Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Nghiên cứu quy trình cải tạo xe ôtô. Lập hồ sơ thiết kế, cải tạo xe ôtô HYUNDAI 2,5 tấn thành xe ôtô tải có khung mui phủ bạt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.63 MB, 68 trang )

Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
LỜI NÓI ĐẦU
Trong đời sống xã hội ngày nay, ngành giao thông vận tải đang rất phát triển, đi
cùng với nó là sự phát triển của các phương tiện giao thông để đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của xã hội về việc vận chuyển hàng hoá lẫn vận chuyển hành khách từ nơi
này đén nơi khác. Trong quá trình vận chuyển hàng hoá bằng các phương tiện vận tải
thì các phương tiện giao thông vận tải chưa đáp ứng dược nhu cầu vận chuyển.Để đảm
bảo quá trình vận chuyển hàng hóa được tốt nhất thì việc sử dụng xe tải có khung mui
phủ bạt là cần thiết trong quà trình vận chuyển hàng hóa,nó sẽ giải quyết được vấn đề
bảo quản hàng hóa tối ưu nhất.
Với đề tài “Nghiên cứu quy trình cải tạo xe ôtô. Lập hồ sơ thiết kế, cải tạo
xe ôtô HYUNDAI 2,5 tấn thành xe ôtô tải có khung mui phủ bạt” là một đề tài rất
thực tế, phù hợp với điều kiện phát triển của nền công nghiệp ôtô nước ta hiện nay.
Xe tải HYUNDAI 2,5 tấn là một loại phương tiện giao thông vận tải rất phổ
biến ở Việt Nam, nó có những ưu điểm khá nổi trội cho việc lưu chuyển hàng hóa đối
với điều kiện đường xá của nước ta hiện nay. Từ một chiếc HYUNDAI 2,5 tấn ta tiến
hành cải tạo để gắn lên nó chiếc cẩu có tải trọng phù hợp tạo thành ôtô tải cẩu mới
dùng để cẩu hàng hóa hay vận chuyển hàng hóa để đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng
hóa ngày càng cao trong nước.
Được sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Th.S Nguyễn Phú Nam, cùng với sự cố
gắng của bản thân bằng cách vận dụng những kiến thức đã học và tìm hiểu thêm ngoài
thực tế em đã hoàn thành đồ án tốt nghiệp của mình. Tuy nhiên do kiến thức còn hạn
chế, điều kiện tiếp xúc với thực tế còn ít nên khi làm đồ án này chắc chắn sẽ không
tránh khỏi sai sót, mong các thầy cô và các bạn tận tình chỉ bảo thêm. Em xin chân
thành cám ơn.!
Sinh viên thực hiện
Khương Viết Tài
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN
1.1. lịch sử phát triển ngành ô tô trên thế giới.
Để có được một ngành công nghiệp ôtô phát triển rực rỡ như ngày hôm nay,


ngành công nghiệp này đã trải qua một thời gian dài phôi thai mà những nền tảng đầu
tiên chính là phát minh ra các loại động cơ. Năm 1887, nhà bác học người Đức Nicolai
ôtô chế tạo thành công động cơ 4 kỳ và lắp ráp thành công chiếc ôtô đầu tiên trên thế
giới. Có thể nói ôtô ra đời là sự kết tinh tất yếu của một thời kỳ nở rộ những phát minh
trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đầu tiên của nhân loại. Bởi ngay từ thế kỷ 13,
nhà khoa học, triết học người Anh-Roger Bacon đã tiên đoán rằng “Rồi con người có
thể chế tạo ra những chiếc xe có thể di chuyển bằng một loại sức kéo nhanh không thể
tin nổi, song tuyệt nhiên không phải dùng những con vật để kéo
Chiếc ô tô đầu tiên trên thế giới làm bằng gỗ.
Năm 1672 chiếc ô tô bằng gỗ đầu tiên trên thế giới ra đời, đây là chiếc ô tô bằng gỗ và
chạy bằng hơi nước
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
Xe trang bị súng tự hành đầu tiên trên thế giới ra đời năm 1769.
Chiếc xe đầu tiên trang bị vũ khí trên thế giới được nhà chế tạo Nicholas tạo ra năm
1769. Xe chỉ có 3 bánh, tốc độ tối đa 6 km/h và được trang bị súng tự hành đầu tiên
được quân đội Pháp sử dụng.
Động cơ 4 thì đầu tiên thế giới xuất hiện năm 1876.
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
Honda Accord xuất hiện đầu tiên
Chiếc xe có thể gọi là chiếc ôtô đầu tiên của Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Pháp.
Đây là một chiếc xe ba bánh, trang bị động cơ hơi nước tốc độ 2,3 dăm/giờ, do Nicolas
Joesph Cugnot phát minh vào năm 1771. Cỗ máy kồng kềnh này chưa bao giờ được
sản xuất bởi nó quá chậm chạp và nặng nề so với một chiếc xe ngựa.
Một người Pháp khác là Amedee Bollee đã cho ra đời một chiếc xe 12 chỗ, tuy
động cơ có cải tiến hơn nhưng một lần nữa loại động cơ này chứng tỏ vẫn chưa phải là
đối thủ của chiếc xe ngựa kéo! Tính khả thi của ôtô chỉ có được cho đến khi động cơ
đốt trong ra đời.
Sự ra đời của chiếc xe do Gottlied Daimler và Wilhelm Mayback sản xuất tại
Đức năm 1889 đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử ngành ôtô thế giới, chiếc xe
này được trang bị động cơ xăng 1,5 sức ngựa, hai xi lanh hộp số 4 tốc độ, và tốc độ tối

đa 10 dặm một giờ. Cùng năm đó, người ta cũng chứng kiến sự ra đời của động cơ
xăng cũng do một người Đức, Karl Benz phát minh. Ôtô với động cơ xăng do mới
được sản xuất với số lượng rất ít tại Châu Âu và Châu Mỹ nên nó vẫn còn hết sức lạ
lẫm với mọi người trong suốt những năm cuối của thế kỷ 19.
Chiếc xe thương mại đầu tiên mang tên 1901 Curved Dash Oldsmobile do
Ránom E. Olds sản xuất tại Mỹ. Công nghệ sản xuất đại trà và dây chuyền lắp ráp
công nghiệp do Henry Ford ở Detroit, Michigan sáng chế đã cho ra lò chiếc xe động
cơ xăng đầu tiên và năm 1896. Ford bắt đầu sản xuất mẫu xe “T” vào năm 1908 và vào
thời điểm ngừng sản xuất năm 1927, đã có hơn 18 nghìn chiếc xe được xuất xưởng.
* Trang sử ngành ôtô thế giới bắt đầu vào ngày 29 tháng 01 năm 1886 khi Karl
Benz nhận bằng sáng chế số DRP 37435 cho chiếc xe ba bánh gắn máy của ông.
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
* Ngày 08 tháng 03 năm 1886 Gottleb Daimler đặt hàng một chiếc xe từ nhà
sản xuất xe ngựa kéo Wilhelm Wimpff & Sohn ở Stuttgart và sau đó gắn động cơ cho
chiếc xe này. Đó là chiếc xe ôtô 4 bánh đầu tiên trên thế giới.
* Ngày 29 tháng 09 năm 1888 sau khi Daimler cấp phép sản xuất trên thị
trường nước Mỹ, nhà sản xuất đàn Piano William Steinway đã thành lập công ty
Daimler Motor tại Long Island, New York.
* Mặc dù George. Selden chưa bao giờ sản xuất ôtô nhưng bằng sáng chế đầu
tiên về ôtô lại được trao cho George B. Selden vì ông ta là người đầu tiên đệ đơn dăng
ký độc quyền vào ngày 08 tháng 05 năm 1879. Ngay sau đó Selden đã được cấp phép
và thu tiền bản quyền từ tất cả các nhà sản xuất ôtô tại Mỹ cho đến khi có một phán
quyết từ tòa án Mỹ vào năm 1911 bác bỏ quyền của Selden.
Nicholas-Joseph Cugnot (1725- 1804) đã phát minh ra xe kéo pháo gắn động cơ hơi
nước với tốc độ 2 dặm/ giờ, ngoài việc kéo một khẩu pháo thì xe này có thể trở được 4
người. Khả năng vận hành của chiếc xe này rất kém và nó đã trở thnàh thủ phạm trong
vụ tai nạn giao thông đầu tiên trong lịch sử ngành ôtô thế giới.
Kể từ khi ra đời, ôtô đã dành được sự quan tâm của biết bao nhiêu nhà khoa
học, bác học vĩ đại, họ miệt mài nghiên cứu ngày đêm để không ngừng cải tiến nó về
cả hình thức lẫn chất lượng: từ những chiếc xe thuở ban đầu thô sơ, cồng kềnh và xấu

