Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Các vấn đề pháp lý về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.95 KB, 57 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình hội nhập, giao lưu thương mại, việc phát sinh tranh chấp
thương mại là điều không thể tránh khỏi. Do đó, giải quyết tranh chấp đang là vấn đề
nổi cộm của nền kinh tế thế giới hiện nay. Các nhà kinh doanh, các cá nhân, tổ chức
hoàn toàn có quyền được lựa chọn phương thức để giải quyết những tranh chấp phát
sinh: Tòa án, thương lượng, hòa giải, trọng tài… Và trọng tài với những ưu điểm nổi
bật đang dần khẳng định vị thế của mình. Đây là phương thức được thương gia các
nước ưu tiên lựa chọn để giải quyết tranh chấp thương mại. Ở Việt Nam, trọng tài
cũng đang hình thành cho mình một chỗ đứng.
Khác với các phương thức giải quyết tranh chấp khác, tranh chấp của các bên
được đưa ra trọng tài giải quyết chỉ khi tồn tại một thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận
trọng tài được hiểu là sự nhất trí của các bên về việc đưa ra trọng tài giải quyết tranh
chấp đã hoặc sẽ phát sinh. Do vậy, thỏa thuận trọng tài là vấn đề then chốt trong việc
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Thỏa thuận trọng tài được xem là công tắc khởi
động quá trình tố tụng trọng tài, bởi lẽ không có thỏa thuận trọng tài thì không thể có
việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Tuy nhiên không phải thỏa thuận nào cũng
dẫn đến quá trình tố tụng trọng tài. Chỉ những thỏa thuận đúng pháp luật, thể hiện
đúng ý chí của các bên mới vận hành được quá trình tố tụng trọng tài. Thỏa thuận
trọng tài có hiệu lực không chỉ là hình thức pháp lý ghi nhận sự thỏa thuận của các
bên, mà còn là căn cứ pháp lý để dựa vào đó bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi
phạm phải thực hiện nghĩa vụ thỏa thuận. Pháp luật các nước nói chung và Việt Nam
nói riêng cũng đều dành cho thỏa thuận trọng tài sự quan tâm đặc biệt, thể hiện ở việc
trong các đạo luật về trọng tài thường có một chương riêng quy định về thỏa thuận
trọng tài.
Đặc biệt là trong tiến trình hội nhập, tất yếu sẽ dẫn đến sự gia tăng về số lượng
và tính phức tạp của các tranh chấp thương mại. Đã đến lúc các cá nhân, tổ chức kinh
doanh phải nhận thức đúng về tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài, để xác lập
thỏa thuận trọng tài có hiệu lực, thực sự thể hiện được ý chí của các bên tạo cơ sở cho
việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được tiến hành một cách thuận lợi.
1


Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Các vấn đề pháp lý về hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài”. Việc nghiên cứu các vấn đề pháp lý về hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài cùng với việc tìm hiểu, so sánh, với hệ thống pháp luật của các quốc gia trên
thế giới, từ đó đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về hiệu
lực của thỏa thuận trọng tài không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa về
mặt thực tiễn.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 ra đời đã tạo cơ sở pháp lý cho việc giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài. Thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đã và
đang được giới luật gia Việt Nam, các doanh nghiệp cũng như Nhà nước thừa nhận.
Đặc biệt, Luật Trọng tài thương mại đã được Quốc hội thông qua ngày 17/6/2010 và
sẽ có hiệu lực vào ngày 01/01/2011 càng thu hút sự quan tâm của các cá nhân, tổ
chức kinh doanh đối với trọng tài. Trước tác giả cũng đã có nhiều khóa luận cử nhân
và luận văn thạc sỹ nghiên cứu về trọng tài thương mại như:
- Khóa luận cử nhân Luật “Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về trọng tài
phi Chính phủ ở Việt Nam” của tác giả Lê Huỳnh Phương Chinh năm 2003.
- Khóa luận cử nhân Luật “Hoàn thiện pháp luật tố tụng trọng tài Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Lê Thị Kiều Duyên năm
2006.
- Khóa luận cử nhân Luật “Một số vấn đề pháp lý về điều khoản trọng tài
trong hợp đồng thương mại quốc tế” của tác giả Trần Thị Hồng năm 2009.
- Khóa luận cử nhân Luật “Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
thương mại trong nền kinh tế thị trường tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị
Ánh Tuyết năm 2004.
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc
tế bằng trọng tài thương mại” của tác giả Trương Quốc Tuấn năm 2003.

Các khóa luận nêu trên chủ yếu nghiên cứu về trọng tài thương mại, ưu nhược
điểm của trọng tài thương mại, khảo sát thực tiễn hoạt động của trọng tài tại Việt
Nam, từ đó đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trọng tài tại Việt Nam. Như

vậy, có thể thấy thỏa thuận trọng tài-một vấn đề quan trọng trong giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài tất yếu cũng đã được các tác giả trên đề cập, nghiên cứu. Tuy
nhiên vấn đề này cũng chỉ được nghiên cứu hết sức khái quát, chỉ chiếm một phần
nhỏ trong các luận văn nói trên. Đặc biệt trong đó, chỉ có khóa luận cử nhân “Một số
2
vấn đề pháp lý về điều khoản trọng tài trong hợp đồng thương mại quốc tế” của tác
giả Trần Thị Hồng đã đi sâu nghiên cứu về thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng
thương mại quốc tế. Tác giả Trần Thị Hồng đã phân tích kỹ những yếu tố ảnh hưởng
đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài từ đó tác giả đưa ra những đề xuất để xây dựng
một thỏa thuận trọng tài hoàn chỉnh giúp cho các doanh nghiệp khi đàm phán ký kết
hợp đồng. Chính vì vậy mà đề tài này mang một ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Tuy nhiên,
tác giả Trần Thị Hồng đã không đi sâu vào phân tích thực trạng pháp luật cũng như
thực trạng áp dụng pháp luật về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Do đó, thiết nghĩ
việc nghiên cứu kỹ lưỡng về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài cũng như việc đánh giá
thực trạng pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về hiệu lực của thỏa thuận trọng
tài từ đó đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện pháp luật là việc làm cần thiết, góp
phần nhất định làm sáng rõ hơn nhận thức về thỏa thuận trọng tài.
Phạm vi nghiên cứu và mục đích của đề tài
Trọng tài thương mại là một lĩnh vực khá rộng, bao gồm nhiều vấn đề về: thỏa
thuận trọng tài, trọng tài viên, quá trình tố tụng trọng tài… Trong phạm vi đề tài của
mình tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, thực trạng
pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật tại Việt Nam về hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài. Trong phần đánh giá về thực trạng pháp luật về hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài, tác giả sẽ phân tích, so sánh, đối chiếu giữa các văn bản pháp luật hiện hành
quy định về hiệu lực thỏa thuận trọng tài và Luật Trọng tài thương mại mới vừa được
Quốc hội thông qua để thấy được sự khác biệt giữa quy định cũ và quy định mới.
Qua đó, có thể làm rõ những điểm mới của Luật Trọng tài thương mại về hiệu lực
của thỏa thuận trọng tài.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả mong muốn đưa ra một cách nhìn
toàn diện và có hệ thống các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước

đối với hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về
thỏa thuận trọng tài. Từ đó có thể phát hiện được những khó khăn, vướng mắc trong
quá trình áp dụng để đưa ra kiến nghị mang tính tham khảo nhằm hoàn thiện pháp
luật về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Khóa luận là các văn bản pháp luật của Việt Nam và
một số văn bản pháp luật quốc tế nổi bật liên quan đến hiệu lực của thỏa thuận trọng
3
tài. Ngoài ra tác giả còn tiến hành phân tích một số bản án để làm rõ về thực trạng áp
dụng pháp luật về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, dựa trên quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam về xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Ngoài những phương pháp nói trên, tác giả còn sử dụng các phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh…
Cơ cấu của khóa luận
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục Tài liệu tham khảo, Khóa luận được
chia thành hai Chương. Cụ thể:
• Chương 1: Khái quát những vấn đề chung về thỏa thuận trọng tài
• Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực trạng áp dụng chế định pháp luật về
hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
4
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
THỎA THUẬN TRỌNG TÀI
1.1. Khái niệm thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài có một vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Bởi nếu không có thỏa thuận giữa các bên
tranh chấp thì trọng tài sẽ không có thẩm quyền giải quyết vụ việc. Do đó, pháp luật

