Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.86 KB, 52 trang )

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

MỤC LỤC

Mở đầu
Chương I :
I.
Chương II :

Nguồn gốc lịch sử của người Mường ở Phú Thọ
Nguồn gốc lịch sử của người Mường ở Phú Thọ
Tín ngưỡng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Mường ở Phú Thọ

2.1.

Khái niệm tín ngưỡng

2.2.

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở
Phú Thọ hiện nay

Chương III :

Hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Mường ở
Phú Thọ hiện nay - Thực trạng và giải pháp

3.1.

Thực trạng của xu hướng hoạt động thờ cúng tổ


tiên của người Mường ở Phú Thọ hiện nay

3.2.

Phương hướng, giải pháp nhằm định hướng đúng
đắn hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Mường ở
Phú Thọ hiện nay
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Tên đề tài : Một vài tìm hiểu về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc
Mường ở Phú Thọ hiện nay.

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI :
Thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng khá phổ biến của người
Mường ở Phú Thọ. Nó có mặt tốt là ln ln nhắc con cháu rằng phải nhớ
lấy nguồn khi uống nước, nhớ cơng người trồng cây khi ăn quả. Phải biết
kính trọng và phụng dưỡng ông bà, bố mẹ lúc sinh thời và thờ phụng khi
mất. Nó sẽ thành cao, tinh khiết khi coi đó là một cái nét văn hố truyền
thống của người Mường. Song nó sẽ trở thành phiền tối khi mang mầu sắc
mê tín dị đoan, ảnh hưởng của nó rất lớn đối với đời sống kinh tế của con
người nói chung và người Mường nói riêng.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang phát triển theo nền kinh tế thị
trường, mở cửa, hội nhập quốc tế, từng bước dân chủ hố đời sống xã hội.
Mặt khác cịn có sự phân hố giàu nghèo trong xã hội, mơi trường bị ô
nhiễm, xuất hiện các mặt trái của khoa học cơng nghệ, trình độ dân trí thấp

v.v… đó là những nguyên nhân xã hội, tâm lý và nhận thức dẫn đến việc
tín ngưỡng, tơn giáo ngày một gia tăng. Hoạt động thờ cúng tổ tiên được
diễn ra một cách rất phổ biến trong các gia đình người Mường. Điều đó đã
góp phần gìn giữ giá trị tốt đẹp của Văn hố truyền thống, nhưng mặt khác
nó cũng có tác động tiêu cực là thúc đẩy kích thích mê tín dị đoan phát
triển. cản trở sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Những nguyên nhân đó là do
họ có những quan niệm về bản thổ và mê tín, nhân sinh của con người.

1


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Mặt khác, dưới góc độ dùng lý luận của triết học để xét về vấn đề thờ
cúng tổ tiên của dân tộc Mường đểthấy được thực trạng, tích cực, tiêu cực,
q trình vận động phát triển, để giúp chúng ta có định hướng đúng trong
việc thờ cúng tổ tiên và thực hiện thắng lợi cuộc vận động “tồn dân xây
dựng đời sống văn hố” do nhà nước phát động.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI :
Xung quanh vấn đề tín ngưỡng của dân tộc Mường cũng được nhiều
nhà khoa học nghiên cứu, “Các hình thức tơn giáo ớ khai và sự phát triển
của nó” của Tơ-ca-Rép; Nxb Chính trị quốc gia 1994”; Việt Nam phong tục
của Phan Kế Bính, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh 1999 ; “Tín ngưỡng dân
gian Việt Nam” Lê Như Hoa, Nxb Văn hố thơng tin 2000 ; “Văn hố tâm
linh” Nguyễn Đăng Duy, Nxb Hà Nội, 1996 ; “Về tơn giáo tín ngưỡng Việt
Nam hiện nay” Đặng Nghiên Vạn, Nxb KHXH, Hà Nội, 1996…
Ngồi ra cịn nhiều bài viết cơng bố trên các tạp chí : Cộng sản, Tư
tưởng văn hố, Thơng tin lý luận, Văn hố nghệ thuật, dân tộc học… Nói
chung là các cơng trình nghiên cứu của các tác giả nói trên nó rất đa dạng

có thể tóm lại thành 3 loại cơ bản sau :
Loại thứ nhất : Xem thờ cúng tổ tiên như một tập tục văn hoá và
truyền thống đạo đức.
Loại thứ hai : Xem tín ngưỡng vừa là tập tục văn hố vừa là truyền
thống đạo đức.
Loại thứ ba : Xem tín ngưỡng như là một loại hình tín ngưỡng, tơn
giáo.
3. MỤC ĐÍCH - NHIỆM VỤ :
*Mục đích : Bước đầu trình bày một cách tương đối có hệ thống về
nguồn gốc, bản chất và tín ngưỡng biểu hiện về mặt triết học trong tín

