạt dộng
của hệ thống tim mạch, các chức năng trao đổi chất trong điều kiện đủ ôxy và phát
triển sức bền chung cho nhóm cơ lớn.
Biện pháp chủ yếu để phát triển sức bền chung cho sinh viên là chạy gắng
sức trong thời gian dài. Bài tập này là tiền đề để nâng cao khả năng làm việc của
các hệ thống cơ quan trong cơ thể, đảm bảo có sức chịu đựng cao trong học tập và
công tác. Ví dụ: Trong một buổi tập sinh viên có thể chạy bền 10-12km. Các biện
21
pháp khác sử dụng để nâng cao sức bền gồm có bơi, đi bộ, đua xe đạp… Ở các
buổi tập đầu tiên, để phát triển sức nên dùng bài tập chạy nhịp độ đều, cường độ
không lớn, tăng dần thời gian từ 5-8 giây và đến 25 - 30 giây. Sau đó có thể chạy
biến tốc cũng có thể sử dụng phương pháp trò chơi hay phương pháp tập luyện
vòng tròn. Tổ hợp bài tập theo phương pháp luyện tập vòng tròn gồm các kiểu
chạy, tiến hành dưới dạng trò chơi hay thi đấu. Điều đó giúp người tập dễ khắc
phục lượng vận động lớn. Khi sử dụng phương pháp này chú ý đến đặc điểm sinh
lý tuổi sinh viên, để xác định số lần lặp lại cho mỗi người.
)K)KRV5/LRU191;W4
Mềm dẻo là năng lực thực hiện động tác với biên độ lớn, biên độ tối đa của
động tác là thước đo của năng lực mềm dẻo.
Trong thực tế độ dẻo là giá trị hoạt động của một hay nhiều khớp được thể

hiện về khả năng về sức mạnh ở cấu trúc động tác, làm tăng khả năng tiết kiệm
năng lượng.
Năng lực mềm dẻo được phân thành hai loại: Mềm dẻo thụ động và mềm
dẻo tích cực.
- Mềm dẻo thụ động: Độ dẻo có được là nhờ tác động của ngoại lực là trọng
lực của cơ thể
- Mềm dẻo tích cực: Độ dẻo được tạo nên bởi sự gắng sức, nỗ lực của chính
bản thân người tập.
Năng lực mềm dẻo kém phát triển sẽ làm hạn chế kết quả tập luyện, thể hiện
thời gian học và hoàn thiện kỹ năng, động tác bị kéo dài, thậm chí kỹ thuật động
tác không hoàn thiện được. Thiếu mềm dẻo các năng lực về sức nhanh, sức mạnh,
sức bền và khả năng phối hợp vận động bị hạn chế. Điều đó có nghĩa là tốc chất
mềm dẻo ảnh hưởng trực tiếp đến sự thể hiện tiềm năng của nhiều tố chất thể lực
cơ bản.
22
Phương pháp chính để phát triển năng lực mềm dẻo là phương pháp kéo
giãn cơ và dây chằng. Người ta thường sử dụng phương pháp này dưới các hình
thức sau:
- Kéo giãn trong thời gian dài. Duy trì sự kéo giãn các nhóm cơ và dây
chằng trong nhiều giây tới khi có cảm giác đau dần tới hạn chịu đựng. Thông
thường mỗi bài tập kéo giãn cần duy trì từ 10-20 giây và lặp lại bài tập đó 3-4 lần.
- Tăng sự đàn hồi khi kéo giãn tới khi đạt được mức tối đa, bằng các động
tác lăng đơn giản. Ví dụ: Lăng chân phía trước, phía sau, phía bên hoặc đè ép theo
dạng đàn hồi cho tới khi các nhóm cơ bị kéo giãn được biên độ lớn nhất.
- Kết hợp các động tác kéo giãn bằng đá lăng với việc dừng lại ở vị trí cao
nhất của đá lăng. Ví dụ: Lăng chân phía bên từ 6-8 lần sau dừng lại ở vị trí cao
nhất từ 3-5 giây lặp lại bài tập đó từ 5-6 lần
Phát triển độ dẻo có thể bằng các bài tập tay không, với dụng cụ hoặc trên
các dụng cụ thể dục. Tăng biên độ động tác ngoài ngoại lực, còn vận dụng nội lực
của chính cơ bắp người tập. Tố chất này cũng phát triển có hiệu quả nếu sử dụng

