Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Báo cáo rà soát, đánh giá pháp luật môi trường đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.34 KB, 39 trang )

YÊU CẦU RÀ SOÁT, ĐÁNH GIÁ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP
LUẬT TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐẤT
I. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG VĂN
BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG THEO TỪNG THÀNH
PHẦN CỦA MÔI TRƯỜNG
1. Môi trường đất Việt Nam
1.1. Hiện trạng môi trường đất
Tài nguyên đất là thành phần quan trọng của môi trường, đất đai không chỉ
là tư liệu sản xuất nông, lâm nghiệp chủ yếu mà còn là cơ sở để phân bố các
ngành kinh tế quốc dân. Trong những công trình nghiên cứu khoa học về quan
hệ giữa tài nguyên đất với những thay đổi vĩ mô về môi trường, các chuyên gia
đều cảnh báo sự khan hiếm tài nguyên đất và hậu quả của việc suy thoái tài
nguyên đất ngày càng tăng, gây ảnh hưởng xấu đến loài người còn nhanh hơn
những tác động do biến đổi khí hậu.
Đánh giá đúng hiện trạng chất lượng đất và tình hình thoái hoá đất cùng với
hậu quả và các nguyên nhân là rất cần thiết nhằm đưa ra các chính sách, pháp
luật hợp lý để bảo vệ tài nguyên đất.
Việt Nam có diện tích đất tự nhiên hơn 33.169.000 ha, gồm 14 nhóm và
đơn vị phân loại đất. Đất đồng bằng gồm 7 triệu ha, trong đó 3,8 triệu ha “đất có
vấn đề”. Đất dốc khoảng 25 triệu ha, trong đó hơn 13 triệu ha đất thoái hoá
nghiêm trọng. Như vậy, diện tích đất có vấn đề về độ phì nhiêu và sức sản xuất
kém chiếm trên 50% diện tích đất tự nhiên.
Hiện nay, đất canh tác nông nghiệp ở nước ta ngày càng bị thu hẹp. Việt
Nam có bình quân diện tích đất nông nghiệp trên đầu người thuộc loại thấp nhất
trên thế giới (<0,15 ha/người). Đất Việt Nam hiện đang bị thoái hoá nghiêm
trọng bởi các điều kiện tự nhiên, các tác động của con người.
Các điều kiện tự nhiên. Những tác động tiêu cực chủ yếu là: mưa với
cường độ cao, tập trung vào mùa hè đẩy mạnh quá trình rửa trôi, xói mòn. Trong
điều kiện nhiệt đới ẩm gió mùa, đa số các loại đất của Việt Nam có phản ứng
chua, độ no bazơ thấp, dung tích hấp thu thấp, mất cân bằng dinh dưỡng. Ngập
1


úng, ngập lũ, mặn hóa, phèn hóa, xói lở bờ sông, biển phổ biến ở vùng đồng
bằng gây mất mát to lớn. Một số vùng đồi, núi bị khô hạn nghiêm trọng.
Diện tích đất bị xói mòn mạnh ở nước ta chiếm khoảng 17% diện tích tự
nhiên của cả nước và 25% diện tích đất đồi núi.
Các tác động từ phía con người. Nhiều hoạt động của con người trực tiếp
góp phần làm thoái hóa đất. Tình trạng du canh, độc canh, quảng canh, phá
rừng, canh tác không bền vững gây rửa trôi, xói mòn, cạn kiệt các chất dinh
dưỡng làm cho độ phì nhiêu đất bị suy giảm. Thoái hoá đất dẫn đến nhiều vùng
đất bị cằn cỗi không còn khả năng canh tác và làm tăng diện tích đất bị hoang
mạc hoá.
Một số nơi, như vùng ven biển và đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long
nước nhiễm mặn hoặc nhiễm phèn đã được sử dụng để tưới trong điều kiện thiếu
nước ngọt đã làm lây lan phèn mặn ra vùng đất không mặn. Việc khai thác các
nguồn nước mặt vùng ven biển quá mức làm cho mực nước sông, hồ hạ thấp và
sự xâm nhập mặn càng lấn sâu vào đất liền.
Trong nhiều trường hợp đất bị ô nhiễm do lạm dụng hóa chất, thuốc trừ sâu
trong nông nghiệp, canh tác không đúng kỹ thuật, sử dụng các loại phân khoáng
liên tục trong nhiều năm cũng làm cho đất bị thoái hóa và chai cứng. Nước thải và
các chất thải các khu công nghiệp, đô thị, hoạt động giao thông vận tải và từ các bãi
chôn lấp chất thải…. đã và đang làm cho tài nguyên đất ngày càng suy thoái.
Tình trạng dân số tăng nhanh dẫn đến diện tích đất canh tác trên đầu người
ngày càng giảm. Việc đưa dân miền xuôi lên khai hoang phát triển kinh tế ở
trung du và miền núi khi chưa có qui hoạch, kế hoạch và đầu tư đầy đủ đã gây
nên tình trạng chặt phá rừng đầu nguồn gây suy thoái môi trường đất.
Trong những năm gần đây diện tích một số cây trồng chuyên canh được mở
rộng phục vụ xuất khẩu với mục tiêu thương mại dẫn tới suy kiệt độ phì nhiêu
đất. Việc đầu tư thâm canh bón phân và chăm sóc, bảo vệ đất chưa được quan
tâm đầy đủ làm cho độ phì và sức sản xuất của đất dần bị suy giảm. Bên cạnh
đó, một số vùng đất bị ô nhiễm nặng, không còn khả năng canh tác do nhiễm
chất độc màu da cam, hậu quả của chiến tranh.