2


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ. Mặt khác, Phú Thọ
còn là cái nơi của dân tộc Mường nói chung (nếu xét về thời gian hình
thanh). Từ việc đi khảo cứu đó để đề ra những phương hướng, giải pháp
nhằm phát huy các yếu tố tích cực, khắc phục và làm giảm dần các yếu tố
tiêu cực của tín ngưỡng thờ tổ tiên trong nhân dân và xây dựng thành công
nền văn hoá hiện đại.
*Nhiệm vụ :
- Làm rõ nguồn gốc, bản chất, kết cấu - chức năng, cơ sở (điều kiện)
hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ.
- Những biểu hiện về mặt triết học thông qua nội dung nghi lễ thờ
cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ.
- Từ thực tế tình hình tín ngưỡng của dân tộc Mường hiện nay, rút ra
một cách tổng quát về tích cực và tiêu cực ; từ đó đề ra những giải pháp
nhằm định hướng đúng đắn hoạt động này trong đời sống của nhân dân nói

chung - riêng dân tộc Mường trong giai đoạn hiện nay.
4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU, PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
* Đối tượng nghiên cứu : Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở người
Mường Phú Thọ.
* Phạm vi nghiên cứu : Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người
Mường ở Phú Thọ trong lịch sử và thực trạng từ sau cải cách (1986) đến
nay.
5. CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIẾN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU :

3


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

* Cơ sở lý luận của việc khảo cứu thự hiện đề tài nay dựa trên quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước về Tơn giáo - Tín ngưỡng.
* Báo cáo được trình bày trên cơ sở số liệu thu thập được qua các
sách, báo, tạp chí, và các cuộc thâm nhập thực tế ở một số huyện của tỉnh
Phú Thọ và Hoà Bình như : Thanh Sơn, n Lập, Hạ Hồ, Kim Bôi, Kỳ
Sơn…
* Báo cáo vận dụng phương pháp luận chung và phương pháp duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử, cấu trúc chức năng, thống nhất giữa triết
học và xã hội học, phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, lơgic, só sánh,
mơ tả v.v…
6. NHỮNG ĐĨNG GĨP VỀ MẶT KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN :
* Báo cáo góp phần làm rõ tín ngưỡng của người Mường - đặc biệt là
phong tục thờ cúng tổ tiên có rất nhiều đặc sắc .
* Góp phần làm rõ thực trạng xu hướng vận động của tín ngưỡng thờ

cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay.
* Đề xuất một số giải pháp nhằm từng bước phát huy mặt tích cực và
hạn chế mặt tiêu cức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cho phù hợp với yêu
cầu sự nghiệp xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc.
7. Ý NGHĨA THỰC TIỄN :
* Kết quả của báo cáo góp phần vào việc giữ gìn và phát huy những
giá trị văn hoá truyền thống của nước ta hiện nay. Hơn thế nó cịn dùng làm
tài liệu tham khảo cho những mơn học có liên quan tới văn hố truyền
thống và tín ngưỡng tơn giáo.
8. KẾT CẤU CỦA BÁO CÁO :

4


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, báo cáo
gồm 3 chương , 5 tiết.

5


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Chương I
NGUỒN GỐC LỊCH SỬ CỦA NGƯỜI MƯỜNG PHÚ THỌ.
I. NGUỒN GỐC LỊCH SỬ CỦA NGƯỜI MƯỜNG Ở PHÚ THỌ.
- Hiện nay dân số của người Mường đứng hàng thứ sáu trong đại gia
đình 54 dân tộc Việt Nam và với dân số đó thì họ sinh sống tập trung ở các
tỉnh sau : Hoà Bình, Phú Thọ, Thanh Hố, Sơn La, Hà Giang, Lạng Sơn,

Yên Bái.
- Theo khảo sát năm 1994, ở Việt Nam 927.693 người Mường cư trú.
Họ sống xen kẽ với nhiều dân tộc như : Hmông, Thái, Tày, Nùng, Việt,
Dao. Phạm vi cư trú của họ rất rộng rãi nhưng tập trung chủ yếu là ở các
tình miền núi phía Bắc.
- Người Mường ở Phú Thọ thì tập trung đơng nhất ở huyện Thanh
Sơn, Yên Lập, Hạ Hoà. Ở đây tập trung khoảng trên gần 30 vạn người,
chiếm khoảng 35% dân số của người Mường trên toàn quốc. Trước năm
1945 cơ cấu xã hội thì nó tồn tại Thổ Tù, Thế Lang, cấu trúc gồm 8 tổng và
46 làng. Mặt khác, với lịch sử rất rạng rỡ với mảh đất con rồng cháu tiên 18
đời vua Hùng xây dựng đất nước. Xét về nguồn gốc lịch sử thì đây là nơi
đầu tiên mà con người ra đời và sinh sống với những đời sống lạc hậu: lúc
đó thì chỉ tồn tại các tộc người nguyên thuỷ chưa có sự phân biệt người
Mường và người Kinh và các dân tộc khác theo dịng lịch sử thì một nhóm
người do điều kiện về dân số, thức ăn… đã tách ra và sau này với q trình
tiến hố thì nhóm người này trở thành người Kinh cịn nhóm cịn lại là các
dân tộc khác, trong đó có dân tộc Mường chiếm số lượng khá đơng.
- Mặt khác, cịn căn cứ vào ngơn ngữ, ngơn ngữ của người Mường
thuộc nhóm Việt - Mường, trong ngữ hệ Nam Á: “Người Mường là một bộ
phận của người Việt, tách ra trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định và đã

