Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LOGISTICS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.82 KB, 21 trang )

Bài tiểu luận:
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LOGISTICS
MỤC LỤC:
Lời mở đầu
I. Sơ lược lịch sử hình thành khái niệm về Logistics
II. Khái niệm – phân loại dịch vụ logistics
1. Khái niệm
2. Phân loại
III. Đặc trưng pháp lý và điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics
1. Đặc trưng pháp lý
2. Điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics
IV. Quyền và nghĩa vụ của các bên
1. Quyền và nghĩa vụ của bên làm dịch vụ Logistics
2. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng
V. Các trường hợp miễn trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh
doanh dich vụ logistics.
1. Các trường hợp miễn trách nhiệm
2. Giới hạn trách nhiệm
Tài liệu tham khảo.
1
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới
theo hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa, dịch vụ logistics cũng ngày càng đóng vai trò
hết sức quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công nghiệp và thương
mại của mỗi quốc gia. Theo ước tính của Viện Logistics châu Á-Thái Bình Dương, trị
giá của dịch vụ logistics toàn cầu đạt trên 1.200 tỷ USD/năm, chiếm tới 16% tổng GDP
toàn cầu. Trong đó, nếu giảm 10% chi phí vận chuyển có thể làm tăng 20% lưu lượng
thương mại hay giảm một nửa chi phí vận chuyển có thể làm tăng 0,5% tổng GDP với
mỗi quốc gia.
Đối với các nước phát triển như Nhật và Mỹ, logistics đóng góp khoảng 10%
vào GDP, đối với những nước đang phát triển thì thu nhập từ logistics đóng góp từ 15%


đến 20% vào GDP, còn đối với những nước kém phát triển,con số có thể trên 30%. Với
Việt Nam, tỉ lệ này là vào khoản 25%. Ở Việt Nam, hoạt động dịch vụ logistics đang ở
giai đoạn đầu của sự phát triển. Các số liệu thống kê cho thấy, tổng chi phí logistics của
Việt Nam chiếm khoảng 25% GDP, trong đó vận tải chiếm khoảng 50 - 60%. Chính vì
nhận thức vai trò đặc biệt quan trọng của logistics nên trong những năm qua, Nhà nước
đã dành một phần lớn ngân sách và nguồn vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng
giao thông nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho vận tải hàng hóa và dịch vụ logistics phát
triển
Khi thị trường toàn cầu phát triển với các tiến bộ công nghệ, đặc biệt là việc mở
cửa thị trường ở các nước đang và chậm phát triển, logistics được coi như là công cụ,
phương tiện có khả năng liên kết các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, có vai trò rất
quan trọng trong chiến lược phát triển của các doanh nghiệp, là công cụ liên kết các
hoạt động trong chuỗi cung cấp, sản xuất, lưu thông phân phối, mở rộng thị trường cho
các hoạt động kinh tế. Ngoài ra, logistics còn có vai trò rất quan trọng trong việc tối ưu
hóa chu trình lưu chuyển của sản xuất kinh doanh từ khâu đầu vào nguyên vật liệu, phụ
kiện, … tới sản phẩm cuối cùng đến tay khách hàng sử dụng, góp phần mở rộng thị
trường trong buôn bán quốc tế. Qua đó ta có thể thấy rằng dịch vụ logistics góp phần
rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí trong quá trình
sản xuất, tăng cường sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp logistics Việt Nam hầu như đang đứng
ngoài cuộc chơi này vì theo số liệu thống kê cho thấy hơn 70% doanh thu trong lĩnh
vực này ại việt Nam lại rơi vào túi của các doanh nghiệp nước ngoài, các ông trùm
2
logistics như TNT, DHN, Maersk Logistics, NYK Logistics, APL Logistics, MOL
Logistics...
Pháp luật nói chung và pháp luật về Logistics nói riêng hiện nay cùng với các
chính sách khuyến khích phát triển thị trường dịch vụ logistics của nước ta đang tạo rất
nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, có tận dụng được các cơ
hội này hay không đó còn tùy vào doanh nghiệp. Nếu chúng ta không tận dụng tốt
những ưu đãi thì chỉ trong vài năm nữa, năm 2014 khi Việt Nam chính thức mở của thị