Việt Nam và các nước đều dành cho thỏa thuận trọng tài một sự ưu tiên nhất định, thể
hiện ở việc dành cho thỏa thuận trọng tài một chương riêng biệt trong các đạo luật
quy định về trọng tài. Chính vì thế mà thỏa thuận trọng tài được định nghĩa hết sức rõ
ràng trong các đạo luật này.
Luật Trọng tài thương mại (sau đây gọi tắt là LTTTM) đưa ra định nghĩa:
“Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên nhằm giải quyết bằng Trọng tài
tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”. Trước đây, Khoản 2 Điều 2 Pháp
lệnh Trọng tài thương mại 2003 (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh Trọng tài) đã đưa ra
định nghĩa về thỏa thuận trọng tài như sau: “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa
các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã
phát sinh trong hoạt động thương mại”. Như vậy, đối tượng tranh chấp được đưa ra
trọng tài giải quyết được xem là vấn đề gây nhiều tranh cãi đã không được đề cập
trong định nghĩa về thỏa thuận trọng tài của Luật mới mà được quy định tại một điều
khoản riêng biệt (Điều 2 LTTTM). Việc quy định như vậy đã giúp cho những đối
tượng tranh chấp mà trọng tài có thẩm quyền giải quyết trở nên rõ ràng hơn nhiều so
với cách quy định chung chung “các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát
sinh trong hoạt động thương mại” trong Pháp lệnh đồng thời cũng làm cho định
nghĩa thỏa thuận trọng tài đơn giản, rõ ràng hơn tránh việc gây nên nhiều cách hiểu
khác nhau.
Luật Mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban luật thương mại quốc tế
của Liên hiệp quốc (sau đây gọi tắt là Luật Mẫu UNCITRAL) đưa ra định nghĩa về
thỏa thuận trọng tài như sau: “Thỏa thuận trọng tài là thoả thuận mà các bên đưa ra
trọng tài mọi hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa các
bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ
hợp đồng. Thoả thuận trọng tài có thể dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp
đồng hoặc dưới hình thức thoả thuận riêng”.
5
Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài
nước ngoài (sau đây gọi tắt là Công ước New York) cũng đã định nghĩa về thỏa thuận
trọng tài như sau: “là thỏa thuận bằng văn bản theo đó các bên cam kết đưa ra trọng

tài xét xử mọi tranh chấp đã hoặc có thể phát sinh giữa các bên từ một quan hệ pháp
lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không, liên quan đến một đối tượng có khả
năng giải quyết được bằng trọng tài”.
Như vậy có thể thấy quy định của pháp luật nước ta về thỏa thuận trọng tài khá
tương đồng với các văn bản pháp luật quốc tế. Thỏa thuận trọng tài có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng bởi chỉ khi tồn tại thỏa thuận thì trọng tài mới có thẩm quyền giải
quyết và thỏa thuận đó cũng đồng thời loại trừ thẩm quyền của tòa án. Chính vì vậy
nên không phải thỏa thuận nào giữa các bên về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
đều làm phát sinh thẩm quyền giải quyết của trọng tài. Để trở thành một thỏa thuận
hoàn chỉnh, thỏa thuận đó phải thể hiện đúng ý chí của các bên, theo đúng hình thức
do pháp luật quy định, đối tượng tranh chấp phải thuộc thẩm quyền giải quyết của
trọng tài…
Trước hết, thỏa thuận trọng tài phải là sự thống nhất ý chí của các bên đưa tranh
chấp ra giải quyết tại trọng tài. Bởi bản chất của thỏa thuận là sự tự nguyện, thống
nhất của các bên về một vấn đề nào đó. Sẽ không gọi là thỏa thuận nếu xuất hiện bất
cứ sự đe dọa, lừa dối nào.
Thứ hai, đối tượng giải quyết của trọng tài là “các tranh chấp đã phát sinh hoặc
có thể phát sinh”. Do đó, thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập ở hai thời điểm
khác nhau: khi tranh chấp đã xảy ra hoặc là khi tranh chấp chưa xảy ra. Bởi vậy, tồn
tại hai dạng thỏa thuận trọng tài:
• Điều khoản trọng tài: là điều khoản các bên thỏa thuận trong hợp đồng nhằm
dự liệu nếu có tranh chấp phát sinh sẽ đưa ra trọng tài giải quyết. Đây chính là thỏa
thuận trọng tài được xác lập trước khi tranh chấp xảy ra.
• Thỏa thuận trọng tài riêng biệt (hay còn gọi là thỏa ước trọng tài
1
): là thỏa
thuận giữa các bên sau khi tranh chấp đã phát sinh thống nhất chọn hình thức trọng
tài để giải quyết vụ việc.
LTTTM một lần nữa khẳng định điều này tại Khoản 1 Điều 16: “Thỏa thuận
trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng

1
Nguyễn Đình Thơ (2006), “Một số vấn đề về thỏa thuận trọng tài”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (Số 20/2006),
tr.16.
6
hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng”. Việc quy định thời điểm xác lập thỏa thuận
trọng tài như thế là hết sức linh hoạt. Tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tranh chấp,
giúp cho tranh chấp được giải quyết hiệu quả.
Thứ ba, về hình thức của thỏa thuận trọng tài là phải bằng văn bản. Pháp luật
Việt Nam cũng như các nước đều thống nhất, hình thức của thỏa thuận trọng tài phải
bằng văn bản
2
. Đây cũng là một trong những điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài. Vấn đề này sẽ được tác giả làm rõ ở Chương 2 của Khóa luận.
Thứ tư, phạm vi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là các tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thương mại. Luật Mẫu UNCITRAL cũng như Công ước New York
đều ghi nhận các tranh chấp được đưa ra trọng tài giải quyết có thể là tranh chấp
trong hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng. Trong khi, Pháp lệnh Trọng tài thương mại
Việt Nam chỉ quy định “các tranh chấp đã phát sinh hoặc sẽ phát sinh trong hoạt
động thương mại” mà không đề cập đến vấn đề các tranh chấp đó trong hợp đồng hay
ngoài hợp đồng
3
.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về thỏa thuận trọng tài một
cách khái quát như sau: “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận bằng văn bản giữa các
bên nhằm giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh
giữa các bên. Thỏa thuận trọng tài có thể là điều khoản trọng tài trong hợp đồng
hoặc là một thỏa thuận riêng”.
1.2. Đặc điểm của thỏa thuận trọng tài
1.2.1. Tính tự nguyện
Đây là đặc điểm hết sức đặc trưng của thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận là “đi

tới sự đồng ý sau khi cân nhắc, thảo luận”. Khi nói đến thỏa thuận thì nó phải thể
hiện được thiện chí của các bên cùng thống nhất vấn đề sau một quá trình đàm phán,
thảo luận. Như vậy, bản chất của thỏa thuận là sự tự nguyện thống nhất ý chí của các
bên về một vấn đề nào đó. Nếu ý chí đó được thống nhất không dựa trên sự tự
nguyện thì không thể coi đó là một thỏa thuận được.
2
Điều 1031 Luật Trọng tài của Cộng hòa Liên bang Đức, Điều 7 Khoản 2 Luật Trọng tài thương mại quốc tế
của Cộng hòa Liên bang Nga, Điều 6 Luật Trọng tài Thái Lan, Luật Trọng tài Anh…(Trích theo “Giới thiệu
tóm tắt Luật Trọng tài của một số nước trên thế giới”, Hội Luật gia Việt Nam).
3
Với cách quy định như trên có hai vướng mắc:
• Cần phải xác định đâu là “tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại” và đâu là “tranh chấp
phát sinh không thuộc hoạt động thương mại”.
• Tranh chấp ngoài hợp đồng có được đưa ra trọng tài giải quyết hay không?
Vấn đề này sẽ được tác giả phân tích trong Chương 2 của Khóa luận.
7
Trong hoạt động kinh doanh thương mại, không ai muốn tranh chấp xảy ra. Tuy
nhiên, khi kinh tế càng phát triển, trước đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, vì lợi
nhuận người ta sẵn sàng xâm phạm quyền và lợi ích của người khác, tranh chấp xảy
ra là điều không tránh khỏi. Vì vậy, việc giải quyết tranh chấp hiệu quả, công bằng…
là đòi hỏi cấp thiết. Và việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp hoàn toàn
phụ thuộc vào ý chí của các bên, các bên có toàn quyền quyết định. Do đó, thỏa thuận
trọng tài-là thỏa thuận lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, đòi hỏi ở các bên
một sự hoàn toàn tự nguyện.
Thỏa thuận trọng tài là kết quả của quá trình đàm phán, cân nhắc giữa các bên.
Các cá nhân, tổ chức kinh doanh lựa chọn trọng tài cũng như lựa chọn hình thức kinh
doanh cho mình. Trước khi chọn trọng tài giải quyết tranh chấp các bên chắc cũng đã
tìm hiểu về phương thức giải quyết này, cũng đã so sánh ưu nhược điểm so với các
phương thức giải quyết tranh chấp khác. Và quan trọng hơn hết là các bên đã đưa ra
quyết định chọn lựa sau quá trình cân nhắc. Lựa chọn trọng tài cũng như một quyết