6


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

cấu thành một bộ tộc riêng. Song từ đó đến nay cả Việt lẫn Mường vẫn giữ
được cơ cấu thể chất gốc của tổ tiên trực tiếp sản sinh ra mình trước khi
phân chia” (1).
- Ngồi ra, các nhà khảo cổ học cịn tìm được khá nhiều các di tích

lịch sử thuộc văn hố phùng nguyên, đồng đậu, đông sơn ở đây; cần nhắc
đến là trống đồng cổ thuộc huyện Thanh Sơn thấy vào thế kỷ thứ IV và
được các nhà khảo cổ đánh giá rất cao về giá trị văn hoá của dân tộc
Mường, nó thể tín ngưỡng của người Mường trong từng giai đoạn lịch sử.
Trải qua hàng nghìn năm lao động sáng tạo người Mường đã tạo nên
những trung tâm nối tiếp cho mình trong cộng đồng Mường cả nước :
Thanh Sơn, Yên Lập, Hạ Hoà, Thanh Ba. Thanh Sơn là vùng núi và là
huyện rộng nhất của tỉnh Phú Thọ và có số lượng người Mường đơng nhất,
n Lập là huyện Trung du và người Mường sống tập trung ở ven sơng và
các sườn núi. Người Mường thì di cư theo hướng tây, cịn người Dao diểu
trắng xuống phía Nam, cịn người Mường đang có xu hướng dừng lại để
định canh, định cư để ổn định cho đời sống.
Theo sách dân tộc học Việt Nam đã khẳng định rằng người Mường
có khá nhiều tên : Moc, Mual, Moi, Mọi Bi, Áo tá (Ậu tá), và phân ra thành
nhiều loại mường khác nhau : Mường Bi, Mường vang, Mường động,
Mường thành. Tuy ngơn ngữ họ có khác nhau chút ít nhưng phong tục tập
quán của họ giống nhau. Ngoài ra xétvề đời sống - hay nói cách khác là
trang phục của người Mường với các dân tộc khác. Ở Thanh sơn - Phú Thọ
những người Mường thì họ áo váy đen và áo cóm quần thì là quần chân
q. Váy đen thường là con trai mặc và phụ nữ thường mặc áo cóm, những
ngày hội lớn thì người phụ nữ Mường mặc bộ quần áo dài thêu rất đẹp.
Đặc trưng nữa của văn hoá Mường ở Phú Thọ là : “Cơm đồ nhà gác,
nước vác, lợn thui, ngày lui, tháng tới” do đa phần là họ sống ở các sườn

7


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

đồi và các vùng đồi núi, Trung du, vùng xâu, vùng xa, cộng sự khó khăn về

giao thông, thông tin liên lạc… Mặt khác hầu hết là những người dân
Mường họ đều trồng lúa (nước và nương) và họ còn săn bắn hái lượm ở
những thung lũng. Bữa cơm của họ thì rất đặc biệt, hầu như là họ ăn cơm
nếp quanh năm nhưng họ lại có rất nhiều cách chế biến cơm nếp khác nhau
như : nấu, đồ bằng đồ đất, cơm nam, đồ cùng với rất nhiều loại lá và nó có
mùi rất thơm, mầu rất đẹp. Ngồi cơm nếp họ cịn ăn “lợn lửng” đây là loại
lợn do còi và thực chắc, ngọt trong lượng chỉ từ 10 - 18kg và thường thì các
nhà có kinh tế khá họ thường ni để đãi khách và những ngày lễ, giỗ…
cũng là thịt nhưng chỉ có người Mường mới có thịt chua đây như là một
món ăn truyền thống với sự chuẩn bị rất công phu và cách làm khá phức
tạp, ăn rất ngon.
Cùng với trang phục và ẩm thực thì nhà sàn là một đặc điểm rất đặc
trưng cho giá trị văn hoá, tín ngưỡng của dân tộc mường. Nhà sàn là nơi
thờ cúng các vị thần. Người có cơng đối với làng bản, và bàn thờ trang
trọng nhất và được đặt ở vị trí rất thiêng liêng là bàn thờ tổ tiên, nó được
đặt ở gian thứ nhất, trên sà gồ. Trong nhà sàn của dân tộc Mường ở Phú thọ
có những cái rất đặc trưng và vẫn giữ nguyên được các nguyên tắc của
người ở nhà sàn. Nhà sàn được kết cấu 12 cột chống, cột thứ 2 (phía đầu
nhà - nơi có cầu thang) đó là cột thiêng của người Mường ở đây, họ gọi cột
đó là “cột chỗ” ; ở cột chỗ “thì họ khơng được treo bất kỳ một thứ gì,
khơng được buộc trâu, bị vàu đây. Kết cấu nhà sàn của người Mường Phú
Thọ thì thường là có 5 gian ; gian 1 : Bàn thờ; gian thứ 2 : nơi đàn ông
trong nhà và khách là nam giới ngủ ; gian thứ 3 : là bếp và phía bên tay trái
là buồng của khách phụ nữ ; gian thứ 4 : phụ nữ trong nhà và chạn bát và
đồ dùng tư trang gia đình ; gian thứ 5 : là gian phơi thóc, quần áo (thường
là để bên trái). Cầu thang của người Mường ở đây thường để bên tay phải