trường dịch vụ Logistics theo lộ trình như đã cam kết khi gia nhập WTO thì nguy cơ
mất thị trường, mà lại là thị trường trong nước là điều không thể tránh khỏi.
3
CHƯƠNG I: SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NÊN KHÁI NIỆM DỊCH VỤ
LOGISTICS
Trong bất kì sự phát triển nào của lịch sử xã hội loài người, các hoạt động kinh
tế luôn chiếm giữ vị trí đặc biệt quan trọng và tác động mạnh mẽ đến các hoạt động
khác. Hoạt động kinh tế là yếu tố quyết định đối với sự tồn tại của xã hội loài người, sự
tồn tại, phát triển, tiêu vong của chế độ chính trị trong lịch sử.Chính vì vậy, giai cấp
thống trị trong xã hội ở điều kiện nhất định, luôn tìm cách tác động tới các quan hệ
kinh tế ở các mức độ khác nhau nhằm duy trì và bảo đảm cho lợi ích của giai cấp mình.
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh dịch vụ là lĩnh vực hứa hẹn nhiều tiềm
năng phát triển. Xã hội phát triển càng cao thì đòi hỏi các dịch vụ được cung cấp phải
thể hiện tính năng ưu việt, toàn diện với mục đích đem đến sự thuận lợi nhất đồi vời
khách hàng sử dụng. Việc một thương nhân chỉ bằng năng lực của mình thực hiện tất cả
các công đoạn của quá trình giao lưu thương mại ngày càng trở nên hãn hữu. Chỉ để
chuyển được hàng hóa đến cho người mua, thương nhân bán hàng có thể thực hiện
hàng loạt hoạt đông phụ trợ khác nhau như: đóng gói hàng hóa, ghi kí mã hiệu, làm thủ
tục hải quan và các giấy tờ khác để gửi hàng và nhận hàng …Thương nhân bán hàng có
thể tự mình thực hiện tất cả các công việc nói trên nhưng do không có năng lực chuyên
môn mà việc tự tiến hành các hoạt động phụ trợ phát sinh nhiều chi phí cho thương
nhân bán hàng. Để giảm chi phí sản xuất, các thương nhân có nhu cầu sử dụng những
dịch vụ khác nhau liên quan đến việc chuyển hàng hóa đến người mua. Vì vậy dịch vụ
giao nhận hàng hóa hay còn gọi là dịch vụ logictics ra đời.
Sự phát triển cao của dịch vụ giao nhận kho vận, dịch vụ vận tải đa phương
thức,v.v... dịch vụ logistics đã chứng minh được những ưu điểm nổi trội của mình và
những lợi ích đó có thể khiến cho khách hàng hoàn toàn yên tâm và thỏa mãn về sự
phong phú và tính hiệu quả của dịch vụ. Tại Việt Nam thị trường logisitics là một mảng
thị trường khá là mới mẻ dù nó đã rất phổ biến và phát triển mạnh mẽ trên thế giới.
Dịch vụ logistics đã xâm nhập vào nước ta khá lâu nhưng người Việt ta chưa thật sự