định kinh doanh và như mọi quyết định kinh doanh khác, họ phải tự chịu rủi ro có thể
xảy ra
4
. Do vậy, một khi đã tự nguyện xác lập thỏa thuận trọng tài các bên phải chịu
sự ràng buộc của nó trong suốt quá trình giải quyết vụ tranh chấp. Sự ràng buộc thể
hiện ở những điểm sau:
- Trong thỏa thuận trọng tài các bên thống nhất lựa chọn trọng tài giải quyết
tranh chấp, lựa chọn hình thức trọng tài (thường trực hoặc lâm thời), lựa chọn trung
tâm trọng tài, lựa chọn địa điểm, ngôn ngữ… Do đó đòi hỏi các bên phải thực hiện
đúng theo thỏa thuận đã xác lập. Bởi các bên đã xác lập thỏa thuận một cách tự
nguyện, được tự do chọn lựa cách thức giải quyết tranh chấp. Chính vì vậy các bên
cần có trách nhiệm đối với sự lựa chọn của mình.
- Mặt khác, tính tự nguyện cũng ảnh hưởng đến thiện chí của các bên khi thi
hành quyết định trọng tài. Một khi đã xác lập thỏa thuận trọng tài một cách tự
nguyện, các bên cũng cần nghiêm chỉnh thi hành quyết định trọng tài. Góp phần
mang lại hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp.
Như vậy có thể thấy, đặc điểm này đã thể hiện được ưu điểm của phương thức
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Trọng tài sẽ giải quyết nhanh chóng, hiệu quả,
thuận tiện cho các bên trong trường hợp tất cả các bên đều có thiện chí, trung thực và
hợp tác.
4
Trần Hữu Huỳnh (2003), “Pháp lệnh Trọng tài thương mại, những thử thách phía trước”, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, (Số 04/2003), tr.64.
8
Do đặc điểm hết sức đặc trưng này mà pháp luật đã quy định tính tự nguyện của
các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài cũng là một trong những nội dung ảnh hưởng
đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. LTTTM đã quy định một trong các trường hợp
làm cho thỏa thuận trọng tài vô hiệu là: “Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng
ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận
trọng tài đó là vô hiệu” (Khoản 5 Điều 18). Thật vậy, ý chí của các bên khi xác lập

thỏa thuận trọng tài phải hoàn toàn tự nguyện, minh bạch, không bên nào bị lừa dối
hoặc bị đe dọa. Nếu có bất cứ sự đe dọa, lừa dối nào thì thỏa thuận trọng tài sẽ không
còn nguyên nghĩa vốn có của nó. Tuy nhiên trong trường hợp này, pháp luật vẫn tôn
trọng ý chí của các bên. Bởi ở đây phải tồn tại hai điều kiện thì thỏa thuận trọng tài
mới vô hiệu: có lừa dối, đe dọa và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
Nếu một bên phát hiện bị lừa dối, đe dọa nhưng sau đó vẫn công nhận thỏa thuận
trọng tài thì thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực.
Yếu tố tự nguyện thỏa thuận của thỏa thuận trọng tài quan trọng đến mức một
số luật gia Châu Âu cho rằng, nếu giữa các bên đã có thỏa thuận trọng tài kèm theo
quy tắc tố tụng thì trọng tài quốc tế sẽ là quá trình tự động, độc lập với luật quốc gia.
Ý kiến này tuy hơi thái quá nhưng cũng cho thấy vai trò thỏa thuận ý chí chọn “quyền
lực tư” trong phương thức trọng tài
5
. Rõ ràng với tư cách là một thiết chế tài phán tư,
trọng tài luôn tôn trọng sự tự nguyện của các bên tranh chấp. Và thỏa thuận trọng tài
chính là biểu hiện đầu tiên của sự tự nguyện thỏa thuận đó.
1.2.2. Tính độc lập
Đây là đặc điểm cơ bản của thỏa thuận trọng tài. Tính độc lập của thỏa thuận
trọng tài ở đây được xét trong mối quan hệ với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy
bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của điều
khoản trọng tài. Như vậy, dù thỏa thuận trọng tài dưới dạng là một điều khoản trong
hợp đồng hay là một thỏa thuận trọng tài riêng biệt đều tồn tại độc lập với hợp đồng.
Trước hết, thỏa thuận trọng tài độc lập với hợp đồng do những lý do sau:
Lý do thứ nhất là, nguyên nhân làm cho hợp đồng vô hiệu và nguyên nhân làm
cho thỏa thuận trọng tài vô hiệu là khác nhau. Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005
(sau đây gọi tắt là BLDS) hợp đồng dân sự vô hiệu trong những trường hợp sau:
5
Trần Hữu Huỳnh (2000), “Một số vấn đề cơ bản về thỏa thuận trọng tài trong thương mại quốc tế”, Tạp chí
Luật học, (Số 1/2000), tr.19.
9

• Chủ thể xác lập hợp đồng là người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
• Hợp đồng có sự vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội;
• Hợp đồng vô hiệu do giả tạo;
• Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn;
• Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa;
• Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức;
• Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được.
Trong khi, những nguyên nhân làm cho thỏa thuận trọng tài vô hiệu được quy
định tại Điều 18 LTTTM
6
như sau:
• Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng
tài theo quy định tại Điều 2 của Luật này;
• Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật;
• Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo
quy định của Bộ luật dân sự;
• Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16
của Luật này;
• Một trong các bên bị lừa dối, bị đe doạ, bị cưỡng ép trong quá trình xác lập
thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu;
• Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
Như vậy, có thể thấy có khi nguyên nhân làm cho hợp đồng vô hiệu trùng với
nguyên nhân làm cho thỏa thuận trọng tài vô hiệu, ví dụ như trường hợp chủ thể
không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Tuy nhiên nếu cả hợp đồng và thỏa thuận
trọng tài điều vô hiệu do cùng một nguyên nhân thì sự vô hiệu này vẫn độc lập. Bản
thân thỏa thuận trọng tài vô hiệu do người ký kết thỏa thuận trọng tài không có năng
lực đầy đủ theo Điều 18 LTTTM chứ không phải hợp đồng vô hiệu kéo theo thỏa
thuận trọng tài vô hiệu.

6
Tương ứng tại Điều 10 Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003.
10
Trong thực tiễn kinh doanh thương mại, nhiều cá nhân, tổ chức kinh doanh đã
chưa nhận thức đúng về tính độc lập của thỏa thuận trọng tài. Do đó, trên thực tế tòa
án cũng đã giải quyết nhiều yêu cầu hủy quyết định trọng tài của các tổ chức và cá
nhân kinh doanh vì các chủ thể này cho rằng thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi hợp
đồng vô hiệu. Trong vụ tranh chấp giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn Sao Đại Hùng
và Công ty Zest Holding & Shipping LTD (Quyết định số 112/2006/TTPT ngày 2-6-
2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội)
7
là một ví dụ. Tranh
chấp giữa hai bên đã được đưa ra Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam giải quyết.
Công ty Sao Đại Hùng do ông Thọ đại diện yêu cầu hủy quyết định trọng tài vì cho
rằng người ký hợp đồng của Công ty Holding & Shipping LTD đã vượt quá thẩm
quyền cho phép của công ty nên thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Tuy nhiên, Tòa phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao đã không chấp nhận lý do này. Theo Tòa án tối cao,
việc ông Simonov (đại diện Công ty Holding & Shipping LTD) ký hợp đồng có giá
trị vượt quá mức quy định công ty cho phép thuộc phần nội dung của hợp đồng. Theo
quy định tại Điều 11 Pháp lệnh Trọng tài thì việc vô hiệu của hợp đồng này không
ảnh hưởng đến thỏa thuận trọng tài. Trong các trường hợp làm cho hợp đồng vô hiệu
quy định tại Điều 10 Pháp lệnh Trọng tài không có trường hợp người ký hợp đồng có
giá trị vượt quá quy định. Như vậy cách giải quyết của Tòa án trong trường hợp này
là thuyết phục.
Lý do thứ hai là, khi hợp đồng vô hiệu tranh chấp giữa hai bên vẫn có thể xảy
ra. Tranh chấp tồn tại một cách độc lập không phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng.
Trong giao lưu thương mại, tranh chấp giữa các bên rất phong phú, đa dạng do nhiều
nguyên nhân khác nhau gây nên. Ngay cả khi hợp đồng vô hiệu tranh chấp giữa hai
bên vẫn có thể xảy ra, ví dụ như tranh chấp về cách giải quyết hậu quả của hợp đồng
vô hiệu, tranh chấp về bồi thường thiệt hại… Trong quá trình giao kết hợp đồng, các