xí ngày càng trở nên nhỏ nhẹ hơn và sang trọng hơn. Không lâu sau ôtô trở nên phổ
biến, với những ưu điểm nổi trội về tốc độ di chuyển cao, cơ động, không tốn sức và
vô số những tiện ích khác, ôtô đã trở thành phương tiện hữu ích, không thể thiếu của
người dân các nước công nghiệp phát triển và là một sản phẩm công nghiệp có ý nghĩa
kinh tế quan trọng ở tất cả các quốc gia trên thế giới.Chính vì thế, theo lịch sử ngành
công nghiệp ôtô thế giới, năm đầu tiên của thế kỷ 20 - năm 1901, trên toàn thế giới đã
có 621 nhà máy sản xuất ôtô xe máy,trong đó 112 ở Vương quốc Anh, 11 ở Italy, 35 ở
Đức, 167 ở Pháp, 215 ở Mỹ và 11 nước khác. Tuy nhiên, mốc thời gian đánh dấu sự
ra đời chính thức của ngành công nghiệp ôtô phải kể đến năm 1910 khi ông Henry
Ford-Người sáng lập ra tập đoàn Ford Motor nổi tiếng, bắt đầu tổ chức sản xuất ôtô
hàng loạt trên qui mô lớn.
Vào những năm 1930 của thế kỷ 20, trước chiến tranh thế giới thứ 2, ôtô đã có
được những tính năng kỹ thuật cơ bản. Cùng với những thành tựu khoa học kỹ thuật
thời đó, công nghiệp ôtô thế giới đã thực sự trở thành một ngành sản xuất đầy sức
mạnh với 3 trung tâm sản xuất chính Bắc Mỹ, Tây Âu (từ trước chiến tranh thế giới
thứ I) và Nhật Bản(trước chiến tranh thế giới thứ II). Hầu hết các hãng sản xuất có tên
tuổi trên thế giới như Ford, General Motor, Toyota, Mercedes-Benz đều ra đời trước
hoặc trong thời kỳ này.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại bùng
nổ, ôtô và công nghiệp ôtô cũng có những bước tiến vượt bậc. Những thành tựu khoa
học kỹ thuật được áp dụng như vật liệu mới, kỹ thuật điện tử, điều khiển học đã làm
thay đổi cơ bản, bản thân ôtô và công nghiệp ôtô cả về mặt kỹ thuật, khoa học công
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
nghệ cũng như về quy mô kinh tế xã hội. Nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển của
ôtô và ngành sản xuất ôtô thế giới, có thể hoàn toàn đồng ý với ý kiến cho rằng thế kỷ
20 là thế kỷ của ôtô. Quá trình phát triển của ngành công nghiệp ôtô trên thế giới có
thể chia làm 3 giai đoạn:
- Trước năm 1945: Nền công nghiệp ôtô của thế giới chủ yếu tập trung tại Mỹ,
sản lượng công nghiệp ôtô ở Tây Âu và Nhật Bản rất thấp.
- Giai đoạn 1945-1960: Sản lượng công nghiệp ôtô của Nhật Bản vàTây Âu

tăng mạnh song còn nhỏ bé so với Mỹ.
- Giai đoạn từ 1960 trở lại đây: Nền công nghiệp sản xuất ôtô xe máy Nhật đã
vươn lên mạnh mẽ và đã chiếm vị trí thứ nhất trong ngành công nghiệp to lớn này.
Nhật đã trở thành đối thủ số một của Mỹ và Tây Âu trong ngành công nghiệp ôtô.
Ngành công nghiệp ôtô của Nhật có khả năng cạnh tranh rất lớn, để sản xuất 1 chiếc
xe ôtô mới, Nhật chỉ cần 17 giờ trong khi Mỹ cần 25 giờ và Tây Âu cần 37 giờ. Còn
để xuất xưởng 1 mẫu xe mới Nhật chỉ cần 43 tháng trong khi Mỹ cần 62 tháng và Tây
Âu cần những 63 tháng. Bên cạnh đó là tính cạnh tranh của các bộ phận chi tiết phụ
tùng. Số lượng các khuyết tật tính trung bình trên 1 xe của Nhật là 0,24 so với Mỹ là
0,33 và Tây Âu là 0,62. Tuy nhiên sức cạnh tranh này gần đây đã giảm. Sản lượng ôtô
trên thế giới, từ năm 1960 đến nay, gần như ổn định quanh con số khoảng 50-52 triệu
xe/năm, tập trung vào 3 trung tâm công nghiệp lớn là Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu. Thị
trường thế giới về ôtô vào khoảng 780 tỷ USD/năm. Riêng 6 tập đoàn lớn của công
nghiệp ôtô năm 1999 đã sản xuất tới 82,5% tổng số ôtô thế giới trong đó Mỹ có 3 tập
đoàn, Nhật, Đức, Pháp mỗi nước một tập đoàn.
Tại Châu Âu, đại diện cho nền công nghiệp ôtô là các Hãng nổi tiếng của Đức
như BMW, Mercedes Benz; của Pháp như Renault, Peugeot, Citroen; của Italy như
Fiat, Iveco Riêng hãng xe Renault - Volvo đã có doanh số bán năm 1992 là 244 triệu
FF. Tại Mỹ có ba hãng ôtô khổng lồ là GM, Ford, Chrysler và ngoài ra còn có các
hãng xe của Nhật liên doanh như Navistar, US Honda, International, Diamond-ster,
Numi. Nhật Bản nổi tiếng với các hãng ôtô lớn mạnh không ngừng như Nissan,
Toyota, Honda, Mitsubishi Các hãng này đã vươn rộng ra các thị trường thế giới và
là từng làm các hang xe Mỹ và Tây Âu điêu đứng ngay trên sân nhà của các hãng này.
Cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế và xu thế toàn cầu hoá, một số quốc
gia, khu vực như Trung Quốc và ASEAN đã có những thành tựu đáng kể trong tăng
trưởng kinh tế cũng đã gia nhập ngành công nghiệp ôtô thế giới. Hiện nay, hàng năm
Trung Quốc sản xuất ra khoảng 1,2 triệu xe và các nước ASEAN đã góp tiếng nói của
mình với sản lượng gần 1 triệu xe mỗi năm. Hiện nay, theo nhận xét, đánh giá của
Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô thế giới, hãng General Motor được công nhận là hãng
ôtô lớn nhất thế giới, Ford chiếm vị trí thứ 2; vị trí thứ 3 thuộc về Toyota. Ngoài ra,

cũng có thể nhìn nhận lịch sử phát triển của ngành công nghiệp ôtô thế giới theo một
cách khác. Ngành công nghiệp này đã trải qua hai thời kỳ chính: thời kỳ sản xuất hàng
loạt và thời kỳ sản xuất theo nhu cầu của khách hàng. ở giai đoạn sản xuất hàng loạt,
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
Người Mỹ luôn dẫn đầu trong đó đi tiên phong là Herry Ford người đã mở màn cho
sản xuất ôtô hàng loạt trên quy mô lớn. Nhưng bước sang thời kỳ sản xuất theo nhu
cầu khác hàng, Người Mỹ buộc phải chịu thua Người Nhật. Đó cũng chính là lý do các
hãng xe của Nhật làm cho các hãng xe của Mỹ phải đau đầu ngay tại thị trường Mỹ.
Tóm lại, trong quá trình phát triển kinh tế, mỗi quốc gia khu vực đều sớm nhận
thấy tầm quan trọng của ngành công nghiệp ôtô và cố gắng xây dựng ngành công
nghiệp này ngay khi có thể. Nhưng không vì thế mà ngành công nghiệp ôtô thế giới trở
nên manh mún, nhỏ lẻ mà chính các tập đoàn ôtô khổng lồ hoạt động xuyên quốc gia
như một sợi dây xâu chuỗi liên kết có vai trò quyết định trong việc hình thành và phát
triển ngành công nghiệp ôtô các quốc gia nói riêng và ngành công nghiệp ôtô thế giới
nói chung. Vậy nên ngành công nghiệp ôtô thế giới hình thành, lớn mạnh và phát triển
gắn liền với sự ra đời, liên kết, hợp tác, sáp nhập và lớn mạnh không ngừng của các
tập đoàn ôtô khổng lồ hoạt động ở khắp các quốc gia, châu lục.
Cho đến nay để nhận định chiếc xe hơi đầu tiên ra đời khi nào vẫn còn nhiều luống ý
kiến khác nhau trên thế giới. Nguồn gốc của từ ôtô làautomobile (tiếng Anh), có nghĩa
là tự động (auto) chuyển động (mobile). Như vậy nếu căn cứ theo định nghĩa, chiếc xe
hơi đầu tiên trên thế giới ra đời năm 1770 do Nicolas Joseph Cugnot chế tạo chạy bằng
động cơ hơi nước.
Tuy nhiên, từ khi xuất hiện động cơ đốt trong do Nicolaus Otto phát minh năm 1876,
người ta coi xe hơi ra đời ở thời kỳ này mới là nguồn gốc bởi có hình dáng và động cơ
gần với ngày nay nhất. Tiêu biểu đó là những chiếc xe do Gottlieb Daimler, Wihehm
Maybach hay Karl Benz chế tạo.
Thời điểm đánh dấu ôtô bắt đầu được chú ý đưa vào sản xuất hàng loạt thành phương
tiện di chuyển là năm 1892 tại Chicago (Mỹ). Ở đây người ta chứng kiến một chiếc xe
ôtô có 4 bánh, hệ thống đánh lửa bằng điên, bộ bơm dầu tự động, đạt vận tốc khoảng
20 km/h.