Hiện trạng ô nhiễm môi trường đất
2
Các nguồn gây ô nhiễm chủ yếu gây ô nhiễm đất là do sử dụng phân hóa
học, phân tươi, do hoá chất bảo vệ thực vật, do chất thải đô thị, khu công nghiệp,
các làng nghề
Lượng phân hữu cơ gia súc trong cả nước trong những năm gần đây
khoảng trên 70 triệu tấn/năm; lượng phân bắc hàng năm cũng lên tới 37 triệu
tấn/năm. Ngoài tác dụng tích cực làm phân bón cải tạo đất, lượng phân này cũng
gây ô nhiễm đáng kể đến môi trường đất, nước, không khí và ảnh hưởng đến sức
khỏe con người.
Nước thải từ các cơ sở, hộ sản xuất kinh doanh giầy, mạ kim loại, tái chế
phế thải, đồ gốm không được xử lý để chảy tự do ra sông ngòi, ao, hồ, đầm,
làm ô nhiễm nước mặt và nước ngầm. Nước thải bị nhiễm bẩn chứa nhiều hóa
chất độc hại và vi khuẩn.
Nhìn chung, thoái hóa đất diễn ra mạnh mẽ toàn qui mô hàng triệu ha với
các loại hình chủ yếu: xói mòn, rửa trôi, đất trượt, ngập lũ, lũ quét, sạt lở đất,
khô hạn, mặn hóa, phèn hóa, đất mất khả năng sản xuất và bị ô nhiễm.
1.2. Thực trạng chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường đất
Các quy định về bảo vệ môi trường đất được quy định trong hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật về đất đai, cùng với những quy định về khai thác,
quản lý và sử dụng tài nguyên đất. Tuy nhiên, với tư cách là luật chuyên ngành
về bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ môi trường cũng đã có những quy định về
bảo vệ môi trường đất, mặc dù những quy định này còn mang tính nguyên tắc
chung, mang tính định hướng hơn là tính quy phạm. Với ý nghĩa là thành phần
chủ yếu của môi trường sống, tài nguyên đất cùng các bộ phận khác của môi
trường cấu thành hệ thống hoàn chỉnh môi trường sống.
Như vậy, có thể nói, các quy định về bảo vệ môi trường đất được quy định
tương đối đầy đủ trong hai văn bản quy phạm pháp luật quan trọng đó là: Luật
Đất đai và Luật Bảo vệ môi trường.
2. Pháp luật về bảo vệ môi trường đất