8



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

và khơng có tay vịn. Đó là những kiến trúc làm nhà mang đậm tín ngưỡng
rất riêng của dân tộc Mường ở đây.
Dù là ở đâu và là người của dân tộc nào thì người dân cũng có phong
tục tập qn của mình ; phong tục của dân tộc nào hầu như được gắn liền
với tín ngưỡng của dân tộc đó. Ở người Mường thì ngơi đình Mường được
coi là biểu tượng tín ngưỡng cao nhất ; đình của người Mường được kết
cấu như sau : nếu là đình của xã là có năm gian và làm bằng gỗ, cịn là đình
của xóm chỉ có ba gian và làm bằng gỗ, thường được lợp bằng lá cọ - là
một đặc trưng rất riêng của người Mường Phú Thọ mà ở các nơi khác
khơng có.
Ngơi đình của người Mường thì thường các vị thần linh, thần đát,
thần núi, thần sơng, người có cơng xây dựng bản làng và họ thường cúng
vào những ngày lễ tết, ngày lấy hồn lúa, hạ điền, thượng điền, mùng 1, hôm
rằm, thường là có các hoa quả ngon họ kiếm được ở trong rừng - họ có
những bài khấn rất đặc biệt. Sau đình là miếu của người Mường, thường
làm ở các xóm rất sơ sài, họ đan những tấm phên và phủ lên đó bằng các
tấm vải. Sau đó họ đặt bát nhang lên trên, mái thường là lá cọ, thường được
đặt trên 4 cọc tre và họ thờ các Thổ tù, Thổ lang, tục thờ vật thiêng… “thần
linh chúa đất” (thờ thổ thế), khi khấn thì họ khấn cùng các ma núi, ma suối,
ma rừng…
Những ngơi đình, miếu thờ này của người dân tộc Mường là nó trước
hết là thể hiện mong muốn ước mơ của dân tộc Mường “cầu cho mưa
thuận, gió hồ”, cầu cho cây trái được mùa, lúa xanh tốt, nặng bơng…
nhưng sau đó nó cịn thể hiện tín ngưỡng nhớ về những người được coi như
là tổ tiên gây dựng lên bản mường (tục thờ tổ tiên) và như đã trình bày ở
trên trong nhà của từng gia đình người Mường họ cịn có các bát hương,
chỗ thờ riêng ông bà, cha mẹ đã sinh thành ra mình mà sau khi họ mất họ


9


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

khơng bao giờ bị lãng quên và người Mường quan niệm rằng ; con người
sau khi chết thì chỉ phần xác là chết cịn phần hồn thì được đầu thai sang
một kiếp khác - tức là họ được sống ở một thế giới khác - thế giới của các
thần linh.
Chắc chắn rằng bất cứ ai khi nói đến đời sống tâm linh của dân tộc
Mường lại không nhắc đến “Mo” Mường . Cũng như người Việt (Kinh)
sống gắn bó với nhau trong các xóm, làng thì ai mà chả biết đến “tun
ngơn độc lập” của Hồ Chí Minh hoặc bất cứ một tác phẩm nổi tiếng của Tố
Hữu, Nguyễn Đình Thi, Huy Cận… thì người Mường nào trong làng bản
mường đều biết đến mo “đẻ đất đẻ nước”, nó có tới hàng vạn câu nó phản
ánh vốn văn hố Mường, nó được viết như sau :
Đẻ đất
Muốn ăn cơm thì phải tìm giống giao mạ
Muốn ăn cá phải tát suối, tát ao.
Muốn biết chuyện đất đỏ, đất nâu
Phải bảo nhau ngồi nghe, ngồi lắng…
Đẻ nước
Con gà gáy trên đèo xác xác
Con ác kêu trên núi oang oang
Mặt trời lên sáng rừng, sáng cỏ
Sáng cả chín đất, mười phương chân trời…
Những câu thơ ở trên chỉ là trích đoạn đầu tiên của bài mo mường ở
Phú Thọ, nó diễn tả được nguồn gốc sản sinh ra bản mường và sinh ra con
người và qua đó với đời sống vật chất thiếu thốn và họ hình thành các
quan niệm, quan điểm, kiêng kị… mà sau này nó trở thành chính tín