bên không hề mong muốn cho tranh chấp xảy ra cũng như không thể lường trước
được tranh chấp sẽ xảy ra khi nào. Các bên xác lập điều khoản trọng tài trong hợp
đồng nhằm dự liệu phương hướng giải quyết khi tranh chấp xảy ra, hi vọng tranh
chấp sẽ được giải quyết ổn thỏa, tốt đẹp. Nếu hợp đồng vô hiệu kéo theo thỏa thuận
trọng tài vô hiệu thì thật là vô lý. Trong khi, trước khi xảy ra tranh chấp hai bên đã tự
nguyện lựa chọn trọng tài giải quyết, khi tranh chấp xảy ra hai bên vẫn mong muốn
đưa ra trọng tài giải quyết. Hợp đồng vô hiệu kéo theo thỏa thuận trọng tài vô hiệu vô
hình chung đã không tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. Trong trường hợp này nếu
muốn đưa ra giải quyết tại trọng tài có phải hai bên phải thỏa thuận lại trong một thỏa
7
Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải (2010), “Tuyển tập các bản án, quyết định của Tòa án Việt Nam về trọng tài
thương mại”, NXB Lao động, Hà Nội, tr.122.
11
thuận trọng tài riêng biệt? Việc này làm tốn kém thời gian cũng như công sức của các
bên. Chưa kể trường hợp một trong các bên không có thiện chí làm kéo dài thời gian
giải quyết tranh chấp. Vậy mà thỏa thuận trọng tài trước đó có tác dụng ràng buộc
các bên bây giờ lại vô hiệu theo hợp đồng. Do vậy, việc xác định thỏa thuận trọng tài
độc lập với hợp đồng là điều cần thiết.
Lý do thứ ba là, thỏa thuận trọng tài về bản chất là một “hợp đồng” đưa tranh
chấp giữa các bên ra giải quyết trước trọng tài, còn hợp đồng được các bên thỏa
thuận ký kết là nhằm điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên
8
. Thật vậy, nên xem
thỏa thuận trọng tài như một hợp đồng. Điều 388 BLDS quy định: “Hợp đồng dân sự
là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự”. Về hình thức thỏa thuận trọng tài có thể chưa phải là một hợp đồng
nhưng xét về bản chất thỏa thuận trọng tài dường như đã đáp ứng đầy đủ các yếu tố
cấu thành hợp đồng. Đó là văn bản các bên thỏa thuận về phương thức giải quyết
tranh chấp, trung tâm giải quyết, quy tắc tố tụng, địa điểm, ngôn ngữ… và các bên
cũng phải chịu trách nhiệm đối với sự lựa chọn của mình. Mặt khác khi được xem là

một “hợp đồng” thì quan hệ giữa thỏa thuận trọng tài và hợp đồng cũng không phải
là quan hệ hợp đồng chính-hợp đồng phụ. Đây là hai văn bản độc lập, thỏa thuận
trọng tài không hề có nội dung nào liên quan tới nội dung của hợp đồng, không có sự
điều chỉnh về quyền và nghĩa vụ của các bên. Như vậy, khi xem thỏa thuận trọng tài
như một “hợp đồng” ta thấy rõ sự tồn tại độc lập của nó đối với hợp đồng. Trong một
số bài viết về thỏa thuận trọng tài nhiều tác giả đã sử dụng cụm từ “hợp đồng chính”
khi đề cập tới mối quan hệ giữa thỏa thuận trọng tài và hợp đồng. Theo tác giả, cách
dùng từ như vậy là chưa chuẩn xác, nếu gọi là “hợp đồng chính” thì có phải xem thỏa
thuận trọng tài như một “hợp đồng phụ” hay không? Như đã phân tích ở trên, giữa
thỏa thuận trọng tài và hợp đồng không hề có mối quan hệ hợp đồng chính-hợp đồng
phụ.
Lý do thứ tư là, với việc khẳng định tính độc lập của thỏa thuận trọng tài, đảm
bảo cho mọi tranh chấp đều được giải quyết kể cả khi hợp đồng vô hiệu. Phù hợp với
chủ trương khuyến khích giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nghị định số 25/2004
của Chính phủ ngày 15-01-2004 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh
Trọng tài thương mại (sau đây gọi tắt là Nghị định 25/2004) đã ghi nhận tại Điều 3
như sau: “Nhà nước khuyến khích giải quyết tranh chấp bằng trọng tài theo quy định
của Pháp lệnh và Nghị định này, tạo điều kiện phát triển hoạt động trọng tài thương
mại phù hợp với tình hình và yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước”.
8
Nguyễn Ngọc Lâm (2007), “Tư pháp quốc tế-Phần 2: Một số chế định cơ bản, tố tụng tòa án và trọng tài”,
NXB Phương Đông, Hồ Chí Minh, tr.294.
12
Trên đây là các lý do lý giải cho tính độc lập của thỏa thuận trọng tài so với hợp
đồng. Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài thể hiện ở những điểm sau:
- Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không làm
ảnh hưởng tới hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Hợp đồng có thể bị vô hiệu từng
phần hoặc vô hiệu toàn bộ nhưng trong hai trường hợp này cũng không tự động kéo
theo sự vô hiệu của điều khoản trọng tài
9

. Tính độc lập này rất quan trọng nhất là khi
hợp đồng vô hiệu thì thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực, cho phép xác định thẩm
quyền của trọng tài giải quyết vụ tranh chấp phát sinh từ hợp đồng đó. Như vậy thỏa
thuận trọng tài sẽ không chịu sự ràng buộc từ hợp đồng, ngay cả khi nó là một điều
khoản nằm trong hợp đồng.
- Luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài và luật điều chỉnh nội dung hợp
đồng trong các hợp đồng thương mại quốc tế là khác nhau. Chính vì tính độc lập nên
không nhất thiết luật điều chỉnh nội dung hợp đồng và luật điều chỉnh thỏa thuận
trọng tài phải giống nhau. Trên thực tế các bên dường như chỉ quan tâm thỏa thuận
luật điều chỉnh nội dung hợp đồng mà chưa dành sự quan tâm đáng kể cho luật điều
chỉnh thỏa thuận trọng tài. Việc xem xét luật điều chỉnh hiệu lực của thoả thuận trọng
tài phụ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng trọng tài mà sẽ có những quyết định riêng rẽ,
chẳng hạn, luật nơi tiến hành trọng tài, luật nơi phán quyết được tuyên, luật điều
chỉnh nội dung tranh chấp
10
. Như vậy để tránh những rắc rối có thể phát sinh trong
quá trình tố tụng, khi giao kết hợp đồng, đặc biệt là các hợp đồng thương mại quốc
tế, các bên nên thỏa thuận rõ luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài.
- Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài còn được thể hiện qua nguyên tắc
“thẩm quyền của thẩm quyền”-“ competence of competence”. Theo nguyên tắc này
thì Hội đồng trọng tài có thẩm quyền xem xét thẩm quyền của chính mình. Việc xác
định sự độc lập của thỏa thuận trọng tài tạo cơ sở cho Hội đồng trọng tài xem xét
hiệu lực của hợp đồng. Nếu có khiếu nại của các bên về thỏa thuận trọng tài, Hội
đồng trọng tài sẽ tiến hành xem xét mình có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nữa
hay không. Nguyên tắc này được ghi nhận trong Điều 30 của Pháp lệnh “Trước khi
xem xét nội dung vụ tranh chấp, nếu có đơn khiếu nại của một bên về việc Hội đồng
Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp; vụ tranh chấp không có
thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu, Hội đồng Trọng tài phải xem
xét, quyết định với sự có mặt của các bên, trừ trường hợp các bên có yêu cầu
khác...”. Như vậy, hợp đồng vô hiệu không loại trừ thẩm quyền của trọng tài. Đảm