Các quy định về bảo vệ môi trường đất hay còn gọi là chất lượng đất chủ
yếu được quy định trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai,
cùng với những quy định về khai thác, quản lý và sử dụng tài nguyên đất. Các
3
văn bản pháp luật có nội dung về bảo vệ tài nguyên đất khá phong phú bao gồm
hơn 400 văn bản (Danh mục văn bản)( trong đó có khoảng 214 văn bản pháp
luật điều chỉnh trực tiếp liên quan đến bảo vệ tài nguyên đất). Theo kết quả rà
soát thì có 212 Văn bản pháp luật điều chỉnh liên quan đến tài nguyên đất có
hiệu lực, 142 văn bản đã hết hiệu lực, còn lại một số văn bản hiện nay vẫn chưa
xác định về tính hiệu lực của văn bản.
Trên cơ sở pháp luật hệ thống pháp luật hiện hành điều chỉnh liên quan đến
tài nguyên đất có thể chia thành các nhóm cơ bản như sau:
- Hệ thống pháp luật văn bản điều chỉnh trực tiếp, liên quan đến tài nguyên đất:
+ Hệ thống pháp luật đất đai theo Luật Đất đai
+ Hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên môi trường theo Luật Bảo vệ tài
nguyên môi trường
+ Hệ thống pháp luật văn bản liên quan đến khai thác khoáng sản
+ Hệ thống pháp luật văn bản liên quan đến khai thác, sử dụng đất đất nông nghiệp
+ Hệ thống pháp luật văn bản liên quan đến khai thác, sử dụng đất đất Lâm
nghiệp: Tài nguyên rừng
+ Hệ thống pháp luật văn bản liên quan đến khai thác, sử dụng đất đất dưới nước
+ Hệ thống pháp luật văn bản liên quan sử dụng đất trong ngành xây dựng,
giao thông vận tải
Trên cơ sở những tiêu chí đó, Chúng tôi tiến hành rà soát, đánh giá hệ
thống pháp luật hiện hành ở những tiêu chí sau: Về số lượng, tính hiệu lực, tính
khả thi trên thực tế, sự chồng chéo, mâu thuẫn trong hệ thống, những phát hiện
này làm cơ sở đề chúng tôi kiến nghị và hoàn thiện hệ thống pháp luật về tài
nguyên đất – thành tố không thể thiếu đảm bảo cuộc sống của con người.
II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG ĐẤT

1. Những vấn đề bảo vệ môi trường trong quy định pháp luật Đất đai
a. Luật đất đai chưa chú trọng đến công tác bảo vệ môi trường
4
Luật Đất đai ban hành năm 2003 và có hiệu lực 2004, trong khi đó vấn đề
bảo vệ môi trường vẫn theo Luật Bảo vệ môi trường 1993 có nhiều bất cập. Luật
đất đai là luật chuyên ngành điều chỉnh các vấn đề liên quan đến các quy định
đất đai. Tuy nhiên, Luật mới chỉ dừng ở mức độ liên quan các quy định về giao
đất, cho thuê đất, chuyên mục đích sử dụng đất, thu hồi đất Vấn đề bảo vệ môi
trường đất chưa được quan tâm, luật đất đai mới chỉ dừng ở lại một số điểm sau:
-Việc lập quy hoạch sử dụng đất: Điều 14 Luật BVMT 2005 quy định
(Khoản 4): Dự án quy hoạch sử dụng đất; bảo vệ và phát triển rừng; khai thác và
sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên phạm vi liên tỉnh, liên vùng đều
phải làm thủ tục ĐMC.
-Việc lập các dự án phát triển kinh tế-xã hội, phải đảm bảo thủ tục đánh
giá tác động môi trường.
-Việc sử dụng đất cho từng loại hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,
sinh hoạt cũng phải tuân theo các yêu cầu bảo vệ môi trường nhất định trong
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005.
Tuy nhiên, các quy định cụ thể liên quan đến pháp luật cụ thể bảo vệ tài
nguyên đất, bảo vệ đất trong quá trình sử dụng đất chưa được đề cập đến ( phần
lồng ghép làm rõ thêm).
b. Công tác quy hoạch sử dụng đất còn nhiều bất cập đối với công tác môi trường
Thứ nhất, về quy hoạch sử dụng đất, Bộ TN&MT cho biết, nội dung quy
hoạch sử dụng đất đã được quy định tại Điều 23 của Luật Đất đai, Điều 12 và
Điều 14 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP. Quy định về nội dung quy hoạch sử
dụng đất tại các điều này được áp dụng cho tất cả các cấp lập quy hoạch. Việc
quy định nội dung quy hoạch sử dụng đất cả nước cũng tương tự như nội dung
quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh, cấp huyện là không hợp lý, dẫn tới hệ thống chỉ
tiêu quy hoạch sử dụng đất của cả nước quá chi tiết, vừa chưa phù hợp với nền
kinh tế thị trường, vừa hạn chế quyền chủ động của địa phương.