quen với thuật ngữ này, mặc dù hàng ngày trên đường ta bắt gặp rất nhiều container
mang tên của rất nhiều hãng logistics lớn trong và ngoài nước như Maersk, NYK, APL,
MOL.., các quảng cáo trên báo đài về công ty logistics và tuyển dụng nhân viên...
Theo nhiều tài liệu nước ngoài, ban đầu, dịch vụ này xuất hiện trong quân đội
với tư cách là một cách thức tổ chức cung ứng tương đối giống “dịch vụ hậu cần” trong
các đơn vị quân đội ngày nay. Sau này, do sự phát triển mạnh về khoa học kỹ thuật,
4
khoa học quản lý, phương pháp quản trị sản xuất, kinh doanh, giao thông vận tải, thông
tin liên lạc, tin học… đã làm cho logistics có bộ mặt mới và có thể thay đổi về chất so
với bản chất nguyên thủy ban đầu là cung ứng cung ứng “dịch vụ hậu cần” của nó, dịch
vụ logistics có thể hiểu đơn giản là "quản lý dòng luân chuyển hàng hóa, vật tư từ nơi
sản xuất đến nơi tiêu thụ", ngoài ra logistic thường được biết đến chủ yêu thông qua
hoạt động vận tải nên còn gọi là "vận chuyển hàng hóa, vật tư đa phương tiện". Cụ thể
hơn, có tài liệu cho rằng đó là chuỗi công việc từ lập kế hoạch, thực hiện quản lý một
mặt hàng nào đó theo dòng luân chuyển và lưu kho hàng hóa; cung ứng dịch vụ và
thông tin liên quan từ điểm khởi đầu đến nơi hàng hóa tiêu thụ nhằm thỏa mãn yêu cầu
của khách hàng. Do vậy, nếu dịch sang tiếng Việt là “giao nhận hàng hóa” thì e rằng nội
hàm khái niệm “dịch vụ logistics” không rộng, mới chỉ dừng lại ở việc luân chuyển
hàng hóa, một công đọan của dịch vụ này. Tiếp đến, dịch vụ logistics là chuỗi liên hoàn
các công việc, do đó sử dụng từ tiếng Việt cho chuỗi công việc này rất khó. Hơn nữa,
đây là một thuật ngữ được quốc tế sử dụng chung, do đó việc sử dụng thuật ngữ
logistics phù hợp với thông lệ quốc tế.
Hiện nay, dịch vụ logistics đã ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia do tính tác động trực
tiếp đến hầu hết các ngành sản xuất, dịch vụ khác trong xã hội, hơn nữa dịch vụ
logistics còn xuất hiện với vị trí là công đoạn không thể thiếu của bất cứ quá trình sản
xuất, kinh doanh nào và hiện hữu ở khắp mọi nơi trên thế giới với những cái tên như là
TNT, DHN, Maersk Logistics, NYK Logistics, APL Logistics, MOL Logistics… Hiện
nay, trên thế giới có nhiều cách gọi dịch vụ logistics khác nhau bằng tiếng Anh như
Busineess logistics, Channel management, Distribution, Industrial logistics, Logistics
management, Materials managenment, Quick-response systems, Suppy chain

managenment và Suppy managenment nhưng tất cả đều có nghĩa chung nhất là quản lý
công việc luân chuyển hàng hóa, vật tư từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ.
CHƯƠNG II: KHÁI NIỆM- PHÂN LOẠI DỊCH VỤ LOGISTICS
5
1. Khái niệm
Tuy thuật ngữ logistics đã được thế giới sử dụng phổ biến trong suốt thời gian dài,
nhưng tại Việt Nam thì thuật ngữ này còn khá mới mẻ. Trên thế giới hiện nay, logistics
được biết đến với những khái niệm chủ yếu:
- Tài liệu của Liên hợp quốc (UNESCAP) định nghĩa: “Logistics là hoạt động
quản lý dòng chu chuyển và lưu kho nguyên vật liệu, quá trình sản xuất thành phẩm xử
lý các thông tin liên quan v.v... từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ cuối cùng theo yêu cầu
của khách hàng.”
- Theo Ủy ban Quản lý Logistics của Hoa Kỳ: “Logistics là quá trình lập kế
hoạch, chọn phương án tối ưu để thực hiện việc quản lý, kiểm soát việc di chuyển và
bảo quản có hiệu quả về chi phí và ngắn nhất về thời gian đối với nguyên vật liệu, bán
thành phẩm và thành phẩm, cũng như các thông tin tương ứng từ giai đoạn tiền sản
xuất cho đến khi hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng để đáp ứng yêu cầu của
khách hàng.”
- Theo Hội đồng Quản lý dịch vụ Logistics (CLM) quốc tế (Hội đồng này thiết
lập các nguyên tắc, thể lệ, nội dung mà các DN cung cấp dịch vụ Logistics các nước
thường áp dụng và chịu quy chế của Hội đồng này): “Logistics là một phần của quá
trình cung cấp dây chuyền bao gồm lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm soát hiệu
quả, lưu thông hiệu quả và lưu giữ các loại hàng hoá, dịch vụ và có liên quan đến
thông tin từ điểm cung cấp cơ bản đến các điểm tiêu thụ để đáp ứng các nhu cầu của
khách hàng”.
- Theo Ngân hàng thế giới (WB): “Logistics liên quan đến việc quản lý dây
chuyền cung cấp hoàn chỉnh một sản phẩm đặc thù, bao gồm vận tải nguyên liệu đàu
vào và sản phẩm đầu ra, lưu kho, phân phối, liên kết các phương thức vận tải và các
dịch vụ tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại .”
Pháp luật Việt Nam Điều 233 Luật Thương mại năm 2005 (thay thế cho khái niệm