Tuy Đức là đất nước đầu tiên đưa ôtô vào sản xuất hàng loạt nhưng Mỹ mới là nơi
chứng kiến công nghiệp xe hơi lên ngôi. Trong bối cảnh ngành còn sơ khai, người dẫn
đất nước cờ hoa chỉ hào hứng vào những chiếc xe hơi xa hoa, đắt tiền mang thương
hiệu Cadillac, Pascal thì xuất hiện một nhân vật đi ngược xu hướng, đó là Henry Ford.
Người sau này trở thành nhân vật tên tuổi nhất nền công nghiệp xe hơi Mỹ.
Ford đã sử dụng dây chuyền lắp ráp di động và phân chia công việc từng phần cho các
công nhận, từ đó tạo ra rất nhiều xe hơi giá rẻ chỉ 1.000 USD. Ông trở nên nổi tiếng và
giàu có nhanh chóng. Các hãng khác lợi dụng xu hướng mà Ford tạo ra để phát triển
thị trường. Cuối cùng Mỹ tạo dựng 3 hãng lớn nhất là Ford, GM (General Motor) và
Chrysler.
Cùng với châu Âu và châu Mỹ, tại châu Á cũng có một đất nước nổi lên là Nhật Bản.
Chiếc xe đầu tiên của Nhật Bản có tên Takkuri, do Uchiyama Komanosuke, kỹ sư ôtô
đầu tiên của xứ mặt trời mọc sản xuất vào năm 1907. Tuy nhiên, số lượng ít, giá thành
cao khiến xe Nhật không thể cạnh tranh được với xe nhập từ Mỹ.
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
Trong suốt chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật chỉ sản xuất ôtô phục vụ cho chiến tranh.
Từ năm 1952, sự phát triển mới bắt đầu trở lại. Nhật Bản vươn lên mạnh mẽ với các
hãng xe hàng đầu thế giới như Toyota, Honda, Nissan xuất khẩu. Sở dĩ xe Nhật được
ưa chuộng rộng khắp bởi nhỏ gọn, ít tốn nhiên liệu, giá cả hợp lý và đặc biệt bền, ít
trục trặc.
Đến thời điểm hiện nay, châu Á vẫn là nơi sản xuất nhiều ôtô trên thế giới nhất
với sự nổi lên của Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan Đây cũng là thị trường hấp dẫn
với bất cứ hãng xe nào trên thế giới bởi kinh tế đang trên đà phát triển nóng, dân số
đông và lượng xe chưa đạt mức bão hòa.
Xu hướng hiện nay ngoài vấn đề tiết kiệm,chất lượng tốt thì người tiêu dùng
còn hướng tới yếu tố thiết kế ấn tượng và tính tiện dụng cao. Vì thế sự cạnh tranh về
mức giá dần mất ý nghĩa, thay vào đó là thỏa mãn và gợi mở nhu cầu khách hàng.
Chiếc xe ô tô chạy bằng động cơ xăng (động cơ Otto) được Karl Benz phát
minh ra ở Đức năm 1885. Mặc dù Karl Benz được công nhận là người sáng tạo ra
chiếc ô tô hiện đại, nhiều kỹ sư người Đức khác cũng đã làm việc để chế tạo ra những

chiếc ô tô khác trong cùng thời gian. Các nhà phát minh đó là: Karl Benz, người được
cấp một bằng sáng chế ngày 29 tháng 1 năm 1886 ở Mannheim cho chiếc ô tô ông chế
tạo năm 1885, Gottlieb Daimler và Wilhelm Maybach ở Stuttgart năm 1886 (cũng là
những nhà phát minh ra chiếc xe mô tô đầu tiên), và năm 1888/89 nhà phát minh
người Đức-Áo Siegfried Marcus ở Viên, mặc dù Marcus không đạt tới giai đoạn thực
nghiệm.
Năm 1806 Fransois Isaac de Rivaz, một người Thuỵ Sỹ, đã thiết kế ra chiếc
động cơ đốt trong (hiện nay thỉnh thoảng được viết tắt là "ICE") đầu tiên. Sau đó, ông
dùng nó để phát triển ra loại phương tiện đầu tiên trên thế giới chạy bằng động cơ sử
dụng một hỗn hợp hydro và oxy để phát ra năng lượng. Thiết kế này không thành công
lắm, cũng giống như trường hợp nhà phát minh người Anh Samuel Brown, và nhà phát
minh người Mỹ, Samuel Morey, những người đã chế tạo ra những phương tiện có
động lực từ các động cơ Etienne Lenoir đã chế tạo thành công một động cơ đốt trong
đứng yên năm 1860, và trong vòng vài năm, khoảng bốn trăm chiếc như vậy đã hoạt
động ở Paris. Khoảng tới năm 1863, Lenoir đã lắp cái động cơ của ông lên một chiếc
xe. Có lẽ động cơ của nó dùng nhiên liệu từ các bình gas thắp đèn thành phố, và
Lenoir đã nói rằng nó “chạy chậm hơn một người đi bộ, và luôn luôn gặp trục trặc”.
Trong bằng sáng chế năm 1860 của mình, Lenoir đã thêm vào một cái chế hoà khí
(carburettor), nhờ thế nhiên liệu lòng có thể được dùng để thay thế cho khí gas, đặc
biệt cho các mục đích chuyển động của phương tiện. Lenoir được cho rằng đã thử
nghiệm nhiên liệu lỏng, như cồn, vào các động cơ đứng yên của mình; nhưng không
có vẻ rằng ông đã dùng các động cơ đó để lắp lên xe của mình. Nếu ông làm thế, chắc
chắn ông không dùng xăng, bởi vì nó chưa tiện dụng vào lúc ấy và Cải tiến tiếp sau
xảy ra cuối thập kỷ 1860, với Siegfried Marcus, một người Đức làm việc ở Viên, Áo.
Ông đã phát triển ý tưởng sử dụng xăng làm nhiên liệu cho động cơ đốt trong hai kỳ.
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
Năm 1870, sử dụng một xe đẩy tay đơn giản, ông đã chế tạo một phương tiện thô
không có chỗ ngồi, thiết bị lái, hay phanh, nhưng nó rất đáng chú ý ở một điểm: nó là
phương tiện lắp động cơ đốt trong đầu tiên trên thế giới sử dụng nhiên liệu xăng. Nó
được đem ra thử nghiệm ở Viên tháng 9, 1870 và bị xếp xó. Năm 1888 hay 1889, ông

chế tạo một cái ô tô thứ hai, cái này có ghế ngồi, phanh và thiết bị lái và được lắp một
động cơ đốt trong bốn kỳ do chính ông thiết kế. Thiết kế này có thể đã được đem ra
thử nghiệm năm 1890. Mặc dù ông có được các bằng sáng chế cho nhiều phát minh
của mình, ông không bao giờ xin cấp bằng phát minh cho các thiết kế ở thể loại này.
Động cơ đốt trong bốn thì đã được thu thập tài liệu và đưa ra xin cấp bằng phát minh
vào năm 1862 bởi một người Pháp là Beau de Rochas trong một cuốn sách mỏng và
dài dòng. Ông đã in khoảng ba trăm bản sách đó và chúng được đem phân phát ở
Paris, nhưng không mang lại điều gì, và bằng sáng chế này cũng nhanh chóng hết hạn
sau đó – còn cuốn sách thì hoàn toàn bị lãng quên. Trên thực tế, sự hiện diện của nó
không được biết tới và Beau de Rochas không bao giờ chế tạo một động cơ riêng biệt.
Đa số các nhà sử học đồng ý rằng Nikolaus Otto người Đức đã chế tạo ra chiếc động
cơ bốn thì đầu tiên dù bằng sáng chế của ông bị bác bỏ. Ông không hề biết gì về bằng
sáng chế hay ý tưởng của Beau de Rochas và hoàn toàn tự mình nghĩ ra ý tưởng đó.
Thực tế ông đã bắt đầu suy nghĩ về khái niệm này năm 1861, nhưng đã bỏ rơi nó cho
tới giữa thập kỷ 1870. Có một số bằng chứng, dù chưa được xác định, rằng Christian
Reithmann, một người Áo sống ở Đức, đã chế tạo ra một chiếc động cơ bốn thì hoàn
toàn dựa trên ý tưởng của mình năm 1873. Reithmann đã thực nghiệm các động cơ đốt
trong ngay từ đầu năm 1852.Năm 1883, Edouard Delamare-Deboutteville và Leon
Malandin nước Pháp đã lắp một động cơ đốt trong dùng nhiên liệu là một bình khí gas
đốt đèn thành phố lên một chiếc xe ba bánh. Khi họ thử nghiệm thiết bị này, chiếc vòi
bình gas bị hở, gây ra một vụ nổ. Năm 1884, Delamare-Deboutteville và Malandin chế
tạo và xin cấp bằng sáng chế cho một phương tiện thứ hai. Chiếc xe này gồm một
động cơ bốn thì dùng nhiên liệu lỏng lắp trên một cái xe ngựa bốn bánh cũ. Bằng sáng
chế, và có lẽ cả chiếc xe, chứa nhiều cải tiến, và một số cải tiến đó còn được ứng dụng
trong nhiều thập kỷ tiếp theo. Tuy nhiên, trong lần thử nghiệm đầu tiên, cái khung rời
ra, và chiếc xe “rung lắc và rời ra từng mảnh” theo đúng nghĩa đen, theo lời thuật lại
của Malandin. Hai người này không chế tạo tiếp các xe khác nữa. Dự án kinh doanh
của họ hoàn toàn không được nhắc tới và bằng sáng chế cũng không được sử dụng.
Những kinh nghiệm và kết quả thực nghiệm của họ bị lãng quên Có lẽ, cuối thập kỷ
1870, một người Italia tên là Murnigotti đã xin cấp bằng phát minh cho ý tưởng lắp đặt