10


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

ngưỡng của dân tộc họ và nó mang tính chất đặc trưng và chỉ dân tộc
Mường mới có những đặc trưng đó.
Có thể nói rằng ngôi nhà sàn Mường , các phong tục tập quán : ẩm
thực, canh tác, thờ cúng… nó là các đặc điểm rất riêng cho dân tộc Mường
cả nước nói chung và được thể hiện rõ ở Phú Thọ. Ngôi nhà sàn Mường
vững trãi ở trên sườn núi. Những dàn cồng chiêng sắc bùa rộn ràng mỗi khi
xuân về. Những tối sinh hoạt hát thường đang, bọ meng, hái xường (2) bịn
rịn bước chân người đi, kẻ ở. Những bộ cạp váy Mường độc đáo tôn cao vẻ
đẹp thiếu nữ Mường. Sự tinh tế trong sinh hoạt những món ăn mang đậm
bản chất dân tộc. Rất nhiều tập tục kiêng ky, người Mường cịn giữ và duy
trì trong đời sống đương đại đã đưa chúng ta lần trở về gần gũi bên nhau,
nếp sống Mường đang có sự hồ hợp để tìm về cội nguồn của một nền văn
hố Đơng Sơn rực rỡ thồi đầu dựng nước của dân tộc.

11


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Chương II
TÍN NGƯỠNG - TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN
CỦA DÂN TỘC MƯỜNG Ở PHÚ THỌ HIỆN NAY.
2.1 : KHÁI NIỆM TÍN NGƯỠNG :
2.1.1 : Các quan điểm ngồi Mác xít về tín ngưỡng :

Tín ngưỡng là một hiện tượng lịch sử xã hội rrên thế giới, trên thế
giới có hàng ngàn các loại tín ngưỡng khác nhau, rất phong phú, đa dạng.
Do cách tiếp cận, mục đích nghiên cứu khác nhau, các cách hiểu tín
ngưỡng, vì vậy mà nó rất khác nhau. Để đưa ra một nét đặc trưng nhất về
tín ngưỡng thì cần điểm qua một số quan điểm khác nhau về tín ngưỡng
trong giới nghiên cứu.
Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về tín ngưỡng :
Chủ nghĩa duy tâm khách quan với đại biểu như Platon và Hêghen…
đều xuất phát từ thực thể “ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối” để lý giải các hiện
tượng lịch sử xã hội, trong đó có tín ngưỡng. Nói chung họ đều cho rằng tín
ngưỡng, tơn giáo là một sức mạnh kỳ bí thuộc “tinh thần” tồn tại vĩnh hằng,
là cái chủ yếu đem lại sinh khí cho con người. Các ông đã lấy “tinh thần”
hoặc “ý thức” để thay thế cho con người hiện thực, họ đã thần bí hố hiện
tượng tín ngưỡng, họ khơng thấy được mối quan hệ giữa con người với thế
giới hiện thực, khơng thấy được mặt xã hội của tín ngưỡng.
Quan điểm thần học của tíng ngưỡng:
Các nhà thần học như Tomalđa canh, Pnơntilích K.lê machơ, U.oat,
Etơrơtcho v.v.. xem tín ngưỡng tơn giáo là tin vào cái thiêng liêng, cái
huyền bí, ở đó nó chứa ẩn sức mạnh siêu nhiên có thể cứu giúp con người
khỏ khổ đau và có được hạnh phúc. Niềm tin vào thiêng liêng, cái siên

12


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

nhân ở đây chính là niềm tin vào thượng đế, tin vào cái “tối thượng” là tiêu
chí quyết định của tín tín ngưỡng tơn giáo. Một số nhà tơn giáo đương đại
cho rằng : “tín ngưỡng không phải là một thứ thế giới quan tự biện, cũng
khơng chỉ là tin vào niềm tin, nó là một thứ thái độ sinh tồn, một thứ tự lý

giải” (3)
Các quan điểm khác về tín ngưỡng :
Spenset, Durkheim, M.Wber từ góc độ xã hội học đã có cái nhìn mới
về tôn giáo. Spenser, Duikheim coi xã hội như một hiện thực siêu hình,
ni dưỡng bằng một ý thức tập thể, ý thức đó lại được tạo bởi niềm tin,
những tình cảm của mỗi thành viên. Niềm tin tín ngưỡng tơn giáo chính là
xạ ảnh của đời sống xã hội Durkheim cho rằng : “tín ngưỡng” là trạng thái
tư tưởng, nằm ở các biểu tượng và được thể hiện thông qua các lễ nghi thờ
cúng. Theo ơng tín ngưỡng “tơ tem” của người nguyên thuỷ là biểu tượng
thần linh (cái thiêng) vừa là biểu tượng của cộng đồng xã hội (cái thế tục)
là phổ biến trong xã hội nguyên thuỷ.
M.weber lại cho rằng : tín ngưỡng, tơn giáo có trong một kiểu dạng
cụ thể như : “một dạng đặc biệt của hoạt động trong cộng đồng”, gắn với
“các thế lực siêu nhiên” (4). Thơng qua các hình thức tín ngưỡng, tơn giáo
thì ơng đã thấy sự tác động của tín ngưỡng, tôn giáo đối với đời sống tinh
thần của chủ nghĩa tư bản .
Freud tiếp cận tín ngưỡng bằng phương pháp phân tâm học, ơng cho
rằng tín ngưỡng là sản phẩm của vô thức, là “sự thăng hoa”, “niềm hân
hoan” của người nguyên thuỷ trong tục “ăn thịt vật tố” đó chính là những
hành động hạn chế về đạo đức và tín ngưỡng.
Tylor, từ góc độ nhân loại học, xem tín ngưỡng tơn giáo là “lịng tin
vào những vật linh”, các vật ấy là mama hay Wakan mang tính diêu nhân