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 26 và khoản 4 Điều 27 của Luật
Đất đai, Chính phủ là cơ quan có thẩm quyền xét duyệt và điều chỉnh quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh. Tuy nhiên, việc ban hành nghị quyết xét duyệt,
điều chỉnh của Chính phủ đòi hỏi phải theo quy trình với thời gian khá dài, trong
5
khi nhiều trường hợp, nhất là những trường hợp điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất, đòi hỏi phải thực hiện nhanh, kịp thời.
Thứ hai, là việc sắp đặt tiến độ triển khai quy hoạch sử dụng đất theo thời
gian trong kỳ quy hoạch sử dụng đất. Nhưng khi triển khai trong thời gian qua
cho thấy, việc quyết định, xét duyệt kế hoạch sử dụng đất của các cơ quan có
thẩm quyền ở Trung ương (Quốc hội, Chính phủ) khó sát với diễn biến trong
quá trình thực hiện của địa phương.
Bất cập thứ ba là nội dung quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch về xây
dựng có mặt trùng lặp, chồng chéo, đặc biệt là trong khu vực đô thị và mối quan
hệ này chưa được xác định cụ thể
c. Quy hoạch sân golf, khu công nghiệp sử dụng đất chưa chú trọng
công tác bảo vệ môi trường
Hiện nay, mục tiêu phát triển kinh tế nhiều tỉnh đã đặt lợi ích kinh tế lên
hàng đầu đôi khi chấp nhận "bán môi trường" để kêu gọi đầu tư. Các dự án khu
công nghiệp, sân gôlf, lấy đất từ đất nông nghiệp thậm chí là đất tốt để thành lập
khu công nghiệp, sân golf thực tế sử dụng đất ở những sân golf cho thấy các sân
golf đề sử dụng lớn các loại hóa chất để nuôi cỏ và diệt trừ nấm, sâu bệnh các
loại hóa chất này thuộc nhóm hòa tan và ngấm theo nguồn nước sinh hoạt chung
của dân cư khu vực xung quanh dự án sân golf là một trong những nân tố có
nguy cơ gây ô nhiễm môi trường rất cao chưa được đánh giá cụ thể. Pháp luật
hiện nay, chưa có quy định cụ thể điều chỉnh trong hoạt động này. Một số dự án
sân golf, khu công nghiệp không có khu vực, công trình xử lý rác thải riêng.
Như vậy, khung pháp lý điều chỉnh các yếu tố như lập quy hoạch, cấp giấy
chứng nhận đầu tư, chưa có (quy hoạch sân golf) hoặc có nhưng không cụ thể
điều chỉnh các vấn đề ảnh hưởng đến môi trường tại khu vực này.

d. Vấn đề môi trường chưa được lồng ghép trong quá trình xây dựng
luật đất đai
Luật đất đai được xây dựng từ những năm 2003 và có hiệu lực năm 2004
trong khi đó luật bảo vệ môi trường được ban hành 2005. Trong khi đó vấn đề
môi trường vẫn chưa đề cập cụ thể trong luật đất đai. Đối với Luật môi trường
6
sau khi được ban hành và có hiệu lực, thì vấn đề bảo vệ được đặt ra xung quanh
luật môi trường bằng các hệ quả luật: Luật đa dạng sinh học,
- Còn nhiều loại quyết định liên quan đến sử dụng đất đai nhưng chưa có
sự lồng ghép hoặc mức độ lồng ghép còn chưa hợp lý: chẳng hạn các quyết định
về kế hoạch sử dụng đất, các quyết định về quy hoạch sử dụng đất ở cấp xã, cấp
huyện và cấp tỉnh, các quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển quyền
sử dụng đất (nhất là các quyết định liên quan đến cá nhân, hộ gia đình), các
quyết định về xử phạt, thu hồi đất.
- Một số quy định về lồng ghép nhưng chưa cụ thể hoặc chưa hợp lý:
chẳng hạn quy định về đánh giá môi trường chiến lược còn chưa làm rõ vai trò,
sự tham gia của cộng đồng dân cư (Điều 17 khoản 5 Luật BVMT 2005); các quy
định về đánh giá tác động môi trường cũng chưa làm rõ vai trò, sự tham gia của
cộng đồng dân cư (Điều 20 khoản 8 Luật BVMT 2005).
- Công tác tuyên truyền pháp luật về đất đai và môi trường cũng chưa có
sự lồng ghép hợp lý (chưa có kênh thông tin đơn giản, phù hợp về yêu cầu bảo
vệ môi trường đối với từng loại hoạt động sử dụng đất đến với từng nhóm chủ
thể sử dụng đất).
2. Giữa các văn bản luật về tài nguyên với Luật Bảo vệ môi trường còn
có sự trùng lặp
Pháp luật về đất đai chủ yếu điều chỉnh quan hệ khai thức, sử dụng đất ở
giá trị kinh tế của đất đai, với vai trò là thành phần của môi trường thì Luật đất
đai lại dẫn chiếu sang Luật Bảo vệ môi trường. Một số quy định về trách nhiệm
pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật về đất đai và môi trường của Luật đất
đai và môi trường có sự trùng lặp khiến cho việc áp dụng trên thực tế gặp khó