9
Trần Hữu Huỳnh, tlđd, tr. 22.
10
Trần Minh Ngọc (2009), “Luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài trong trọng tài thương mại quốc tế”,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (Số 1/2009),
13
bảo cho mọi tranh chấp đều được giải quyết. Nếu công nhận hợp đồng vô hiệu mặc
nhiên kéo theo điều khoản trọng tài vô hiệu và dẫn đến Hội đồng Trọng tài không
thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp thì vụ tranh chấp sẽ không được giải quyết.
LTTTM đã giải quyết vấn đề này triệt để hơn khi quy định rõ là trước khi xem xét
nội dung vụ tranh chấp, Hội đồng trọng tài phải xem xét về hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài; thỏa thuận trọng tài có thuộc trường hợp không thể thực hiện được hay
không và xem xét thẩm quyền của mình mà không đợi đến khi có đơn khiếu nại của
một bên mới xem xét. Khoản 1 Điều 43 LTTTM đã quy định như sau: “Trước khi
xem xét nội dung vụ tranh chấp, Hội đồng Trọng tài phải xem xét hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài; thỏa thuận trọng tài thực hiện được hay không và xem xét thẩm
quyền của mình. Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì
Hội đồng Trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này.
Trường hợp không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, thỏa thuận trọng tài vô
hiệu hoặc xác định rõ thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì Hội đồng
Trọng tài quyết định đình chỉ việc giải quyết và thông báo ngay cho các bên biết”.
Như vậy đảm bảo tranh chấp được giải quyết hiệu quả, tiết kiệm được thời gian của
các bên tranh chấp. Tránh trường hợp các bên phải mất thời gian tham gia tố tụng
trọng tài rồi sau đó quyết định trọng tài lại bị hủy do thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
Pháp lệnh Trọng tài ở nước ta đã khẳng định rõ sự độc lập của thỏa thuận trọng
tài trong Điều 11: “Điều khoản trọng tài tồn tại độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi,
gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không làm ảnh hưởng tới hiệu
lực của điều khoản trọng tài”. Tuy nhiên vẫn có một số vướng mắc khi phân tích
Điều 11. Điều 11 Pháp lệnh chỉ đề cập đến điều khoản trọng tài chỉ là một dạng của
thỏa thuận trọng tài mà không nhắc tới thỏa thuận trọng tài riêng biệt. Như vậy trong

trường hợp này nên hiểu khi thỏa thuận trọng tài là một thỏa thuận riêng biệt thì nó sẽ
không có đặc điểm này hay vì là một thỏa thuận riêng biệt nằm ngoài hợp đồng nên
nó sẽ đương nhiên độc lập với hợp đồng? Mặt khác, trong Điều 11 Pháp lệnh Trọng
tài chỉ đề cập đến các trường hợp hợp đồng bị thay đổi, gia hạn, hủy bỏ, vô hiệu. Vậy
trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được, không rơi vào những trường hợp
trên thì giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài sẽ như thế nào? Trong điều kiện nước
ta hiện nay vốn còn nhiều bất cập trong việc giải thích và áp dụng luật. Thiết nghĩ, để
hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra trong quá trình áp dụng luật nên quy định vấn đề
này một cách cụ thể hơn. Và LTTTM mới đã khắc phục được nhược điểm này. Điều
19 LTTTM đã quy định như sau: “Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp
đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể
14
thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài”. Như vậy Luật mới
đã giải quyết thỏa đáng lần lượt những câu hỏi đặt ra ở trên.
Quy định về tính độc lập giữa thỏa thuận trọng tài và hợp đồng có trong pháp
luật trọng tài của hầu hết các nước. Điều 7 Luật Trọng tài Anh quy định: “Tính chất
độc lập của thỏa thuận trọng tài: Trừ khi các bên có thỏa thuận khác, một thỏa thuận
trọng tài tạo thành hoặc được dự định tạo thành của một phần thỏa thuận khác
(thành văn hoặc không thành văn) sẽ không bị coi là không có giá trị pháp lý, không
tồn tại hoặc không có hiệu lực khi thỏa thuận kia bị mất giá trị pháp lý, không tồn tại
hay không có hiệu lực và vì mục đích này nó sẽ được coi như một thỏa thuận riêng
biệt”
11
. Điều 19 Luật Trọng tài Trung Quốc cũng quy định: “Thỏa thuận trọng tài
tồn tại độc lập. Mọi sự thay đổi, hủy bỏ, chấm dứt hoặc không có hiệu lực của hợp
đồng không ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài”
12
. Ở Nhật, tính
độc lập của thỏa thuận trọng tài không được ghi nhận trong văn bản pháp luật nhưng
trong thực tiễn xét xử Toà án coi điều khoản trọng tài độc lập với những vấn đề khác

của hợp đồng thương mại. Trong vụ việc điển hình Kokusan Kinzoku kcgyc.K.K. v.
Guard-Life Corporation, Toà án đã tuyên rằng: “Khi thoả thuận trọng tài độc lập
được ký kết kèm theo hợp đồng chính, vấn đề hiệu lực của thoả thuận trọng tài cần
được xác định một cách độc lập với hợp đồng chính. Trừ trường hợp các bên có thoả
thuận khác, hiệu lực của thoả thuận trọng tài không trực tiếp bị ảnh hưởng thậm chí
cả khi hiệu lực của hợp đồng chính bị ảnh hưởng”
13
. Và Điều 16 Luật Mẫu
UNICITRAL cũng đã khẳng định: “Hội đồng Trọng tài có thể quyết định về thẩm
quyền xét xử của chính mình, kể cả những ý kiến phản đối về sự tồn tại hoặc giá trị
pháp lý của thoả thuận trọng tài. Vì mục đích này, điều khoản trọng tài trở thành bộ
phận của hợp đồng sẽ được coi là thoả thuận độc lập với các điều khoản khác của
hợp đồng. Quyết định của Hội đồng Trọng tài về hợp đồng bị vô hiệu không làm cho
điều khoản trọng tài bị vô hiệu theo”. Ở Pháp, nguyên tắc này được thiết lập từ một
quyết định của Tòa Phá án (Tòa án Tư pháp tối cao) năm 1963
14
. Tại quyết định này,
Tòa Phá án tuyên bố nguyên tắc theo đó điều khoản trọng tài quốc tế có tính độc lập
so với hợp đồng chính. Từ nguyên tắc đó, vào năm 1999, Tòa Phá án đã suy ra
11
Nguyễn Đình Thơ (2006), “Một số vấn đề về thỏa thuận trọng tài”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (Số 10/2006),
tr. 20.
12
Nguyễn Đình Thơ (2006), tlđd, tr.20.
13

%e1%ba%a5p-th%c6%b0%c6%a1ng-m%e1%ba%a1i-t%e1%ba%a1i-nh%e1%ba%adt-b%e1%ba%a3n-nt-d
%e1%ba%b7c-th-c%e1%bb%a7a-php-l-nhn-lo/.
14
Khuynh hướng hiện nay của pháp luật trọng tài của Cộng hòa Pháp và quốc tế,