13


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

và đều có linh hồn (animé). Ơng cho rằng : “Mặt trời và các vì tinh tú, cây
cối, sơng ngịi, gió và mây trở nên những tạo vật sống động và cũng có

cuộc sống như người và sinh vật” (5).
Phoi-ơ-bắc: “ Xuất phát từ sự thực là sự tha hố về mặt tơn giáo, từ
sự phân hố thế giới thành thế giới tơn giáo, thế giới tưởng tượng và thế
giới hiện thực” (6) đã hoà tan thế giới tôn giáo và cơ sở trần tục của nó
khơng thấy rằng “tình cảm tơn giáo” cũng là sản phẩm xã hội (7). Từ đó
ơng có chủ trương thay tín ngưỡng cơ đốc bằng một tơn giáo khác đó là
tình u thương giữa người với người trên trần gian.
Tóm lại, các cách tiếp cận trên về tín ngưỡng do hạn chế về lịch sử
và lợi ích giai cấp nên đã đi đến những kết luận chưa có cơ sở khoa học.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, tín ngưỡng là hiện tượng thần bí siêu thực,
chỉ có thể cảm nhận, tin và không thể lý giải được, hoặc cũng chỉ là hiện
tượng tự nhiên mang tính bẩm sinh.
Quan điểm của xã hội học chủ yếu đi sâu vào phân tích chức năng xã
hội, vai trị và ảnh hưởng của tơn giáo, tín ngưỡng, nhưng lại phân tích tín
ngưỡng - tôn giáo tách rời đời sống tinh thần phong phú của con người
chưa thấy được ranh giới giữa các hiện tượng tơn giáo và phi tơn giáo.
Cịn các quan điểm khác, thì chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu sự thể
hiện của nội tâm, đó là niềm tin, tâm lý tơn giáo, song cịn chưa thấy được
mặt xã hội của tín ngưỡng, tơn giáo.
quan điểm của Phoi-ơ-Bắc đã chỉ ra được nguồn gốc nhận thức của
tín ngưỡng, tơn giáo. Đấu tranh chống lại quan điểm duy tâm và tôn giáo
trong quan niệm con người, về thượng đế, tuy nhiên khi phân tích và phê
phán chủ nghĩa duy tâm, tơn giáo, ông đã không thấy được chức năng của
tôn giáo và nguồn gốc xã hội của nó, đặc biệt là chưa thấy được chức năng

14


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN


“Đền bù hư ảo” vì thế, mà sông đã rơi vào lập trường duy tâm trong việc
giải quyết vấn đề xã hội trong đó có tín ngưỡng, tơn giáo.
Theo chúng tơi, để có cái nhìn khách quan, tổng thể, khoa học đối
với hiện tượng tín ngưỡng, tơn giáo, thì cần phải có phương pháp tiếp khoa
học, đúng đắn, đó là phương pháp duy vật, biện chứng và duy vật lịch sử
với các quan điểm thực tiễn, lịch sử - cụ thể, hệ thống cấu trúc rõ ràng.
2.1.2 : Quan điểm triết học Mác xít về tín ngưỡng :
Tín ngưỡng là “sự tin tưởng vào sức mạnh của một đấng thiêng
liêng và những giáo lý của một tơn giáo (8).
Trước khi trình bày quan điểm triết học Mác xít về tín ngưỡng, tơn
giáo, thì chúng tơi muốn điểm qua tình hình tĩn ngưỡng ở Việt Nam… tiếp
cận từ góc độ văn hố dân gian xem tín ngưỡng là tín ngưỡng dân gian với
các nghi lễ thờ cúng thể hiện qua lễ hội, phong tục tập quán, truyền thống
của dân tộc Việt Nam. Theo GS Đặng Nghiêm Vạn xem “tín ngưỡng là
một yếu tố chính của tơn giáo, quy định sức mạnh của tơn giáo đó với đời
sống của cộng đồng” (9). Nguyễn Chính cho rằng tín ngưỡng là tín ngưỡng
tâm linh, vì tín ngưỡng tâm linh là hạt nhân của tín ngưỡng, tơn giáo . Đó là
niềm tin sự trông cậy và yêu mến một thế giới siêu nhiên mà con người với
kinh nghiệm và tri thức đã chưa lý giải được (10). Tô Ngọc Tham cho rằng
tín ngưỡng là niềm tin của con người, những điều, nhứng sự vật, nhân vật
nào đó. Niềm tin này khơng giải thích được vì nó đối lập với tư duy khoa
học.
Ngồi ra cịn Nguyễn Văn Kiệm và Nguyễn Chí Bền, Nguyễn Quốc
Phấm nhìn dưới góc độ tơn giáo học và văn hố học xem tín ngưỡng, tơn
giáo là một hiện tượng thuộc ý thức xã hội và xem tín ngưỡng là một bộ
phận cấu thành nên văn hoá được thể hiện qua nghi lễ thờ cúng, là lòng