khăn. Giữa các Luật về tài nguyên và Luật Bảo vệ môi trường ngoài việc bổ
sung cho nhau và cũng không tránh khỏi những nội dung bị trùng lặp, chồng
chéo cần được nghiên cứu khắc phục kịp thời.
Với Luật Đất đai
Luật Đất đai hiện hành và Luật Bảo vệ môi trường cùng điều chỉnh các
mối quan hệ có liên quan trực tiếp đến việc khai thác, sử dụng, bảo vệ tài
nguyên đất, trong đó:
7
- Luật Đất đai chủ yếu điều chỉnh các quan hệ quản lý, sử dụng đất. Nghĩa
là, Luật Đất đai đề cập sâu hơn đến việc khai thác giá trị kinh tế của đất, quan
tâm nhiều hơn đến yếu tố tài sản trong quan hệ đất đai, quy định cụ thể các
quyền lợi và nghĩa vụ vật chất của người sử dụng đất.
- Luật Bảo vệ môi trường chủ yếu điều chỉnh quan hệ bảo vệ đất đai, đề cập
sâu hơn đến giá trị sinh thái của đất. Quy định cụ thể trách nhiệm của các chủ
thể trong việc phòng ngừa và ngăn chặn các tác động xấu của con người đối với
nguồn tài nguyên này.
Phần lớn các quy định của Luật Đất đai khi đề cập đến khía cạnh bảo vệ đất
với tư cách là thành phần môi trường đều dẫn chiếu sang các quy định của Luật
Bảo vệ môi trường, như "người sử dụng đất phải tuân thủ các quy định về bảo
vệ môi trường" tuy nhiên bảo vệ như thế nào, theo những tiêu chuẩn nào thì
chưa được quy định đầy đủ. Có một số quy định trong Luật Đất đai và Luật Bảo
vệ môi trường trùng lặp khiến cho quá trình áp dụng trên thực tế gặp khó khăn,
đặc biệt là các quy định về trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp
luật đất đai và pháp luật môi trường.
Với Luật Khoáng sản và Luật Dầu khí
So với các mối quan hệ giữa Luật Bảo vệ môi trường và Luật Đất đai, Luật
Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Tài nguyên nước, quan hệ giữa Luật Bảo vệ môi
trường với Luật Dầu khí, Luật Khoáng sản có một số nét khác biệt, thể hiện ở
một số điểm như sau:
Thứ nhất, khác với tài nguyên đất, nước, rừng, hệ sinh vật khoáng sản nói

chung, dầu khí nói riêng là nguồn tài nguyên hầu hết không tái tạo được và là tài
sản quan trọng, có giá trị rất lớn của mỗi quốc gia nên pháp luật về khoáng sản
và dầu khí vừa điều chỉnh hành vi khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguồn
tài nguyên này nhưng mặt khác lại khuyến khích phát triển công nghiệp khai
thác và chế biến khoáng sản để thu lại lợi ích kinh tế cho đất nước.
Thứ hai, hoạt động khoáng sản, hoạt động dầu khí có ảnh hưởng rất lớn đến
chất lượng môi trường xung quanh (môi trường đất, môi trường nước, môi
trường không khí). Do các hoạt động này thường được tiến hành trên quy mô
lớn, số lượng khai thác nhiều, thời gian hoạt động kéo dài, sử dụng nhiều
8
phương tiện và hóa chất trợ giúp nên phạm vi và mức độ ảnh hưởng tới các
thành phần môi trường đất, nước, không khí, hệ sinh vật thường nghiêm trọng,
hậu quả khó khắc phục. Bảo vệ, sử dụng có hiệu quả tài nguyên khoáng sản là
góp phần bảo vệ môi trường, môi sinh, đồng thời với góp phần phát triển kinh tế
- xă hội.
Cả ba văn bản nêu trên đều có một số quy định có nội dung giống nhau. Ví
dụ, tổ chức, cá nhân khi tiến hành hoạt động khoáng sản, hoạt động dầu khí phải
áp dụng công nghệ phù hợp, phải thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, có
phương án phòng tránh ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường
Cần thống nhất nguyên tắc trong mối quan hệ với các Luật về tài nguyên,
Luật Bảo vệ môi trường tồn tại với tư cách là luật chung, còn các Luật về tài
nguyên tồn tại với tư cách là luật chuyên ngành, do vậy, để đảm bảo tính
"chuyên biệt" trong quá trình điều chỉnh pháp luật, đồng thời đảm bảo tính thống
nhất của hệ thống pháp luật về bảo vệ các nguồn tài nguyên và môi trường, khắc
phục tình trạng trùng lặp các quy định như đă nêu trên, "ranh giới" điều chỉnh
pháp luật giữa các Luật về tài nguyên và Luật Bảo vệ môi trường cần được xác
định như sau:
Với Luật Bảo vệ và Phát triển rừng
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng và Luật Bảo vệ môi trường có chung đối
tượng điều chỉnh là các quan hệ có liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ tài