một đông cơ đốt trong lên trên một loại phương tiện, dù không có bằng chứng là đã
từng chế tạo được một thứ như thế. Năm 1884, Enrico Bernardi, một người Italia khác
đã lắp một động cơ đốt trong lên chiếc xe ba bánh của con ông. Dù nó đơn giản chỉ là
một thứ đồ chơi, có thể nói rằng về mặt nào đó nó đã hoạt động khá thành công, nhưng
một số người cho rằng động cơ quá yếu để có thể làm chiếc xe di chuyển được. Tuy
nhiên, nếu tất cả những cuộc thực nghiệm trên không diễn ra, có lẽ sự phát triển của xe
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
hơi sẽ không thể nhanh chóng như vậy bởi vì có nhiều cuộc thực nghiệm không được
biết tới và chúng không bao giờ tiến tới được giai đoạn thử nghiệm. Ô tô dùng động cơ
đốt trong thực sự có thể cho là đã bắt đầu ở Đức với Karl Benz năm 1885, và Gottlieb
Daimler năm 1889, vì những chiếc xe của họ thành công nên họ có thể đưa vào sản
xuất . Mẫu của Benz Patent Motorwagen được xây năm 1885Karl Benz bắt đầu xin
những bằng phát minh mới về động cơ năm 1878. Ban đầu ông tập trung nỗ lực vào
việc tạo ra một động cơ hai thì dùng nhiên liệu gas dựa trên thiết kế của Nikolaus Otto
về loại động cơ bốn thì. Một bằng sáng chế về thiết kế của Otto đã bị bác bỏ. Karl
Benz hoàn thành chiếc động cơ của mình vào đêm giao thừa và được cấp bằng phát
minh cho nó năm 1879. Karl Benz chế tạo chiếc ô tô ba bánh đầu tiên của mình năm
1885 và nó được cấp bằng ở Mannheim, đề ngày tháng 1, 1886. Đây là -“chiếc ô tô
đầu tiên được thiết kế và chế tạo theo đúng nghĩa”- chứ không phải là một cái xe ngựa,
tàu, hay xe kéo được chuyển đổi. Trong số những thiết bị mà Karl Benz phát minh cho
xe hơi có chế hoà khí, hệ thống điều chỉnh tốc độ cũng được gọi là chân ga, đánh lửa
sử dụng các tia lửa điện từ một ắc quy, bugi, khớp ly hợp, sang số, và làm mát bằng
nước. Ông đã chế tạo thêm các phiên bản cải tiến năm 1886 và 1887 – đưa vào sản
xuất năm 1888 - chiếc xe đầu tiên trên thế giới được đưa vào sản xuất. Gần hai nhăm
chiếc đã được chế tạo ra trước năm 1893, khi chiếc xe bốn bánh của ông được đưa ra
giới thiệu. Chúng được lắp các động cơ bốn thì theo thiết kế của riêng ông. Emile
Roger nước Pháp, đã chế tạo các động cơ của Benz dưới bằng phát minh của ông, và
lúc ấy cũng đưa ô tô của Benz vào dây chuyền sản xuất của mình. Bởi vì Pháp là nơi
có thái độ chấp nhận hơn với những chiếc ô tô đầu tiên, nói chung ô tô được chế tạo và
bán ở Pháp qua Roger nhiều hơn số lượng của Benz lúc ban Gottlieb Daimler, năm

1886, lắp động cơ bốn thì của mình lên một chiếc xe ngựa ở Stuttgart. Năm 1889, ông
chế tạo hai chiếc xe có thể coi là những chiếc ô tô với rất nhiều cải tiến. Từ 1890 đến
1895 khoảng ba mươi chiếc đã được Daimler và người trợ lý sáng tạo của ông là
Wilhelm Maybach, chế tạo ở cả các xưởng của Daimler hay tại Hotel Hermann, nơi họ
lập ra một phân xưởng sau khi những người hỗ trợ rút lui. Hai người Đức đó, Benz và
Daimler, dường như không biết tới công việc của nhau và làm việc độc lập. Daimler
chết năm 1900. Trong thời chiến tranh thế giới thứ nhất, Benz đề xuất hợp tác giữa hai
công ty do hai người lập ra, nhưng mãi tới năm 1926 hai công ty mới hợp nhất dưới
cái tên Daimler-Benz với cam kết sẽ cùng tồn tại dưới tên này cho tới tận năm 2000.
Năm 1890, Emile Levassor và Armand Peugeot nước Pháp bắt đầu sản xuất hàng loạt
các phương tiện gắn động cơ của Daimler, và từ đó mở ra nền tảng ban đầu cho công
nghiệp ô tô ở Pháp. Chúng đều bị ảnh hưởng từ chiếc Stahlradwagen của Daimler năm
1889. Chiếc ô tô Hoa Kỳ đầu tiên bằng động cơ đốt trong chạy nhiên liệu gas có lẽ đã
được thiết kế năm 1877 bởi George Baldwin Selden ở Rochester, New York, ông đã
xin cấp một bằng sáng chế cho một chiếc ô tô năm 1879. Selden không hề chế tạo một
chiếc ô tô riêng biệt cho tới tận năm 1905, khi ông bị bắt buộc phải làm thế, theo luật.
Selden nhận được bằng phát minh của mình và sau đó kiện Ford Motor Company vì vi
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
phạm bằng phát minh của mình. Henry Ford hiển nhiên là chống đội lại hệ thống cấp
bằng sáng chế Hoa Kỳ và trường hợp của Selden kiện Ford đã phải đưa lên Toà án tối
cao, toà phán quyết rằng Ford, và bất kỳ người nào khác, tự do chế tạo ô tô mà không
cần trả tiền cho Selden, bởi vì công nghệ ô tô đã phát triển mạnh từ khi Selden được
cấp bằng. Trong lúc ấy, những cải tiến quan trọng trong lĩnh vực năng lượng hơi nước
ở Birmingham, England bởi Lunar Society đã xảy ra. Cũng chính ở nước Anh, thuật
ngữ sức ngựa được đem ra sử dụng lần đầu tiên. Và cũng chính ở Birmingham những
chiếc xe ô tô bốn bánh chạy bằng dầu được chế tạo lần đầu năm 1895 bởi Frederick
William Lanchester. Lanchester cũng được cấp bằng phát minh ra phanh đĩa tại thành
phố này. Các phương tiện chạy điện được Ford Model T, 1927Bằng sáng chế ô tô đầu
tiên ở Hoa Kỳ được trao cho Oliver Evans năm 1789 cho chiếc "Amphibious Digger"
(Máy xúc chạy trên cạn và dưới nước) của ông. Nó là một chiếc xà lan dùng động cơ

hơi nước được lắp thêm bánh. Năm Evans trưng bày phương tiện tự hành thành công
đầu tiên của mình, nó không chỉ là chiếc xe hơi đầu tiên ở Mỹ mà còn là chiếc xe lội
nước đầu tiên, vì khi nó dùng bánh xe để chạy trên mặt đất, và bánh guồng trên mặt
nước. Chiếc xe không mang lại thành công và bị dỡ ra bán. Chiếc Benz Motorwagen,
chế tạo năm 1885, được trao bằng sáng chế ngày 29 tháng 1, 1886 của Karl Benz là
chiếc xe đầu tiên sử dụng động cơ đốt trong. Năm 1888, diễn ra một đột phá mới trong
lĩnh vực xe hơn với lần lái xe lịch sử của Bertha Benz. Bà đã lái chiếc xe do chồng
mình chế tạo vượt khoảng cách hơn 106 km hay năm mươi dặm. Sự kiện này chứng tỏ
khả năng áp dụng vào thực tế của ô tô và gây được tiếng vang trong dư luận, bà cho
rằng đây là sự quảng cáo cần thiết cho phát để thúc đẩy thêm các phát minh. Chiếc xe
của Benz là ôtô đầu tiên được đưa vào sản xuất và bán thương mại. Lần lái xe lịch sử
của Bertha Benz hàng năm vẫn được coi là ngày lễ tại Đức, với các cuộc diễu hành
Ngày 5 tháng 11, 1895, George B. Selden được trao bằng ságn chế của Hoa Kỳ cho
một động cơ ô tô hai thì (Bằng sáng chế Hoa Kỳ số 549160). Bằng sáng chế này gây
trở ngại nhiều hơn là góp phần phát triển ôtô ở Mỹ. Các ôtô dùng động cơ hơi nước,
điện và xăng đã cạnh tranh với nhau trong nhiều thập kỷ, cuối cùng động cơ xăng đốt
trong đã giành ưu Ransom E. Olds, người sáng tạo ra Dây chuyền lắp rápDây chuyền
sản xuất ô tô lớn bắt đầu được Oldsmobile đưa ra năm 1902, sau này được Henry Ford
phát triển thêm trong thập kỷ 1910. Kỹ thuật ô tô phát triển nhanh chóng, một phần
nhờ sự cạnh tranh lẫn nhau giữa hàng trăm nhà sản xuất nhỏ nhằm giành được sự quan
tâm của thế giới. Những phát triển quan trọng gồm hệ thống đánh lửa và tự khởi động
điện (cả hai đều của Charles Kettering, cho loại xe củaCadillac Motor Company năm
1910-1911), bộ treo độc lập và xe hơi không chỉ đơn thuần là một công cụ cơ khí được
hoàn thiện; kể từ những năm 1920 gần như tất cả đã được sản xuất hàng loạt để đáp
ứng nhu cầu thị trường, do vậy các dự án tiếp thị và sản xuất đáp ứng thị trường
thường thống lĩnh việc thiết kế xe hơi. Chính Alfred P. Sloan là người thiết lập ý tưởng
nhiều kiểu xe được sản xuất bởi một hãng, để người mua có thể "vươn lên" khi họ trở
nên giàu lên. Những kiểu khác nhau này dùng chung một số linh kiện do vậy số lượng
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
sản xuất nhiều sẽ làm giảm giá thành cho từng mệnh giá khác nhau. Ví dụ, vào năm