15



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

ngưỡng mộ, thành kính với những thế lực có ảnh hưởng trong quan hệ với
con người (11).
Trên đây là các quan điểm về tín ngưỡng của các nhà khoa học Việt
Nam. Chúng ta trở lại quan điểm của các nhà kinh điển và chủ nghĩa MácLênin về tín ngưỡng. Các Mác cho rằng : “đời sống xã hội, về thực chất là
có tính thực tiễn. Tất cả những sự thần bí đưa lý luận đến chủ nghĩa thần bí,
đều được giải đáp một cách hợp lý trong thự tiễn của con ngườivà trong sự
hiểu biết thực tiễn ấy” (12). Như vậy, tín ngưỡng về bản chất không phải là
sản phẩm của thần thánh, là cái siêu nhiên, thần bí mà là sản phẩm của xã
hội . Là một hiện tượng xã hội, không tách rời xã hội, mang bản chất xã
hội, tín ngưỡng cũng là hiện tượng thuộc đời sống tinh thần của xã hội,
chịu sự quy định của đời sống vật chất.
C.Mác cho rằng, cần phải “xuất phát từ con người đang hoạt động,
hiện thực của họ mà chúng ta mô tả sự phát triển của những phản ánh tư
tưởng và tiếng vang tư tưởng của q trình ấy” (13). Ở đây khơng phải tinh
thần đời sống, ý thức của đời sống hiện thực nó quyết định đời sống hiện
thực, mà ngược lại tín ngưỡng, tơn giáo có nguồn gốc từ hoạt động thực
tiễn vật chất trong quá trình phát triển của lịch sử, theo sự phát triển của
lịch sử thì các hiện tượng thực tiễn, tính thần bí của tín ngưỡng dần được
làm rõ. Đó là mối quan hệ giữa tín ngưỡng và hoạt động thực tiễn.
Chủ nghĩa duy tâm xuất phát từ các phạm trù mang tính tư liệu như
“tự ý thức”, “tinh thần tuyệt đối”, “ý chí thánh linh”… để giải thích lịch sử,
coi đó là tiền đề để hư cấu lịch sử. Ngược lại, chủ nghĩa Mác-Lênin lại cho
rằng hoạt động sản xuất vật chất là điểm xuất phát của lịch sử nhân loại.
Tín ngưỡng, tơn giáo là một hiện tượng lịch sử, là một sản phẩm của một
thời đại nhất định. C.Mác nói “để có thể đả kích vào các quan hệ hiện tồn
thì cần phải xố bỏ cái thông hào quan thiêng liêng của chúng”. Sự phê

16



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

phán tơn giáo của giai cấp tư sản về cơ bản được kết thúc bởi quan điểm
duy vật của Phoi-ơ-Bắc.
Trong tác phẩm phê phán cương lĩnh, Gơta, C.Mác cho rằng, do tín
ngưỡng của giai cấp tư sản chẳng qua chỉ là các loại tự do tín ngưỡng tơn
giáo. Giai cấp vơ sản khơng chỉ dừng lại ở tự do tín ngưỡng, tơn giáo mà
nó cịn địi hỏi cả tự do tín ngưỡng khơng tơn giáo, nghĩa là tự do tín
ngưỡng vơ thần, tự do tín ngưỡng của giai cấp tư sản chẳng qua chỉ là sự
dung thứ đủ các loại tự do tín ngưỡng, tơn giáo, cịn Đảng thì ngược lại, ra
sức giải thốt lương tri của con người ra khỏi bóng ma tơn giáo” (14).
Quyền tự do của con người, trong đó có quyền tín ngưỡng là một quyền
phổ biến, quyền được mộ đạo theo bất luận kiểu nào, được hành đạo theo
tôn giáo riêng của mình. Đặc quyền tín ngưỡng là một quyền phổ biến của
con người (15).
Như vậy, khác hẳn với các nhà duy tâm lấy ý thức tín ngưỡng để giải
thích lịch sử, coi tín ngưỡng, tơn giáo là một phạm trù vượt qua lịch sử và
là cái thần bí, vĩnh hằng. Mặt khác các nhà Mác-xít xuất phát từ quan điểm
hệ thống - cấu trúc xem tín ngưỡng như một hiện tượng lịch sử và đồng
thời cũng là một bộ phận ý thức xã hội có quy luật hình thành và tồn tại
riêng. Tín ngưỡng vừa là một “chính thể” hoàn chỉnh vừa là một “yếu tố”
trong một hệ thống một chính thể lớn, đó là tồn bộ đời sống tinh thần xã
hội. Nghiên cứu tín ngưỡng, vì thế khơng thể tách tín ngưỡng khỏi các lĩnh
vực của đời sống xã hội, và đời sống vật chất, tinh thần và mối quan hệ qua
lại với đạo đức, chính trị, pháp quyền…
Là một hiện tượng lịch sử, tín ngưỡng có q trình hình thành rất
sớm, hình thức biểu hiện rất phong, đa dạng. Nhưng mỗi loại tín ngưỡng lại
phản ánh mối quan hệ vốn có của một kiểu xã hội, điều kiện tồn tại các tộc