/>15
nguyên tắc về tính hiệu lực của điều khoản trọng tài, theo đó điều khoản trọng tài có
một chế độ pháp lý riêng, đặc thù và được suy đoán trước là có hiệu lực. Như vậy có
thể thấy, đặc điểm này được ghi nhận ở hầu hết pháp luật các nước, càng khẳng định
được ý nghĩa quan trọng của nó trong việc giải quyết tranh chấp, đó là ý nghĩa đảm
bảo cho mọi tranh chấp đều được giải quyết. Pháp luật Việt Nam quy định về vấn đề
này khá tương đồng với các nước trên thế giới.
1.3. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài được xem là vấn đề then chốt và có vai trò quyết định đối
với việc áp dụng trọng tài như một phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh. Nhận thức đúng vai trò, ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài sẽ giúp cho việc giải
quyết tranh chấp hiệu quả, nhanh chóng. Thỏa thuận trọng tài có những ý nghĩa quan
trọng sau đây:
Một là, thỏa thuận trọng tài là cơ sở đầu tiên để xác định thẩm quyền của trọng
tài. Sẽ không có việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nếu không có thỏa thuận
trọng tài giữa các bên tranh chấp. Khác với tòa án có thẩm quyền đương nhiên giải
quyết các vụ tranh chấp phát sinh, trọng tài chỉ có thẩm quyền nếu các bên có thỏa
thuận. Đây là nguyên tắc quan trọng của phương thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài, đảm bảo tối đa quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp. Khoản 1 Điều 5
LTTTM cũng đã khẳng định: “Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu các
bên có thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi
xảy ra tranh chấp”. Pháp lệnh Trọng tài cũng đã ghi nhận nguyên tắc này tại Khoản
1 Điều 5. Tuy nhiên, không phải cứ có thỏa thuận trọng tài thì trọng tài sẽ đương
nhiên có thẩm quyền giải quyết. Thỏa thuận trọng tài chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó có
hiệu lực. Tức là, thỏa thuận trọng tài đó phải thể hiện đúng ý chí của các bên, đồng
thời tuân theo các quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài. Khi thỏa thuận trọng tài đã vô hiệu mà trọng tài vẫn giải quyết thì quyết
định đó sẽ bị hủy bởi tòa án. Điều này được quy định tại Điều 54 Pháp lệnh và tiếp
tục được ghi nhận tại Điều 68 LTTTM.
Hai là, một khi thỏa thuận trọng tài có hiệu lực nó mang lại thẩm quyền cho

trọng tài và đồng thời cũng loại trừ thẩm quyền của tòa án. Thỏa thuận trọng tài là
bằng chứng cho thấy các bên đã lựa chọn trọng tài chứ không phải là tòa án giải
quyết tranh chấp. Tòa án phải từ chối thụ lý khi giữa hai bên đã có một thỏa thuận
trọng tài có hiệu lực. Điều 6 LTTTM quy định: “Trong trường hợp tranh chấp đã có
thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý,
16
trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực
hiện được”. Trọng tài và tòa án là hai thiết chế tài phán hoàn toàn khác nhau, tòa án
không phải là cấp trên của trọng tài. Do đó, một khi các bên đã có thỏa thuận trọng
tài có hiệu lực thì tòa án không còn thẩm quyền nữa. Trước đây, Điều 5 Pháp lệnh
Trọng tài cũng đã quy định: “Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thỏa thuận
trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường
hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu”. Tuy nhiên, có sự mâu thuẫn giữa Pháp lệnh Trọng
tài và Nghị quyết 05/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại. Pháp
lệnh quy định tòa án phải từ chối thụ lý nếu thỏa thuận trọng tài giữa các bên có hiệu
lực. Thế nhưng, Nghị quyết nói trên lại hướng dẫn trong trường hợp đã có thỏa thuận
trọng tài nếu một bên gửi đơn kiện đến tòa án trong vòng bảy ngày mà bên kia không
phản đối thì tòa có quyền thụ lý vụ kiện. Điểm b, tiểu mục 1.2, mục 1 Nghị quyết đã
quy định: “Khi được nguyên đơn cho biết bằng văn bản sẽ khởi kiện yêu cầu Toà án
giải quyết hoặc khi được Toà án thông báo về việc nguyên đơn đã nộp đơn kiện yêu
cầu Toà án giải quyết vụ tranh chấp mà trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được văn bản của nguyên đơn hoặc thông báo của Toà án bị đơn không phản
đối (được coi là các bên có thoả thuận mới lựa chọn Toà án giải quyết vụ tranh chấp
thay cho thoả thuận trọng tài) hoặc bị đơn có phản đối nhưng không xuất trình được
tài liệu, chứng cứ để chứng minh là trước đó các bên đã có thoả thuận trọng tài
(trường hợp này được coi là không có thoả thuận trọng tài)”. Quy định như trên là
không hợp lý. Bởi như vậy sẽ khuyến khích các bên thoái thác việc thực hiện thỏa
thuận trọng tài đã xác lập. Thỏa thuận trọng tài không còn giá trị ràng buộc các bên
tranh chấp.

Mâu thuẫn về thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa tòa án và trọng tài cũng đã
xảy ra trên thực tế, tranh chấp dưới đây là một ví dụ điển hình. Đó là vụ tranh chấp
hợp đồng liên doanh giữa nguyên đơn là Công ty TNHH Trường Sanh và bị đơn là
ông Kuo Chi Sheng. Trong hợp đồng các bên có thỏa thuận “Trung tâm Trọng tài
quốc tế thuộc Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam giải quyết tranh chấp”.
Nhưng khi tranh chấp xảy ra Công ty TNHH Trường Sanh đã gởi văn bản cho ông
Kuo Chi Sheng thông báo sẽ khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết; ông Kuo Chi Sheng
đã nhận được thông báo khởi kiện của nguyên đơn, nhưng quá 7 ngày làm việc kể từ
ngày nhận được mà không phản đối. Căn cứ vào hướng dẫn tại Nghị quyết
05/2003/NQ-HĐTP Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xem trong trường hợp này là
các bên có thỏa thuận mới chọn tòa án giải quyết vụ tranh chấp thay cho thỏa thuận
trọng tài đã xác lập trước đó. Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã thụ lý, giải
17
quyết vụ án theo thẩm quyền. Trong khi đó, Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
cho rằng giữa các bên đã tồn tại một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực, căn cứ vào Điều
5 Pháp lệnh trọng tài thì Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã thụ lý không đúng
thẩm quyền. Các trọng tài viên của VIAC cho rằng Nghị quyết 05/2003/NQ-HĐTP là
văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại. Về tính pháp lý, văn
bản này có giá trị thấp hơn so với Pháp lệnh và không được trái với quy định trong
Pháp lệnh. Như vậy, việc thẩm phán viện dẫn Nghị quyết mà không áp dụng Điều 5
Pháp lệnh Trọng tài thương mại là không thể chấp nhận được. Do đó, căn cứ vào
Điều 30 Pháp lệnh, ngày 24-10-2008 VIAC đã ra Quyết định về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp vụ kiện số 10/08 giữa ông Kuo Chi Sheng (nguyên đơn) và Công ty
TNHH Trường Sanh (bị đơn). Sau đó, Công ty TNHH Trường Sanh đã nộp đơn yêu
cầu Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh xem xét lại Quyết định của Hội đồng Trọng tài về
thẩm quyền giải quyết vụ kiện. Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh sau khi xem xét, xét
thấy Quyết định của Hội đồng Trọng tài là đúng quy định pháp luật. Do đó, tòa án đã
ra Quyết định số 1475/2009/KDTM-QĐ ngày 18-6-2009
15
không chấp nhận yêu cầu

của Công ty TNHH Trường Sanh giữ nguyên Quyết định của Hội đồng Trọng tài.
Cách giải quyết của tòa án như trên là thuyết phục. Thiết nghĩ, thỏa thuận trọng tài
được xác lập dựa trên sự tự nguyện giữa các bên, tự nguyện lựa chọn trọng tài chứ
không phải là tòa án giải quyết tranh chấp. Các bên cần phải chịu trách nhiệm trước
sự lựa chọn của mình. Và tòa án bằng cách từ chối thụ lý vụ tranh chấp khi có thỏa
thuận trọng tài cũng đã góp phần giúp cho các bên thực hiện đúng thỏa thuận của
mình.
Vấn đề này cũng được quy định rõ ràng trong Luật Trọng tài các nước: Điều 9
Luật Trọng tài của Anh năm 1996, Điều 1032 Luật Trọng tài của Đức, Điều 1458
Luật Trọng tài của Pháp…
16
. Tất nhiên Luật Mẫu UNICITRAL cũng không thể
không quy định về vấn đề này, Khoản 1 Điều 8 quy định: “Trước khi việc kiện về
vấn đề đối tượng của thỏa thuận được đưa ra, nếu một bên yêu cầu không muộn hơn
thời gian khi nộp bản tường trình đầu tiên của mình về nội dung tranh chấp, toà án
sẽ chuyển các bên cho trọng tài trừ khi toà án thấy rằng thoả thuận đó là vô hiệu và
không có hiệu lực, không tiến hành được và không có khả năng thực hiện”.
Qua những phân tích trên có thể thấy được tầm quan trọng của thỏa thuận trọng
tài trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Tuy nhiên thoả thuận trọng tài chỉ
có những ý nghĩa nêu trên khi nó có hiệu lực. Khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì tòa
15
Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải (2010), sđd, tr.62.
16
Hội Luật gia Việt Nam, “Giới thiệu tóm tắt Luật Trọng tài của một số nước trên thế giới”, tr.5.
18
án hoàn toàn có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp. Nếu trọng tài đã giải quyết thì
quyết định trọng tài đó sẽ bị tòa án hủy theo quy định của pháp luật
1.4. Hậu quả pháp lý của thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng
tài các tranh chấp phát sinh. Tuy nhiên, thỏa thuận đó có thể vô hiệu do nhiều lý do