nguyên rừng (bao gồm các loài động vật rừng, thực vật rừng), trong đó:
- Luật Bảo vệ và Phát triển rừng chủ yếu đề cập đến các quyền và lợi ích về
tài sản của chủ rừng, nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong việc phòng chống
cháy rừng, phòng chống sâu bệnh, phòng ngừa hành vi gây hại rừng.
- Luật Bảo vệ môi trường đề cập sâu hơn đến khía cạnh bảo vệ tính đa dạng
sinh học của nguồn tài nguyên, quan tâm nhiều hơn đến việc bảo tồn các nguồn
gen, giống, loài, đặc biệt là thực vật rừng, động vật rừng hoang dã, quý hiếm và
các hệ sinh thái đặc thù.
Có khá nhiều quy định trong Luật Bảo vệ và Phát triển rừng và Luật Bảo
vệ môi trường có nội dung trùng lặp với nhau. Cụ thể:
9
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng quy định trách nhiệm phòng chống các hành
vi gây thiệt hại đến rừng, như nghiêm cấm mọi hành vi phá rừng, đốt rừng, lấn
chiếm rừng, khai thác, mua bán, vận chuyển lâm sản, săn bắt động vật rừng,
chăn thả gia súc vŕo rừng trái quy định của pháp luật; phòng cháy, chữa cháy
rừng Luật Bảo vệ môi trường cũng có các quy định về nghiêm cấm đốt phá
rừng; nghiêm cấm khai thác, kinh doanh các loại thực vật, động vật quý hiếm.
Cả hai đạo luật đều quy định xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm
về khai thác, kinh doanh động thực vật quý hiếm thuộc danh mục quý hiếm,
song mức xử phạt lại khác nhau.
3. Các văn bản về bảo vệ môi trường đất còn chưa đầy đủ
3.1. Pháp luật đất đai hiện nay tuy đã có một số quy định về việc sử dụng
đất nông nghiệp liên quan đến việc bảo vệ môi trường, tuy nhiên, nhũng quy
định đó mới chỉ dừng lại ở việc bảo vệ và làm tăng độ mầu của đất, còn các quy
định mang tính chế tài đối với việc sử dụng hóa chất bừa bãi gây ô nhiễm đất,
nguồn nước trong sản xuất nông nghiệp thì chưa được quy định. Điều này
chứng tỏ vấn đề bảo vệ môi trường trong sử dụng đát nông nghiệp chưa được
coi trọng. Trong khi đó thì môi trường sống ở khu vực nông thôn ngày càng bị ô
nhiễm do pháp luật chưa có các quy định về quy hoạch đất đai để xây dựng các
bãi xử ly rác thải sinh hoạt, việc hạn chế sử dụng các sinh hoá phẩm độc hại đối