người, các đẳng cấp, các giai cấp, các nền văn hoá khác nhau, các yếu tố

17


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

bên trong của tín ngưỡng quy định mọi nội dung của tín ngưỡng. Đó là ý
thức, tư tưởng, tình cảm, niềm tin chủ yếu, yếu tố bên ngồi được biểu hiện
bằng các hình thức bên ngồi, đó là hệ thống lễ nghi được biểu hiện thơng
qua tập tục, thói quen truyền thống… tín ngưỡng nói chung là một bộ phận
ý thức xã hội phản ánh những quan hệ xã hội hiện tồn.
Tín ngưỡng, theo cách hiểu thơng thường là tín ngưỡng, tơn giáo.
Thực ra về nội dung phản ánh và hình thức thì tín ngưỡng và tơn giáo, tuy
có sự tương đồng song cũng có sự khác biệt nhất định, được thể hiện ở chỗ
:
1- Tín ngưỡng và tơn giáo đều là sự phản ánh hư ảo vào ý thức xã
hội và chịu sự quy định của chính tồn tại xã hội đã sinh ra chúng. Đồcn là
sự phản ánh chân thực, là cách lý giải của con người về các hiện tượng
xung quanh cuộc sống của chính con người. Tín ngưỡng, tơn giáo đều có
nguồn gốc xã hội, nhận thức, tâm lý trong quá trình hình thành và tồn tại,
đều có chức nơng nghiệp đền bù hư ảo và xoa Dịu nỗi đau hiện thực và
hướng tới sự giải thoát về tinh thần.
Ph.Ănghen cho rằng : “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản
ánh hư ảo vào đầu óc con người - của những lực lượng bên ngoài chi phối
cuộc sống hàng ngày của họ ; chỉ là sự phản ánh trong đó có lực lượng trần
thế đã mang hình thức siêu thần thế” (16) và “bên cạnh những lực lượng
siêu nhiên, lại cịn có các lực lượng xã hội tác động - những lực lượng này
đối lập với con người một cách cũng xa lạ lúc đầu cũng không thể hiểu
được đối với họ và cũng thống trị họ với cái vẻ tất yếu bề ngoài giống như

bản thân những lực lượng tự nhiên vậy” (17).
Như vậy tín ngưỡng, tơn giáo là một tiểu hệ thống các kiến trúc
thượng tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng đã sinh ra chúng và phản ánh sự bất
lực của con người trước các lực lượng tự nhiên và xã hội. Nhìn tổng quát

18


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

tuy có mặt tích cực nhưng mặt tiêu cực là phần nhiều. Thực tế lịch sử đã
chứng minh, tín ngưỡng, tơn giáo là vật cản rất lớn trong lịch sử phát triển
của nhân loại.
2- Tín ngưỡng, tôn giáo đều là sự thể hiện niềm tin, sự ngưỡng mộ
của con người đối với một thực thể siêu việt nào đấy như thượng đế, thần,
phật, tổ tiên. .. Niềm tin trong tín ngưỡng, tơn giáo là một niềm tin đặc biệt
của chủ thể nhận thức, chủ thể có thể là cá nhân, có thể là nhóm người,
cộng đồng người… Niềm tin nó được hình thành trên cơ sở những nhận
định thiếu hụt về khách thể và do giai đoạn lịch sử, nên nó hình thành nên
các ý niệm, biểu tượng tơn giáo.
Niềm tin tơn giáo cịn được hình thành trong hồn cảnh tù túng, bất
lực của con người trước cuộc sống họ khơng làm chủ được mình “hoặc
đánh mất mình” và có nhu cầu được đền bù xoa Dịu bằng niềm tin vào lực
lượng siêu nhiên. Nó được hình thành và tồn tại trên cơ sở tình cảm tâm lý
tôn giáo. Bản chất niềm tin tôn giáo là khẳng định sự tồn tại và khả năng
cứu giúp con người của thần thánh.
Như vậy, niềm tin vào cái siêu thực, đấng thiêng liêng là hạt nhân
của tín ngưỡng, tơn giáo. Tín ngưỡng, tơn giáo đều có chức năng đền bù hư
ảo nỗi khổ đau hiện thực của con người.
3- Tín ngưỡng, tơn giáo đều có hệ thống nghi lễ, bao gồm những

biểu tượng mang tính thần thánh, những điều răn dạy, kiêng kỵ, hệ thống
nghi lễ, hình thức, phương tiện để chuyển tải ý thức. Niềm tin tôn giáo, nó
giữ vai trị quan trọng cho sự hồ nhập cộng đồng, nâng sức mạnh của con
người lên trên bản thân mình và giúp họ cảm nhận về thế giới của thần linh.
Bên cạnh những cái giống nhau thì tín ngưỡng, tơn giáo cũng có
những điểm khác nhau cơ bản sau :

19



×