khác nhau. Tùy thuộc vào thời điểm phát hiện thỏa thuận trọng tài vô hiệu sẽ mang
lại những hậu quả pháp lý khác nhau cho các bên tranh chấp.
Khi phát sinh tranh chấp và tranh chấp chưa được giải quyết tại bất kỳ cơ quan
nào, nhận thấy thỏa thuận trọng tài vô hiệu, một bên có thể khởi kiện ra Tòa án. Lúc
này Tòa án hoàn toàn có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp vì thỏa thuận trọng tài
đã vô hiệu. Đây chính là trường hợp ngoại lệ quy định tại Điều 6 LTTTM: “Trong
trường hợp tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án
thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả
thuận trọng tài không thể thực hiện được”.
Khi tranh chấp đã được trọng tài thụ lý nhưng chưa được giải quyết, theo quy
định tại Điều 43 LTTTM trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp Hội đồng Trọng
tài phải xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài và xem xét thẩm quyền của chính
mình. Trong trường hợp không đồng ý với quyết định của Hội đồng Trọng tài quy
định tại Điều 43, trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định
của Hội đồng Trọng tài, các bên có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền
xem xét lại quyết định của Hội đồng Trọng tài. Bên khiếu nại phải đồng thời thông
báo việc khiếu nại cho Hội đồng Trọng tài. Như vậy sẽ đảm bảo được việc giải quyết
tranh chấp của trọng tài là đúng thẩm quyền, tránh được những rắc rối có thể phát
sinh sau này. Về vấn đề này, Điều 30 Pháp lệnh lại quy định khác. Theo Điều 30
Pháp lệnh, Hội đồng Trọng tài chỉ xem xét thẩm quyền của chính mình khi có đơn
khiếu nại của một bên về việc Hội đồng Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ
tranh chấp. Rõ ràng, quy định trong LTTTM mới giúp tiết kiệm thời gian cũng như
công sức của các bên hơn, tránh việc Tòa án hủy phán quyết trọng tài khi thỏa thuận
trọng tài vô hiệu.
Khi tranh chấp đã được giải quyết bởi trọng tài, theo quy định tại Điều 68
LTTTM thì thỏa thuận trọng tài vô hiệu là một trong các căn cứ để Tòa án hủy quyết
định trọng tài. Do đó, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định trọng
tài nếu nhận thấy thỏa thuận trọng tài vô hiệu một bên có quyền làm đơn gởi tòa án
19
cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài ra quyết định trọng tài, để yêu cầu hủy quyết định

trọng tài. Sau khi thụ lý đơn yêu cầu tòa án sẽ tiến hành xem xét thỏa thuận trọng tài
có vô hiệu hay không để ra quyết định hủy hoặc không hủy quyết định trọng tài.
Trong trường hợp Hội đồng xét xử hủy quyết định trọng tài nếu không có thỏa thuận
khác các bên có quyền đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại tòa án.
Như vậy, có thể thấy hiệu lực của thỏa thuận trọng tài đóng một vai trò quan
trọng trong việc giải quyết tranh chấp. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu ở những thời
điểm khác nhau gây nên những hậu quả khác nhau. Nhưng nhìn chung, thỏa thuận
trọng tài vô hiệu tại bất kỳ thời điểm nào cũng đều làm cho trọng tài không còn thẩm
quyền giải quyết vụ tranh chấp nữa và tòa án hoàn toàn có thẩm quyền nếu các bên
không có thỏa thuận khác.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG
ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HIỆU LỰC CỦA
THỎA THUẬN TRỌNG TÀI
2.1. Quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài
Như đã phân tích ở trên, thỏa thuận trọng tài đóng một vai trò quan trọng trong
việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài. Thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của trọng tài phát sinh trên cơ sở thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên thỏa thuận
20
trọng tài chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó có hiệu lực pháp luật. Hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài có vai trò quyết định trong việc thực hiện thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận
trọng tài được xác lập dựa trên sự tự do thỏa thuận giữa các bên tranh chấp. Thế
nhưng, tự do ở đây phải được hiểu là tự do trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước tôn
trọng sự tự do thỏa thuận giữa các bên, nhưng nếu sự tự do thỏa thuận đó xâm phạm
quyền, lợi ích của xã hội, ảnh hưởng đến trật tự công cộng.. thì Nhà nước không thể
không can thiệp. Do đó, pháp luật trọng tài Việt Nam cũng như các nước đều quy
định rõ về điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Điều 18 LTTTM quy định
thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi:
“1. Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của
Trọng tài theo quy định tại Điều 2 của Luật này.

2. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật.
3. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo
quy định của Bộ luật dân sự.
4. Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16
của Luật này.
5. Một trong các bên bị lừa dối, bị đe doạ, bị cưỡng ép trong quá trình xác
lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật”
Điều 10 Pháp lệnh Trọng tài cũng đã quy định:
“Thoả thuận trọng tài vô hiệu trong những trường hợp sau đây:
1. Tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại được quy định tại
khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh này;
2. Người ký thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết theo quy định của
pháp luật;
3. Một bên ký kết thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
4. Thoả thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh
chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các
bên không có thoả thuận bổ sung;
5. Thoả thuận trọng tài không được lập theo quy định tại Điều 9 của Pháp lệnh
này;
21
6. Bên ký kết thoả thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe doạ và có yêu càu tuyên bố
thoả thuận trọng tài vô hiệu; thời hiệu yêu cầu tuyến bố thoả thuận trọng tài
vô hiệu là sáu tháng, kể từ ngày ký kết thoả thuận trọng tài, nhưng phải trước
ngày Hội đồng Trọng tài mở phiên họp đầu tiên giải quyết vụ tranh chấp quy
định tại Điều 30 của Pháp lệnh này.”
Như vậy, đã có sự khác nhau giữa hai văn bản. Sau đây, tác giả sẽ phân tích
từng điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài để làm rõ những điểm mới được
quy định trong LTTTM.

2.1.1. Đối tượng của thỏa thuận trọng tài
Trọng tài là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh giữa
các bên. Khác với tòa án, trọng tài là một thiết chế tài phán tư, trọng tài không thể
giải quyết tất cả các loại tranh chấp mà chỉ giải quyết những vụ tranh chấp pháp luật
quy định. Trọng tài là một tổ chức phi Chính phủ, không phải là cơ quan xét xử của
Nhà nước, không mang quyền lực Nhà nước. Vì vậy, thẩm quyền của trọng tài là
thẩm quyền hạn chế so với tòa án. Trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết những
tranh chấp khi có thỏa thuận giữa các bên và tranh chấp đó thuộc thẩm quyền giải
quyết của trọng tài mà pháp luật quy định. Như vậy, thỏa thuận của các bên sẽ không
có ý nghĩa khi tranh chấp thỏa thuận đưa ra trọng tài giải quyết không thuộc thẩm
quyền của trọng tài theo quy định của pháp luật. Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài sẽ
phụ thuộc rất lớn vào đối tượng của thỏa thuận trọng tài. Vì thế, việc thỏa thuận giải
quyết bằng trọng tài những tranh chấp nằm ngoài thẩm quyền của trọng tài là một
trong những trường hợp vô hiệu của thỏa thuận trọng tài. Điều 2 LTTTM đã quy định
rõ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài là:
“1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương
mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng
tài”.
Đối tượng của thỏa thuận trọng tài có thể nói là vấn đề gây khá nhiều tranh cãi.
Quy định tại Điều 2 LTTTM là kết quả sau một quá trình dài tranh luận. Khoản 2
Điều 2 Pháp lệnh Trọng tài định nghĩa về thỏa thuận trọng tài như sau: “Thỏa thuận
trọng tài là thỏa thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh
chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại”. Rõ ràng, đối
tượng của thỏa thuận trọng tài là những tranh chấp trong hoạt động thương mại.
22
Chính vì vậy Khoản 1 Điều 10 Pháp lệnh đã quy định khi tranh chấp phát sinh không
thuộc hoạt động thương mại thỏa thuận trọng tài sẽ vô hiệu. Và Khoản 3 Điều 2 Pháp
lệnh đã quy định thế nào là hoạt động thương mại: “Hoạt động thương mại là việc

thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao
gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại;
ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài
chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách
bằng đường hàng không đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương
mại khác theo quy định của pháp luật”. Bằng phương pháp liệt kê, Pháp lệnh đã đưa
ra danh sách những hành vi nào là hành vi thương mại. Có thể thấy, đây là một danh
sách mở. Bởi, ngoài những hành vi được liệt kê còn có “các hành vi thương mại
khác theo quy định của pháp luật”. Ngoài ra, trong pháp luật hiện hành hoạt động
thương mại còn được quy định trong Luật Thương mại 2005. Khoản 1 Điều 3 Luật
Thương mại đã quy định như sau: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương
mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Như vậy, đã có sự khác nhau
trong cách quy định về hoạt động thương mại giữa hai văn bản. Về vấn đề này, hiện
có hai quan điểm:
Theo quan điểm thứ nhất thì Luật Thương mại quy định hoạt động thương mại
rộng hơn so với Pháp lệnh Trọng tài
17
. Các tác giả theo quan điểm này cho rằng Luật
Thương mại thừa nhận cả những chủ thể không có đăng ký kinh doanh nhưng tham
gia hoạt động có mục đích lợi nhuận thì tranh chấp giữa họ cũng được xem là tranh
chấp thương mại. Điều 2 Luật Thương mại đã quy định đối tượng áp dụng bao gồm:
Thương nhân hoạt động thương mại theo quy định tại Điều 1; tổ chức, cá nhân khác
hoạt động có liên quan đến thương mại; căn cứ vào các nguyên tắc của luật này,
Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng luật này đối với cá nhân hoạt động thương
mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh. Trong khi Pháp
lệnh Trọng tài chỉ thừa nhận giải quyết tranh chấp giữa các bên tranh chấp là cá nhân
kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh. Điều 2 Nghị định 25/2004 quy định rõ: “Trọng
tài thương mại có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động
thương mại quy định tại Khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh mà các bên tranh chấp là cá

nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh”. Ngoài ra, Luật Thương mại quy định bao
quát hơn vì bao gồm cả các tranh chấp giữa các thành viên của công ty với nhau; giữa
17
Lê Hồng Hạnh (2007), “Hoàn thiện pháp luật trọng tài trước yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số 6/2007), tr.5.
Nguyễn Thị Hoài Phương (2006), “Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ tố tụng trọng
tài thương mại”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (Số 3/2006), tr.32.
23
các thành viên của công ty với công ty phát sinh trong quá trình thành lập, hoạt động,
giải thể công ty; các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
Trong khi những loại tranh chấp này lại không nằm trong danh sách liệt kê tại Khoản
3 Điều 2 của Pháp lệnh.
Tuy nhiên, quan điểm thứ hai lại cho rằng khái niệm hoạt động thương mại quy
định trong Pháp lệnh Trọng tài có nội hàm rộng hơn trong Luật Thương mại
18
. Với
cách quy định mở như vậy, thì tất cả những gì quy định trong Luật Thương mại mà
không có trong danh sách được liệt kê trong Pháp lệnh Trọng tài đều thuộc phạm vi
điều chỉnh của Pháp lệnh vì đó là “các hành vi thương mại khác theo quy định của
pháp luật”.
Tác giả đồng ý với quan điểm thứ hai. Bởi danh sách liệt kê tại Khoản 3 Điều 2
Pháp lệnh rõ ràng là một danh sách mở. Tính mở của Pháp lệnh nên được hiểu là
ngoài các tranh chấp được liệt kê trong Pháp lệnh các bên cũng có thể đưa ra trọng tài
giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hành vi thương mại được quy định trong các
văn bản quy phạm pháp luật khác như Luật Thương mại, Luật Đầu tư, … mặc dù các
hành vi thương mại này không được liệt kê cụ thể trong Pháp lệnh. Do vậy, bất kỳ
quy định nào của pháp luật xác định lĩnh vực hoạt động là thương mại thì trọng tài
đều có thẩm quyền giải quyết. Mặt khác việc quy định về khái niệm hoạt động
thương mại trong Pháp lệnh là kết quả của việc tiếp thu Luật Mẫu UNCITRAL. Theo
Luật Mẫu UNCITRAL: “Thuật ngữ “thương mại” cần được giải thích theo nghĩa

rộng liên quan đến tất cả các vấn đề phát sinh từ các quan hệ có bản chất thương
mại, dù là quan hệ hợp đồng hoặc không phải là quan hệ hợp đồng. Những quan hệ
có bản chất thương mại bao gồm, nhưng không giới hạn bởi các giao dịch sau: giao
dịch thương mại để cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ; thoả thuận phân
phối, đại diện hoặc đại lý thương mại; hoa hồng; thuê mua; xây dựng công trình; tư
vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận thăm dò
hoặc khai thác; liên doanh và các hình thức hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh
khác; vận tải hàng hoá hoặc hành khách bằng đường hàng không; đường biển,
đường sắt hoặc đường bộ”. Như vậy có thể thấy, Pháp lệnh đưa ra cách quy định
tương đối rộng về hoạt động thương mại.
Tuy nhiên qua thực tiễn áp dụng đã phát sinh không ít rắc rối cho các chủ thể
tham gia hoạt động thương mại cũng như các chủ thể áp dụng pháp luật. Bởi có sự
quy định khác nhau về hoạt động thương mại trong các văn bản pháp luật khác nhau.
18
Đỗ Văn Đại (2007), “Giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học
pháp lý, (Số 6/2007).
24
Pháp lệnh Trọng tài được ban hành vào thời điểm Luật Thương mại 1997 vẫn còn
đang có hiệu lực. Pháp lệnh đã đưa ra khái niệm tương đối đầy đủ về hoạt động
thương mại. Rõ ràng, đây là khái niệm có nội hàm rộng hơn so với 14 hành vi thương
mại quy định tại Điều 45 Luật Thương mại 1997:
“Hành vi thương mại theo quy định của luật này bao gồm:
1. Mua bán hàng hóa;
2. Đại diện cho thương nhân;
3. Môi giới thương mại;
4. Ủy thác mua bán hàng hóa;
5. Đại lý mua bán hàng hóa;
6. Gia công trong thương mại;
7. Đấu giá hàng hóa;
8. Đấu thầu hàng hóa;

9. Dịch vụ giao nhận hàng hóa;
10. Dịch vụ giám định hàng hóa;
11. Khuyến mại;
12. Quảng cáo thương mại;
13. Trưng bày giới thiệu hàng hóa;
14. Hội chợ triển lãm thương mại”.
Từ thực tiễn áp dụng Luật Thương mại 1997 đã bộc lộ hạn chế khi quy định
phạm vi các hành vi thương mại quá hẹp. Điển hình là vụ tranh chấp hợp đồng giữa
hai công ty xây dựng Công ty Tyco Services Singapore PTE, LTD và Công ty
Leighton Contractors VN, LTD về hợp đồng xây dựng được ký kết năm 1995 về việc
xây dựng khu nghỉ mát tại miền Trung Việt Nam (Bản án số 02/PTDS ngày 21-1-
2003 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh)
19
.
Tranh chấp được đưa ra Trọng tài tại Queensland, Australia giải quyết và phán quyết
trọng tài sau đó đã được chuyển sang Việt Nam để đề nghị công nhận và cho thi
hành. Ngày 23/5/2002, Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh công
nhận phán quyết trọng tài. Nhưng Công ty Leighton đã có đơn kháng cáo Quyết định
sơ thẩm của tòa án với lý do là quan hệ hợp đồng trong vụ tranh chấp là quan hệ xây
19
Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải (2010), sđd, tr.244.
25

×