với sản xuất nông nghiệp. Rác thải sinh hoạt được vứt bãi, tuỳ tiện đã gay ô
nhiễm nguồn nước công cộng, gây ô nhiễm đất sản xuất và làm mất mỹ quan
cho khu vự nông thôn
3.2. Pháp luật đât đai hiện hành chưa có các quy định về sử dụng đất liên
quan đến việc bảo vệ môi trường tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
công nghệ cao. Điều này chưa đáp ứng với đòi hỏi của thực tiễn. Thực tế cho
thấy, các khu chế xuất, khu công nghệ là nơi tập trung nhiều các nhà máy, cơ sở
sản xuât-kinh doanh. Hoạt động của các cơ sở này dễ gây ảnh hưởng đến môi
trường xung quanh, do nước thải, chất thải công nghiệp, bụi, khóiv.v thải vào
môi trường. Nếu không quy định việc quy hoạch đất đai để xây dựng các công
trình xử ly chất thải thì dẫn đến tình trạng vì mục đích lợi nhuận mà các nhà sản
xuất sẽ bỏ qua việc xử ly chất thải trước khi thải ra môi trường công cộng. Hậu
quả là môi trường xung quanh quanh sẽ bị ô nhiễm. đó làchưa kể đến việc nhiều
10
nhà đầu tư nhập hoặc đưa những công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường
vào hoạt động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ gây ảnh hưởng xấu và
lâu dài đối với môi trường ở nước ta. Hiện nay, Bộ Tài nguyên Môi trường đã
ban hành Thông tư 08/2009/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy
định quản lý và bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghệ cao, khu công
nghiệp và cụm công nghiệp. Tuy nhiên, về nội dung, Thông tư 8/2009/TT-
BTNMT không có gì mới, mà chỉ là hướng dẫn, tập hợp các chỉ dẫn, căn cứ áp
dụng đối với yêu cầu bảo vệ môi trường tại các khu vực và đối tượng chịu điều
chỉnh của thông tư. Và điều này không khỏi nảy sinh câu hỏi, tại sao phải ban
hành hẳn một thông tư về bảo vệ môi trường, với nội dung nhắc lại những quy
định vốn dĩ đã rất nhiều (nếu không nói là đang thừa) cũng về bảo vệ môi trường
? trong khi đó những quy định cần quy định cụ thể liên quan đến sử dụng đất
như thế nào? quy hoạch sử dụng đất ra làm sao? xử lý như thế nào đối với khu
công nghiệp đã san lấp lấy đất nông nghiệp tốt để làm khu công nghiệp nay khu
công nghiệp đó không được triển khai thì cách khắc phục như thế nào? để bảo
vệ tài nguyên đất và sử dụng đất sao cho hiệu quả thì không được quy định ở

đâu.
1
Kinh nghiệm các nước như Singapo cho thấy có sự thiết lập các khu vực
dành cho công nghiệp nặng, công nghiệp vừa và công nghiệp làm sạch được
phân ranh giới, với quy chế pháp lý và yêu cầu bảo vệ môi trường đất rất rõ
ràng. Có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Môi trường và các cơ quan liên quan như
Uỷ ban tái phát triển đô thị và Cục kiểm soát xây dựng.
3.3. Pháp luật đất đai hiện hành chưa có các quy định đầy đủ về quy
hoạch đất đai nhằm tập trung các làng nghề thủ công truyền thống ở khu vực
nông thôn nhằm bảo vệ môi trường. Kể từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế
thị trường thì các làng nghề thủ công truyền thống trước đây bị mai một, nay đã
được khôi phục lại và có cơ hội phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh những mặt tích
cực của việc phát triển các ngành, nghề thủ công truyền thống ở nông thôn (như
giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao mức thu nhập cho người dân
nông thôn và đóng góp cho ngân sáchnhà nướcv.v ), thì tình trạng này cũng gây
ra những hậu quả xấu đối với môi trường. đó là vấn đề ô nhiễm môi trường đất,
1
/>11
nước ở khu vực nông thôn do nước thải, chất thải của các cơ sở sản xuất này gây
ra. Tình trạng đáng đáng báo động này, đòi hỏi pháp luật phải có các quy định
về quy hoạch đát đai cho các làng nghề thủ công truyền thống ở khu vực nông
thôn nhằm không gây hậu quả xấu đối với môi trường. Luật bảo vệ môi trường
năm 2005 mới đưa ra nguyên tắc chung về bảo vệ môi trường làng nghề tại Điều
38 nhưng pháp luật đất đai hiện hành lại chưa có các quy định cụ thể về vấn đề này.
3.4. Pháp luật hiện hành mới chỉ quy định việc xử phạt hành chính đối với
hành vi làm giảm khả năng sản xuất của đất nông nghiệp, mà chưa có các quy
định về sử phạt hành chính đối với hành vi gây suy thoái, ô nhiễm khi sử
dụng các loại đất khác.
3.5. Theo quy định pháp luật hiện hành, việc thực hiện trách nhiệm bảo vệ
môi trường còn bị chia cắt theo địa giới hành chính từng tỉnh, trong khi đó cùng