trò chơi vận động. Các bài tập mềm dẻo cần được phối hợp với các bài tập nhằm
củng cố khớp, dây chằng, cơ bắp. Tập luyện mềm dẻo phải diễn ra liên tục có hệ
thống, nên tập hàng ngày buổi sáng sau khi đã khởi động.
HK)KRV5/LRUXY4RY4.
Nếu như tăng sức mạnh, sức nhanh, sức bền dựa trên cơ sở của sự thích nghi
về mặt năng lượng, thì sự khéo léo lại phụ thuộc chủ yếu vào các quá trình điều
khiển hành vi vận động. Việc xác định năng lực phối hợp vận động về cơ bản được
dựa trên cơ sở học thuyết vận động. Theo các quan điểm này thì năng lực phối hợp
vận động được hiểu là một phức hợp các tiền đề của người tập (cần thiết ít hoặc
nhiều) để thực hiện thắng lợi một hoạt động thể thao nhất định. Năng lực này được
xác định trước hết thông qua các quá trình điều khiển (các quá trình thông tin) và
được hình thành, phát triển trong tập luyện. Năng lực phối hợp vận động có quan
23
hệ chặt chẽ với các phầm chất tâm lý và các năng lực khác nhau như sức mạnh, sức
nhanh, sức bền.
Năng lực phối hợp vận động được thể hiện ở mức độ tiếp thu nhanh
chóng và có chất lượng, cũng như việc hoàn thiện củng cố và vận dụng các kỹ
thuật thể thao.
Các bài tập để giáo dục năng lực khéo léo cho sinh viên có rất nhiều. Đó là
các động tác nhảy, giữ thăng bằng, nắm bắt, các bài tập có sự phối hợp cao. Ngoài
ra còn có các bài tập thực hiện trong điều kiện phức tạp.
Phương pháp chính để phát triển khả năng phối hợp vận động là tập luyện,
phương tiện chính là các bài tập thể chất.
Năng lực này chỉ phát triển thông qua hoạt động, vì vậy muốn phát triển
năng lực phối hợp vận động phải thông qua luyện tập một cách tích cực, thông qua
việc học và hoàn thiện các bài tập được lựa chọn, làm phương tiện để phát triển
năng lực học và hoàn thiện các bài tập được lựa chọn, làm phương tiện để phát
triển năng lực này.
Ngoài ra có thể sử dụng cá bài tập tâm lý để phát triển năng lực xử lý thông
tin, nhanh chóng hình thành các biểu tượng vận động cho nhiệm vụ vận động đặt

ra. Cần sử dụng các phương tiện tập luyện, nhằm phát triển chức năng của các cơ
quan phân tích, các cơ quan phân tích là một phần của hệ thống thần kinh cơ được
gọi là một bộ phần của “thực thể sinh lý” của khả năng phối hợp vận động.
Cần sử dụng các biện pháp nhằm nâng cao yêu cầu về phối hợp vận động
của các bài tập thể chất. Sau đây là một số biện pháp chính:
- Đa dạng hóa việc thực hiện động tác. Ví dụ: Có thể thay đổi các giai đoạn
của động tác;
- Thay đổi điều kiện bên ngoài. Thực hiện động tác trong điều kiện nâng cao
độ khó của môi trường;
- Phối hợp các kỹ thuật kỹ xảo với nhau;
24
- Thực hiện động tác với yêu cầu thời gian. Ví dụ: phải thực hiện động tác
trong một thời gian ngắn nhất (tuy nhiên phải đảm bảo độ chính xác)
- Thay đổi việc thu thập thông tin. Việc thu nhận và xử lý các thông tin về
thị giác, thính giác, xúc giác, thăng bằng và cảm giác cơ bắp có ý nghĩa đặc biệt
nhằm điều khiển vận động.
Các phương pháp phát triển năng lực phối hợp vận động rất phong phú, có
thể phối hợp chúng với nhau hoặc thực hiện một cách có trọng điểm từng phương
pháp. Việc lựa chọn và sử dụng từng phương pháp cần căn cứ vào đặc điểm của
từng năng lực cần phát triển. Cần thường xuyên nâng cao mức độ khó về phối hợp
vận động của các bài tập vì chỉ có nâng cao kích thích đối với cơ thể mới tạo được
trình độ thích ứng cao hơn.
'P'@016;3C1:A3=(>3BZ;4/+,:
8,G
Trường đại học dân lập Quản lý và Kinh doanh Hà Nội được thành lập tháng
6 năm 1996. Do mở rộng mục tiêu đào tạo sang lĩnh vực kỹ thuật - công nghệ,
Trường được đổi tên thành Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội kể
từ tháng 5 năm 2006. Trường là một tổ chức hợp tác của những người lao động trí
óc, tự nguyện góp sức, góp vốn để xây dựng và phát triển Trường bền vững, vì
mục đích đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, không vì mục đích lợi nhuận.

Trường xác định sứ mệnh của mình là đào tạo các nhà kinh tế thực hành và
các nhà kỹ thuật thực hành, tạo nguồn nhân lực cho việc hình thành một dàn cán bộ
chủ chốt của các doanh nghiệp, những “binh đoàn chủ lực” trên mặt trận phát triển
kinh tế xã hội theo hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Trường lấy đào tạo nghề nghiệp thực hành làm định hướng chủ yếu, không
chỉ quan tâm trau dồi kiến thức, mà trau dồi kiến thức phải đi đôi với rèn luyện kỹ
năng thực hành, phát triển tư duy tìm tòi sáng tạo, kết hợp lý luận với thực tiễn,
không chỉ quan tâm phát triển tài năng, mà phát triển tài năng phải đi đôi với bồi
25

×