1950s, Chevrolet dùng chung phần trước xe, của, mái xe và của sổ với Pontiac;
LaSalle của những năm 1930, bán ra bởi Cadillac, sử dụng những linh kiện cơ khí rẻ
hơn được sản xuất bởi phân xưởng của Oldsmobile
1.2. Lịch sử phát triển ngành ôtô ở nước ta
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển ôtô Việt Nam
Hoà nhịp cùng sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam, ngành công
nghiệp ôtô Việt Nam cũng đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm trong quá trình hình
thành và phát triển. Quá trình đó có thể chia thành các thời kỳ sau:
• Thời kì trước năm 1975
Trước năm 1954 xe ôtô sử dụng ở Việt Nam hoàn toàn là xe của nước ngoài
mang từ Pháp sang với các mác xe nổi tiếng như Renault, Peugoet, Citroen Phụ tùng
được nhập 100% từ Pháp, ta chỉ làm những chi tiết đơn giản như bulông, êcu…phục
vụ cho sửa chữa xe. Các hãng của Pháp thành lập các gara vừa trưng bày bán xe, vừa
tiến hành dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng và sửa chữa. Tuy nhiên, số lượng xe ôtô sử
dụng ở Việt Nam trong thời kì này rất ít ỏi.
Đến năm 1950, ta mở chiến dịch biên giới, khai thông biên giới Việt Nam với
các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Ta đã được các nước bạn viện trợ một số xe ca
GAT51 dùng để vận chuyển người và quân khí . Lúc này các xưởng quân giới sản xuất
và sửa chữa vũ khí kiêm luôn việc bảo dưỡng và sữa chữa xe. Sau ngày giải phóng,
một số xưởng quân giới rời về Hà Nội xây dựng thành các nhà máy cơ khí. Do sự khan
hiếm về phụ tùng cho các xe viện trợ, chính phủ ta đã đề ra chính sách về sản xuất phụ
tùng ôtô cho các loại xe này. Bộ công nghiệp nặng thành lập các nhà máy sản xuất phụ
tùng 1, 2, 3 để sản xuất các chi tiết như động cơ, hộp số, gầm xe. Nhà máy sản xuất
ôtô Gò Đầm có sản lượng đạt 500 tấn/năm. Bộ giao thông vận tải giao cho cục cơ khí
trực thuộc thành lập mạng lưới sửa chữa xe và sản xuất phụ tùng khắp các tỉnh từ Lạng
Sơn, Hà Nội đến Nghệ An, Quảng Bình. Một thời gian sau, Cục cơ khí Bộ giao thông
vận tải thành lập nhà máy ôtô 1-5 và nhà máy Ngô Gia Tự sản xuất phụ tùng máy gầm.
Các bộ khác như Bộ Quốc phòng, Bộ Cơ khí luyện kim cũng xây dung riêng cho mình
một nhà máy sản xuất phụ tùng ôtô. Sau đó, Ban cơ khí Chính phủ được thành lập và
đã xác định chiến lược phát triển công nghiệp ôtô. Tiến hành chuyên môn hóa từng

nhà máy trong việc sản xuất phụ tùng dung cho từng mác xe và tiến tới làm toàn bộ chi
tiết để lắp ráp xe hoàn chỉnh. do thời kì này ta còn bị Mỹ cấm vận về kinh tế nên các
hãng sản xuất xe hơi lớn của Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu còn dè dặt trong việc quyết định
có đầu tư tại Việt Nam hay không. Họ thường đầu tư gián tiếp thông qua một công ty
châu á nào đó. Mặc dầu vậy, đây cũng là những tiền đề quan trọng cho việc thành lập
các liên doanh lắp ráp ôtô tại Việt Nam thời gian sau đó.
• Thời kỳ từ năm 1991 đến nay
Cho đến trước khi có mặt của các liên doanh lắp ráp ôtô, tại thị trường Việt
Nam còn đang lưu hành 38.212 xe ôtô thuộc các thế hệ cũ như Gat, Lada, Zil, Volga.
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
Cụ thể, trong dó có một số loại có số lượng đáng kể như : 10.590xe Zil, 9.898 xe uaz,
3720 xe Lada, 982 xe Gat, 2.373 xe Peugeot, 1887 xe Ford cũ, 1.759 xe Jeep, 1996 xe
Paz…
Thế nên phải nói rằng ngành công nghiệp ôtô Việt Nam thực sự hình thành và
phát triển kể từ sau năm 1991 gắn liền với sự ra đời rầm rộ của các liên doanh của hầu
hết các hãng xe nổi tiếng trên thế giới như Ford, Toyota, Mercedes-Benz Hiện nay
trên cả nước đã có 11 liên doanh sản xuất lắp ráp ôtô với tổng số vốn đầu tư là 543,429
triệu đô la, các liên doanh ôtô có tổng sản lượng đạt 148.900 chiếc xe/năm, giải quyết
công ăn việc làm cho hơn 3000 lao động.
Như vậy, các liên doanh có vai trò cực kỳ quan trọng trong bước đầu tạo dựng
nên ngành công nghiệp ôtô Việt Nam trong khi vai trò của các doanh nghiệp ôtô trong
nước của Việt Nam là hết sức mờ nhạt.
Có thể nói, sự ra đời của 11 liên doanh trên đã cho thấy thị trường xe hơi Việt
Nam là thị trường đầy tiềm năng và các nhà đầu tư nước ngoài đã rất chú trọng đến thị
trường này. Mặt khác, điều này cũng cho thấy chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà
nước ta trong việc phát triển ngành công nghiệp ôtô nước nhà thông qua việc liên
doanh, liên kết với nước ngoài. Điều này không những thu hút được lượng vốn lớn vào
Việt Nam mà còn tập trung được kỹ thuật sản xuất hiện đại, phương cách quản lí tiên
tiến. Kinh nghiệm phát triển công nghiệp ôtô của hầu hết các nước trên thế giới cũng
đã cho thấy giai đoạn đầu phát triển rất cần sự hỗ trợ từ bên ngoài, nhất là công nghiệp

ôtô. Từ đây có thể thấy, nếu như quan điểm xây dựng công nghiệp ôtô Việt Nam thủa
sơ khai là đi từ sản xuất phụ tùng cơ bản rồi nâng dần lên sản xuất ôtô đã không có
tính thực tiễn thì nay đã được thay thế bởi con đường đi từ lắp ráp ôtô rồi tiến hành
từng bước nội địa hoá sản xuất phụ tùng như các nước ASEAN và Châu á đã trải qua.
Như vậy, lịch sử hình thành ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đã cho thấy sau
bao năm chúng ta dò dẫm con đường phát triển ngành giờ đây con đường đó đã hiện rõ
hơn và hứa hẹn một triển vọng sáng lạng trong một tương lai không xa. Ngày 2-9-
1960, hai chiếc xe đầu tiên lắp ráp tại Việt Nam đã tham gia diễu hành trên quảng
trường Ba Đình . Sau hai xe này, ta không sản xuất thêm nữa vì chất lượng xe có nhiều
hạn chế. Nhà nước ta đã đề nghị Liên xô giúp đỡ xây dựng một nhà máy sản xuất động
cơ D50 với tất cả các công đoạn hoàn chỉnh từ đúc gang thép, rèn đến gia công cơ khí
chính xác. Năm 1975 khi nhà máy đang xây dựng thì miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Thời gian sau đó, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa không
còn được như trước, làm ảnh hưởng đến việc hoàn chỉnh nhà máy và duy trì hoạt động
sau này. Cuối cùng ta không tiếp tục sản xuất nữa.
• Thời kì Từ năm 1975 đến năm 1991
Thời kì này, tính chất kế hoạch hóa mất dần tác dụng, sự bao cấp đầu vào, đầu
ra cho các nhà máy ôtô không còn được như trước, nhu cầu về phụ tùng cũng hạn chế,
thêm vào đó thiết bị kĩ thuật, máy móc lỗi thời, lạc hậu đã không đảm bảo chất lượng
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
sản phẩm. ở Miền Bắc, các nhà máy của chúng ta xuống cấp nghiêm trọng, đứng trước
nguy cơ phải đóng cửa và một số nhà máy như cơ khí Ngô Gia Tự 3-2, niềm tự hào
của chúng ta trước kia, đã phải cho một bộ phận công nhân nghỉ không ăn lương. ở
miền Nam, chúng ta không có nhà máy sản xuất phụ tùng ôtô, chỉ có các xưởng sửa
chữa và bán phụ tùng xe ngoại nhập.
Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, làm
bạn với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở hợp tác cùng có lợi. Trước tình hình đó,
Đảng và Nhà nước đã nhìn thấy những điểm yếu về vốn, về công nghệ, về con người,
… của ngành trong khi nền kinh tế của chúng ta cần nhiều chủng loại xe để phục vụ
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Để phát triển ngành công nghiệp ôtô, chúng ta cần có nguồn vốn lớn, trang thiết
bị, công nghệ hiện đại, có đội ngũ cán bộ đủ năng lực và trình độ để có thể sử dụng tốt
hệ thống trang thiết bị đó. Song tại thời điểm này, việc chúng ta tự đầu tư toàn bộ trang
thiết bị, công nghệ hoàn chỉnh để sản xuất xe là điều không thể. Mặt khác, chúng ta
chưa có nhiều kinh nghiêm trong công tác quản lí, công tác đào tạo cán bộ cho ngành
công nghiệp này. Trên thế giới đã có một số nước đi theo con đường tự đầu tư bằng
việc vay vốn nước ngoài như Achentina, Mexico,… song vì số vốn vay quá lớn, số
lượng xe tiêu thụ ban đầu còn ít dẫn đến tình trạng tồn đọng nợ, tạo thành gánh nặng
cho Ngân sách Nhà nước.
Chúng ta đã đi theo một hướng khác. Song song với việc kêu gọi các nhà đầu tư
nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam, chúng ta đã ban hành một loạt các chính sách về
ưu đãi đầu tư. Điều này đã làm thị trường ôtô trong nước sôi động hơn, nhiều nhà đầu
tư đã đến Việt Nam để tìm hiêu thị trường, nghiên cứu các hướng đầu tư có lợi nhất.
Tháng 6/1991 chính phủ việt nam cấp giấy phép cho một số công ty liên doanh
lắp giáp ô tô dầu tiên: công ty LD MEKONG có công suất thiết kế 10.000/năm.ngay
sau đó công ty này dã xây dựng tại thành phố hồ chí minh một nhà máy lawos ráp
dang CKD công suất 10.000/năm,, năm 1992 một nhà máy nữa của công ty lại ra đời
tại khu vưc cổ loa,đông anh- hà nội để lắp ráp cỡ trung và cỡ lớn,công suất
20.000/năm.cũng thời gian này 8/1991,công ty lien doanh VMC của nhà máy ô tô Hòa
Bình với công suất thiết kế 10.900/năm cũng được phép hoạt động. Đây chính là
những cơ sở ô tô ra đời sớm nhất. Tuy là 2 liên doanh hoàn toàn không có tên tuổi
trong công nghiệp ô tô thế giới,ít vốn,năng lực công nghệ còn thấp,nhưng thật sự đã
mở đầu cho công nghiepj ô tô việt nam và tạo nên sức hấp dẫn cho các hãng ô tô thế
giới hàng đầu đầu tư vào việt nam sau khi mỹ bỏ cấm vận vào năm 1995.Cũng cần
phải nói thêm rằng ở thời điểm 1991,không có một hãng ô tô có uy tín nào muốn đầu
tư vào Việt Nam để sản suất,lắp ráp.Họ chỉ muốn bán xe nguyên chiếc hoặc ít ra là lắp
giáp KSD để không phải đầu tư nhiều về thiết bị,công nghệ.Nưng mới chỉ sau 5
năm,đến tháng 9/1996 trên toàn quốc, chúng ta đã có 14 công ty liên doanh sản
suất,lắp ráp ô tô hợp tác với hầu hết các hãng ô tô nổi tiếng trên thế giới.
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô

DANH SÁCH CÁC CÔNG TY LIÊN DOANH ĐÃ ĐƯỢC CẤP PHÉP ĐẦU TƯ
STT
Tên liên doanh
Số ngày cấp giấy phép
Công suất
Thiết kế
Các bên liên doanh
Bên việt nam
-% góp vốn
Bên nước ngoài
-% góp vốn
1
Công ty LD MEKONG
No208/GP
ngày 26/6/1991
(đã sản suất từ năm
1992)
20.000
-nhà máy cơ
khí cổ loa
-nhà máy
SANKYNO
-30%
-selio Machinery
Co.ltd
-sea young IntER
Inc.ltd(hàn quốc)
-70%
2
Công ty LD CMC No

228/GP ngày 19/8/1991
(đã sản suất từ năm
1992)
20.000
-nhà máy ô tô
Hòa Bình
-Trancimec
-30%
-Columbian
Motor Corp.
(philippine)
-70%
3
Công ty LD VINASAR
No 847/GP ngày
23/4/1994 ( đã sản suất
từ năm 1995)
17.8000
Vietranscimex
-25%
-Pro( Malaysia)
-Mitsubishi
Motro corp(nhật)
-75%
4
Công ty LD VIDAMCO
No 744/GP ngày
11/12/1993 (đã sản suất
từ năm 1996)
9.500

-nhà máy 8798
-35%
-Daewoo
Corpiration(hàn
quốc)
-65%
5
công ty LD
MERCEDES-BENZ
No 1205/GP ngày
14/4/1995
11.000
SAMCO
-nhà máy ô tô
1/5
-34%
-Daimler benz
-Investment
Singapore
Pte.Ltd
-70%
6
Công ty LD VINDACO
No 1206/GP ngày
14/4/1995
(đã sản suất từ năm
1996)
10.000
-nhà máy 19/8
-34%

-Astra Inter
(Indonesia)
-Mitra corp
(Indonesia)
-66%
7
Công ty LD SUZUKI
No 1212/GP ngày
22/4/1995
10.000
-nhà máy
VIKYNO
-30%
-suzuki Motor
Co.Ltd(nhật)
-Nissho Iwai
Co.ltd(nhật)
-70%
8
công ty LD FORD No
1365/GP ngày 5/9/1995
26.000
-công ty
diezen sông
công
25%
-Ford motor
corp( mỹ)
-75%
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô

9
Công ty LD
CHRYSLED No
1366/GP ngày 5/9/1995
17.000
Nhà máy
VINAPPRO
-30%
-CHRYSLER
inter corp(mỹ)
-70%
10
Công ty LD TOYOTA
No 1367/GP ngày
5/9/1995
20.000
-Tổng công ty
máy động lực
và máy nông
nghiệp
-20%
-Toyota Motor
corp(nhật)
-KUO(Asia)
Pte.ltd
(singapone)
-80%
11
Công ty ISUZU No
16/GP ngày 19/10/1995

6.000
-SAMCO
-GOVIMEX
-30%
ISUZU Corp
-ITOCHU Corp
-70%
12
Công ty LD Việt-sin No
1500/GP 16/2/1996
2.200
-Trancimex
-30%
-SinBus
Engineering
Pte.Ltd
(singapone)
-70%
13
Công ty LD Hino No
1599/GP ngày
18/5/1996
2.600
-Nhà máy sửa
chữa ô tô số 1
-33%
Hino Motor ltd
-Sumitomo Corp
-77%
14

Công ty LD NISSAN
No 1687/GP 30/9/1996
3.600
-nhà máy cơ
khí ô tô Đà
Nẵng
25%
-Nissan Motor
Co.Ltd
-Marubeni Corp
-Tan Chong &
son Motor Sdn
Bhd (malaysia)
-75%
1.2.2. Thủ tục thẩm định kế cải tạo phương tiện giao thông cơ giới đường bộ
1. Trình tự thực hiện thủ tục hành chính
a) Tổ chức, cá nhân lập 01 bộ hồ sơ đề nghị thẩm định thiết kế theo quy định và
nộp trực tiếp hoặc qua hệ thống bưu chính đến Cơ quan thẩm định thiết kế;
b) Cơ quan thẩm định thiết kế tiếp nhận và kiểm tra thành phần hồ sơ; nếu hồ sơ
không đầy đủ theo quy định thì hướng dẫn tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện lại;
nếu hồ sơ đầy đủ theo quy định thì viết giấy hẹn thời gian trả kết quả thẩm định hồ sơ
thiết kế;
c) Cơ quan thẩm định thiết kế tiến hành thẩm định thiết kế; nếu hồ sơ thiết kế chưa đạt
yêu cầu thì thông báo bổ sung, sửa đổi; nếu hồ sơ thiết kế đạt yêu cầu thì cấp Giấy
chứng nhận thẩm định thiết kế xe cơ giới cải tạo;
d) Tổ chức, cá nhân có thể nộp hồ sơ và nhận kết quả trực tiếp tại trụ sở Cơ quan thẩm
định thiết kế hoặc qua hệ thống bưu chính;
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
e) Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ thiết kế, Cơ quan thẩm
định thiết kế cấp Giấy chứng nhận thẩm định thiết kế xe cơ giới cải tạo nếu hồ sơ đạt

yêu cầu; hoặc thông báo cho tổ chức, cá nhân nếu hồ sơ không đạt yêu cầu.
f) Hồ sơ thiết kế sau khi được cấp Giấy chứng nhận thẩm định thiết kế xe cơ giới cải
tạo được lưu tại Cơ quan thẩm định thiết kế và được gửi cho các cơ quan sau đây: Cơ
sở thiết kế cải tạo, Cơ sở thi công cải tạo và Đơn vị đăng kiểm nghiệm thu xe cơ giới
cải tạo.
2. Cách thức thực hiện thủ tục hành chính
-Nộp trực tiếp hoặc qua hệ thống bưu chính đến Sở Giao thông vận tải.
3. Thành phần, số lượng bộ hồ sơ
* Thành phần hồ sơ, bao gồm:
a). Văn bản đề nghị thẩm định thiết kế (bản chính) theo mẫu
b). Hồ sơ thiết kế
- Số lượng: 04 bộ hồ sơ
- Thành phần hồ sơ
* Thuyết minh thiết kế kỹ thuật xe cơ giới cải tạo gồm các phần sau:
+ Giới thiệu mục đích cải tạo;
+ Đặc tính kỹ thuật cơ bản của xe cơ giới trước và sau cải tạo;
+ Nội dung thực hiện cải tạo và các bước công nghệ thi công;
+ Tính toán các đặc tính động học, động lực học liên quan tới nội dung cải tạo;
+ Tính toán kiểm tra sức bền các chi tiết liên quan tới nội dung cải tạo;
+ Những hướng dẫn cần thiết cho việc sử dụng xe cơ giới sau khi cải tạo;
+ Kết luận;
+ Mục lục;
+Tài liệu tham khảo trong quá trình thiết kế.
* Các bản vẽ kỹ thuật gồm:
+ Bản vẽ bố trí chung của xe cơ giới trước khi cải tạo;
+ Bản vẽ bố trí chung của xe cơ giới sau khi cải tạo;
+ Bản vẽ lắp đặt tổng thành hệ thống được cải tạo hoặc thay thế;
+ Bản vẽ những chi tiết được cải tạo bao gồm cả hướng dẫn công nghệ và vật
liệu được phép sử dụng khi cải tạo, thay thế.
Các bản vẽ kỹ thuật phải được trình bày theo đúng các tiêu chuẩn, quy chuẩn