“dịch vụ giao nhận hàng hóa” của Luật Thương mại năm 1997) định nghĩa: “Dịch vụ
logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc
nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải
quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu,
giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách
hàng để hưởng thù lao. Dịch vụ logistics được phiên âm theo tiếng Việt là dịch vụ
logistics”.
Qua các định nghĩa trên cho thấy, logistics không phải là một dịch vụ đơn lẻ.
Logistics luôn là một chuỗi các dịch vụ về giao nhận hàng hóa như: làm các thủ tục
giấy tờ, tổ chức vận tải, bao bì đóng gói, ghi nhãn hiệu, lưu kho, lưu bãi, phân phát
6
hàng hóa (nguyên liệu hay thành phẩm) tới các địa chỉ khác nhau. Chính vì vậy, nói tới
logistics người ta bao giờ cũng nói tới một chuỗi hệ thống dịch vụ (logistics system
chain). Logistics chính là quá trình tối ưu hóa mọi công việc, hoặc thao tác từ khâu
cung ứng, sản xuất, phân phối và tiêu dùng.
Cho đến nay, logistics chưa được dịch sang tiếng việt. Nên thuật ngữ này được dùng
như một từ mượn tại Việt Nam. Bởi, chưa có quan điểm chung thống nhất và nó bao
gồm nhiều loại hình dịch vụ các cách dịch đều chưa thỏa đáng, chưa thể hiện được đầy
đủ nhất nội dung của nó.
2. Phân loại các loại hình dịch vụ logistics
Theo Điều 4, Nghị định 140/2007 NĐ-CP quy định chi tiết Luật thương mại về dịch
vụ Logistics, ta có 3 nhóm loại hình dịch vụ: các dịch vụ logistics chủ yếu, các dịch vụ
logictics liên quan đến vận tải và các dịch vụ logictics liên quan khác.
2.1. Các dịch vụ lô-gi-stíc chủ yếu, bao gồm:
a) Dịch vụ bốc xếp hàng hoá, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container;
b) Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bao gồm cả hoạt động kinh doanh kho
bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị;
c) Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan và
lập kế hoạch bốc dỡ hàng hóa;
d) Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và quản lý

thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt cả chuỗi lô-gi-stíc;
hoạt động xử lý lại hàng hóa bị khách hàng trả lại, hàng hóa tồn kho, hàng hóa quá hạn,
lỗi mốt và tái phân phối hàng hóa đó; hoạt động cho thuê và thuê mua container.
2.2. Các dịch vụ lô-gi-stíc liên quan đến vận tải, bao gồm:
a) Dịch vụ vận tải hàng hải;
b) Dịch vụ vận tải thuỷ nội địa;
c) Dịch vụ vận tải hàng không;
d) Dịch vụ vận tải đường sắt;
đ) Dịch vụ vận tải đường bộ.
e) Dịch vụ vận tải đường ống.
Ngoài các loại hình trên, pháp luật các nước hiện nay còn điều chỉnh thêm loại hình
dịch vụ vận tải đa phương thức ( là việc vận chuyển hàng hóa bằng ít nhất hai phương
tiện vận tải khác nhau trên cơ sở một hợp đồng vận chuyển đa phương thức). Ở Việt
Nam mặc dù phương thức vận chuyển này đã được sư dụng nhiều trong thực tiễn, tuy
nhiên vẫn chưa được điều chình, và pháp luật nước ta cũng chỉ điều chỉnh riêng biệt,
tách bạch từng giai đoạn vận tải mà thôi.
2.3. Các dịch vụ lô-gi-stíc liên quan khác, bao gồm:
7
a) Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật;
b) Dịch vụ bưu chính;
c) Dịch vụ thương mại bán buôn;
d) Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho, thu
gom, tập hợp, phân loại hàng hóa, phân phối lại và giao hàng;
đ) Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.
CHƯƠNG III: ĐẶC TRƯNG PHÁP LÝ VÀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ
LOGISTICS
1. Đặc trưng pháp lý
Dịch vụ logistics có các đặc trưng pháp lý sau:
8

×