hiện hành.
- Bản thông số, tính năng kỹ thuật của các tổng thành, hệ thống mua mới liên quan tới
nội dung tính toán thiết kế (bản sao có chứng thực hoặc bản sao chụp có xác nhận của
cơ sở thiết kế).
c) Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (bản sao có chứng thực) của cơ sở thiết kế đối
với trường hợp thẩm định thiết kế lần đầu.
d) Các bản sao có chứng thực hoặc bản sao chụp có xác nhận của cơ sở thiết kế: Giấy
Đăng ký xe ô tô, Phiếu sang tên, di chuyển (đối với trường hợp đang làm thủ tục sang
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
tên, di chuyển), Giấy chứng nhận chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe
cơ giới nhập khẩu (đối với xe cơ giới đã qua sử dụng được phép nhập khẩu).
e) Tài liệu kỹ thuật của xe cơ giới cải tạo.
4. Thời hạn giải quyết thủ tục hành chính:
10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ
5. Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: Tổ chức,cá nhân
6. Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính
- Cơ quan có thẩm quyền quyết định: Sở Giao thông vận tải
- Cơ quan trực tiếp thực hiện TTHC: Sở Giao thông vận tải
7. Kết quả thực hiện thủ tục hành chính:
Giấy chứng nhận Thẩm định thiết kế xe cơ giới cải tạo
8. Phí, lệ phí:
Tùy theo từng trường hợp cụ thể:
+ Biểu phí thẩm định thiết kế xe cơ giới cải tạo:
Thẩm định thiết kế cải tạo: 200.000 VNĐ
Kiểm tra, lập hồ sơ xe ô tô cải tạo theo thiết kế mẫu: 200.000 VNĐ
(Quyết định số 101/2008/QĐ-BTC ngày 11/11/2008 của Bộ Tài chính ban hành
mức thu phí kiểm định an toàn kỹ thuật và chất lượng xe cơ giới và các loại thiết
bị, xe máy chuyên dùng);
+ Lệ phí cấp giấy chứng nhận thẩm định thiết kế xe cơ giới cải tạo:
50.000,đ/giấy; riêng xe ô tô dưới 10 chỗ ngồi là 100.000,đ/giấy

(Thông tư số 102/2008/TT-BTC ngày 11/11/2008 của Bộ Tài chính về việc
hướng dẫn thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp giấy chứng nhận bảo đảm chất
lượng, an toàn kỹ thuật đối với máy móc thiết bị, phương tiện giao thông vận tải).
9. Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có):
Phụ lục 1: Tờ trình thẩm định thiết kế xe cơ giới cải tạo
10. Các yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính:
a) giải thích từ ngữ.
Xe cơ giới là các loại phương tiện giao thông cơ giới hoạt động trên đường bộ (trừ
mô tô, xe gắn máy) được định nghĩa tại Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 7271 - Phương
tiện giao thông đường bộ - Ô tô - Phân loại theo mục đích sử dụng, kể cả ô tô sát-xi.
-Tổng thành là động cơ, khung, buồng lái, thân xe hoặc thùng chở hàng, thiết bị
chuyên dùng lắp trên xe.
-Hệ thống là hệ thống truyền lực, hệ thống chuyển động, hệ thống treo, hệ thống
phanh, hệ thống lái, hệ thống nhiên liệu, hệ thống điện, hệ thống đèn chiếu sáng và tín
hiệu.
-Cải tạo xe cơ giới là việc thay đổi cấu tạo, hình dáng, bố trí, nguyên lý làm việc,
thông số, đặc tính kỹ thuật của một phần hoặc toàn bộ hệ thống, tổng thành của xe cơ
giới. Trường hợp thay thế hệ thống, tổng thành bằng hệ thống, tổng thành khác cùng
kiểu loại, của cùng Hãng sản xuất (cùng mã phụ tùng) thì không coi là cải tạo.
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
- Xe cơ giới nguyên thủy là xe cơ giới không có sự thay đổi cấu tạo, hình dáng, bố trí,
nguyên lý làm việc, thông số, đặc tính kỹ thuật của toàn bộ các hệ thống, tổng thành so
với ban đầu của Hãng sản xuất.
-Xe ô tô chở người là xe ô tô có kết cấu và trang bị dùng để chở người và hành lý
mang theo.
- Cơ quan thẩm định thiết kế là các Sở Giao thông vận tải, Cục Đăng kiểm Việt Nam.
-Cơ sở thiết kế là tổ chức hành nghề kinh doanh dịch vụ thiết kế xe cơ giới.
-Cơ sở thi công cải tạo là tổ chức hành nghề thi công cải tạo xe cơ giới có đủ điều kiện
theo quy định.
-Thẩm định thiết kế là việc xem xét, kiểm tra, đối chiếu các nội dung hồ sơ thiết kế cải

tạo xe cơ giới thỏa mãn các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy định có liên quan.
- Nghiệm thu xe cơ giới cải tạo là việc kiểm tra, đánh giá xe cơ giới đã được thi công
cải tạo theo hồ sơ thiết kế đã được thẩm định đảm bảo các yêu cầu về chất lượng an
toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường.
b) Các quy định khi cải tạo xe cơ giới.
Đơn vị thiết kế là đơn vị có tư cách pháp nhân, có đăng ký kinh doanh ngành
nghề thiết kế cải tạo xe cơ giới phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành.
Xe cơ giới sau khi cải tạo phải thỏa mãn các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy định,
đáp ứng các yêu cầu về chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với xe cơ
giới khi tham gia giao thông và phải đảm bảo tuân thủ các quy định sau đây:
+ Không được cải tạo thay đổi mục đích sử dụng (công dụng) đối với xe cơ giới đã có
thời gian sử dụng trên 15 năm, kể từ năm sản xuất của ô tô đến thời điểm thẩm định
thiết kế cải tạo.
+ Không được cải tạo ô tô chuyên dùng nhập khẩu trong thời gian 05 năm và ô tô tải
đông lạnh nhập khẩu trong thời gian 03 năm, kể từ ngày được cấp biển số đăng ký.
+ Không được cải tạo các xe ô tô khác thành xe ô tô chở khách (ô tô chở người).
+ Không được cải tạo ô tô chở người thành ô tô tải các loại, trừ trường hợp cải tạo ô tô
chở người từ 16 chỗ trở xuống (kể cả chỗ người lái) thành ô tô tải VAN.
+ Không được cải tạo ô tô đầu kéo thành ô tô tải (trừ ô tô tải chuyên dùng).
+ Không được cải tạo thay đổi kích cỡ lốp, số trục và vết bánh xe của ô tô.
+ Không được cải tạo thay đổi chiều dài cơ sở ô tô tải, kể cả khi cải tạo ô tô tải thành ô
tô tải loại khác và ngược lại (trừ ô tô tải chuyên dùng và trường hợp cải tạo trở lại
thành xe cơ giới nguyên thủy).
+ Không được cải tạo tăng kích thước dài, rộng, cao của thùng chở hàng ô tô tải (trừ ô
tô tải chuyên dùng). Trường hợp cải tạo lắp đặt thành thùng kín, thêm khung mui che
mưa, nắng bảo vệ hàng hóa, thì chiều cao toàn bộ của xe cơ giới sau cải tạo phải thỏa
mãn Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 09: 2011/BGTVT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia về chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với ô tô ban hành kèm
theo Thông tư 56/2011/TT-BGTVT).
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô

+ Không được cải tạo tăng kích thước dài, rộng, cao của thùng chở hàng ô tô tải tự đổ.
Nếu cải tạo giảm kích thước thùng chở hàng phải đảm bảo thể tích chứa hàng của
thùng chở hàng ô tô sau cải tạo thỏa mãn công thức sau:
V ≤ Q/1,2
Trong đó:
- V: Thể tích chứa hàng của thùng hàng (m3)
Q: Trọng tải thiết kế (tấn).
+ Trọng lượng toàn bộ của xe cơ giới sau cải tạo phải đảm bảo:
Đối với ô tô khách: Không lớn hơn trọng lượng toàn bộ tương ứng với số người cho
phép chở lớn nhất theo quy định của nhà sản xuất.
Đối với ô tô tải: Không lớn hơn trọng lượng toàn bộ lớn nhất của ô tô nguyên thủy và
không vượt quá trọng lượng toàn bộ cho phép tham gia giao thông.
+ Không sử dụng các hệ thống, tổng thành đã qua sử dụng trong cải tạo xe cơ giới, trừ
tổng thành động cơ, thiết bị chuyên dùng. Các thiết bị nâng, xi téc chở hàng nguy
hiểm, phải có Giấy chứng nhận chất lượng an toàn kỹ thuật thiết bị xếp dỡ, nồi hơi,
thiết bị áp lực sử dụng trong giao thông vận tải theo quy định tại Thông tư số
35/2011/TT-BGTVT ngày 06/5/2011 của Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải quy định
về thủ tục cấp Giấy chứng nhận chất lượng an toàn kỹ thuật thiết bị xếp dỡ, nồi hơi,
thiết bị áp lực sử dụng trong giao thông vận tải.
+ Trong suốt quá trình sử dụng, mỗi xe cơ giới chỉ được cải tạo, thay đổi một trong hai
tổng thành chính là động cơ hoặc khung và không quá ba trong sáu hệ thống, tổng
thành sau đây:
Hệ thống truyền lực bao gồm: ly hợp, hộp số, trục các đăng và truyền lực chính;
Hệ thống chuyển động bao gồm: bánh xe, cầu bị động;
Hệ thống treo;
Hệ thống phanh;
Hệ thống lái;
Buồng lái, thân xe hoặc thùng hàng.
+ Việc cải tạo một hệ thống, tổng thành nếu dẫn đến việc ảnh hưởng tới đặc tính làm
việc của các hệ thống, tổng thành có liên quan khác thì phải được xem xét, tính toán cụ

thể và phải được coi là cải tạo cả hệ thống, tổng thành có liên quan.
Miễn lập hồ sơ thiết kế xe cơ giới cải tạo
+ Ô tô tải thông dụng cải tạo thùng hàng, lắp ráp khung mui theo thiết kế mẫu và
ngược lại.
+ Ô tô tập lái, sát hạch lắp đặt bàn đạp phanh phụ bằng cách liên kết với bàn đạp
phanh chính thông qua một thanh đòn dẫn động cơ khí và ngược lại.
+ Lắp thêm các nắp chắn bụi cho thùng hàng ô tô tải tự đổ.
-Thiết kế theo phân cấp thẩm định cấp Sở (theo phân cấp Thẩm định).Đáp ứng các
quy chuẩn và tiêu chuẩn sau:
* Quy chuẩn Việt Nam
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
+ QCVN 09:2011/BGTVT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng an toàn kỹ
thuật và bảo vệ môi trường đối với ô tô.
+ QCVN 10:2011/BGTVT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng an toàn kỹ
thuật và bảo vệ môi trường đối với ô tô khách thành phố.
+ QCVN 11:2011/BGTVT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng an toàn kỹ
thuật và bảo vệ môi trường đối với rơ mosooc và sơ mi rơ móoc.
+ QCVN 12:2011/BGTVT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sai số cho phép và làm
tròn số đối với kích thước, khối lượng của xe cơ giới.
+ QCVN 12:2011/BGTVT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sai số cho phép và làm
tròn số đối với kích thước, khối lượng của xe cơ giới.
+ QCVN 22:2011/BGTVT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chế tạo và kiểm tra
phương tiện, thiết bị xếp dỡ.
*. Các tiêu chuẩn:
+ TCVN 7271:2003 - Phương tiện giao thông đường bộ - Ô tô - Phân loại theo mục
đích sử dụng.
+. TCVN 6528: 1999 - Phương tiện Giao thông đường bộ - Kích thước phương tiện có
động cơ và phương tiện được kéo - Thuật ngữ và định nghĩa.
+ TCVN 6529: 1999 - Phương tiện Giao thông đường bộ - Khối lượng - Thuật ngữ
định nghĩa và mã hiệu.

+ ĐLVN 05:2011 - Xi téc ô tô - Quy trình kiểm định - soát xét lần 1.
+ Quyết định số 4597/2001/QĐ-BGTVT ngày 31/7/2001 của Bộ GTVT "Quy định
kiểu loại phương tiện giao thông cơ giới đường bộ được phép tham gia giao thông.
c) Trách nhiệm thẩm định thiết kế xe cơ giới cải tạo.
* ) Các Sở Giao thông vận tải chịu trách nhiệm thẩm định các thiết kế cải tạo cho xe
cơ giới có đăng ký biển số của địa phương mình theo quy định sau
+) Cải tạo, lắp đặt các hệ thống, tổng thành: khung, truyền lực, treo, buồng lái, thân xe
thùng hàng, hệ thống điện, hệ thống đèn chiếu sáng và tín hiệu của
- Ô tô tải (theo danh mục từ 3.2.1 đến 3.2.9 của TCVN 7271)
- Ô tô tải chuyên dùng chở xe máy thi công (mục 3.2.10.2 của TCVN 7271)
- Sơ mi rơ moóc, rơ moóc
- Ô tô chở người đến 25 chỗ (kể cả chỗ người lái)
+) Lắp đặt thêm thiết bị chuyên dùng phục vụ việc bốc xếp và chở hàng cho ô tô tải
thông dụng; lắp đặt ghế ngồi trên thùng chở hàng của ô tô tải tập lái, sát hạch
+) Cải tạo ô tô chở người thành ô tô cứu thương, ô tô tang lễ
+) Cải tạo ô tô chở người từ 16 chỗ (kể cả chỗ người lái) trở xuống thành ô tô tải
VAN;
+) Cải tạo thay thế động cơ khác loại của ô tô tải thông dụng, ô tô tải tự đổ, ô tô tải
chuyên dùng chở xe máy thi công, ô tô chở người đến 25 chỗ (kể cả chỗ người lái)
phải đảm bảo Động cơ thay thế có công suất lớn nhất, số vòng quay ứng với công suất
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
lớn nhất, mô men xoắn lớn nhất, với thay đổi giảm không quá 10%, thay đổi tăng
không quá 15%
* ) Cục Đăng kiểm Việt Nam chịu trách nhiệm thẩm định các thiết kế cải tạo sau:
+) Cải tạo các hệ thống, tổng thành của:
- Ô tô chuyên dùng, ô tô đầu kéo, ô tô tải chuyên dùng.
- Ô tô chở người trên 25 chỗ (kể cả chỗ người lái).
+) Cải tạo thay đổi hệ thống lái, hệ thống phanh, hệ thống nhiên liệu của xe cơ giới;
+) Ô tô các loại cải tạo thành ô tô tải chuyên dùng, ô tô chuyên dùng, ô tô đầu kéo và
ngược lại; sơ mi rơ moóc và rơ moóc thông thường cải tạo thành sơ mi rơ moóc, rơ

moóc chuyên dùng và ngược lại;
+) Thẩm định thiết kế cải tạo xe cơ giới đối với trường hợp các Sở Giao thông vận tải
không đủ điều kiện thẩm định thiết kế.
11. Căn cứ pháp lý để giải quyết thủ tục hành chính:
- Luật Giao thông đường bộ ngày 13/11/2008;
- Thông tư 29/2012/TT-BGTVT ngày 31/7/2012 của Bộ trưởng Bộ GTVT ban
hành Quy định về việc cải tạo phương tiện xe cơ giới đường bộ;
- Hướng dẫn số 1819/DKVN-VAR ngày 10/9/2012 của Cục Đăng kiểm Việt
Nam về việc hướng dẫn thực hiện một số điểm của Thông tư số 29/2012/TT-BGTVT
của Bộ Giao thông vận tải quy định về cải tạo phương tiện giao thông cơ giới đường
bộ.
- Quyết định số 101/2008/QĐ-BTC ngày 11/11/2008 của Bộ Tài chính V/v Sửa
đổi, bổ sung Quyết định số 10/2003/QĐ-BTC ngày 24/01/2003 của Bộ trướng Bộ Tài
chính về việc ban hành mức thu phí kiểm định an toàn kỹ thuật và chất lượng xe
cơ giới và các loại thiết bị, xe máy chuyên dùng.
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô
CHƯƠNG II. QUY TRÌNH CẢI TẠO XE Ở VIỆT NAM
2.1. Một số ví dụ về cải tạo xe ở Việt Nam
2.1.1. ThiÕt kÕ c¶i t¹o thïng hµng hë thµnh thïng hµng kÝn cho xe « t« t¶i tù ®æ
hyundai 20,4 tÊn
Hình 2.1 Xe huyndai 20,4 tấn trước cải tạo
Hình 2.2 Xe huyndai 20,4 tấn sau cải tạo
ỏn tt nghip Ngnh Cụng ngh k thut ụtụ
ễ tô tải tự đổ HYUNDAI 20,4 tấn do Hàn Quốc sản xuất. Để thuận tiện cho việc vận
chuyển VLXD và đảm bảo vệ sinh môi trờng đô thị. Theo yêu cầu của chủ phơng
tin ta s tin hnh ci to lp t thựng hng kớn cho xe
2.1.2. Thiết kế đóng mới, lắp đặt thùng hàng có khung mui phủ bạt (hai thành
bên ốp tôn) hoặc tôn kín cho xe ôtô tải ISUZU 1,1 tấn
Hỡnh 2.3 xe ISUZU 1,1 tn trc ci to
Đồ án tốt nghiệp Ngành Công nghệ kỹ thuật ôtô

Hình 2.4 xe ISUZU 1,1 tấn sau cải tạo
2.1.3. Thiết kế đóng mới, lắp đặt thùng hàng co phung mui phủ bạt cho xe
“MITSUBISHI 6,0 tấn ”

Hình 2.5 xe MISTUBISHI 6,0 tấn trước cải tạo

×