với tài nguyên sinh vật và con người, môi trường là một bộ phận cấu thành của
hệ sinh thái, phân bố trên lãnh thổ mang tính địa lý. Muốn quản lý bảo vệ môi
trường đất, nước và không khí một cách hiệu quả, không chỉ quản lý chia cắt
theo địa giới hành chánh mà cần phải tiếp cận một cách tổng thể, toàn cục và có
chiến lược bảo vệ trên qui mô toàn lưu vực sông, toàn khu vực rừng. Pháp luật
còn thiếu các quy định về phối hợp với các tỉnh thành cùng giải quyết những
vấn đề liên quan đến xử lý rác thải nguy hại, xử lý hậu quả của chất độc hoá
học; chia sẻ nguồn thông tin cơ sở dữ liệu môi trường tài nguyên
3.6. Pháp luật về tài nguyên khoáng sản chưa quy định về một số vấn đề
đã nảy sinh từ thực tiễn như vấn đề khai thác cát sỏi, lòng sông làm vật liệu xây
dựng, về quyền lợi của chủ mỏ khi thu hồi giấy phép để sử dụng diện tích mỏ
vào mục đích công cộng, chính sách về nghĩa vụ của các doanh nghiệp có hoạt
động khoáng sản đối với địa phương…
Bên cạnh đó, pháp luật về tài nguyên khoáng sản chưa có cơ sở về định
mức, đơn giá để lập dự toán thu bổ sung từ ngân sách trung ương và dự toán chi
cho việc bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai thác. Thông tư số
105/2005/TT-BTC ngày 30/11/2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 137/2005/NĐ-CP ngày 09/11/2005 của Chính phủ về phí bảo vệ
môi trường đối với khai thác khoáng sản mới chỉ quy định "Phí bảo vệ môi
trường đối với khai thác khoáng sản là khoản thu ngân sách địa phương hưởng
12
100% (một trăm phần trăm) để hỗ trợ cho nguồn kinh phí thực hiện công việc
bảo vệ môi trường tại địa phương nơi có hoạt động khai thác khoáng sản"
2

chưa có cơ sở về định mức, đơn giá để lập dự toán thu bổ sung từ ngân sách
trung ương và dự toán chi cho việc bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai
thác.
Các chính sách trong khảo sát, thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản
chưa được quy định hợp lý và chi tiết để khuyến khích đầu tư hoạt động khoáng

sản, phát triển công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản nhằm bảo vệ, sử dụng
hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản của đất nước.
Chưa quy định cụ thể điều kiện hoạt động khoáng sản gắn với yêu cầu sử dụng
hợp lý, tiết kiệm tài nguyên khoáng sản. Cấn đề này cần được quy định bổ sung
vào Điều 6 Luật Khoáng sản.
Quyền lợi của nhân dân địa phương nơi có khoáng sản được khai thác, chế
biến chưa được quy định rõ, bởi vậy Khoản 1 - Điều 7 cần bổ sung quy định cụ
thể về tỷ lệ Nhà nước dành nguồn thu ngân sách từ hoạt động khoáng sản cho
việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội tại địa bàn có khoáng sản
được khai thác, chế biến nhằm gắn quyền lợi của địa phương có khoáng sản với
việc bảo vệ tài nguyên khoáng sản, hạn chế khai thác trái phép; bỏ quy định về
việc tạo điều kiện ổn định sản xuất và đời sống cho bộ phận nhân dân nơi có
khoáng sản được khai thác, chế biến phải thay đổi nơi cư trú, sản xuất vì vấn đề
này đã được quy định trong pháp luật về đất đai.
3.7. Về việc quản lý đất ngập nước ở Việt Nam: Hệ thống quản lý đất ngập
nước ở nước ta có nhiều bất cập và thách thức lớn, chúng ta chưa có luật riêng
về đất ngập nước. Sau 15 năm gia nhập Công ước Ramsar về các vùng đất ngập
nước, Việt Nam có nhiều nỗ lực trong việc triển khai các hoạt động như nghiên
2
"Mục II.3. Quản lý, sử dụng tiền phí thu được
a) Phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản là khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100% (một
trăm phần trăm) để hỗ trợ cho nguồn kinh phí thực hiện công việc bảo vệ môi trường tại địa phương nơi có hoạt
động khai thác khoáng sản, theo các nội dung cụ thể sau đây:
- Phòng ngừa và hạn chế các tác động xấu đối với môi trường tại địa phương nơi có hoạt động khai thác khoáng
sản;
- Khắc phục suy thoái, ô nhiễm môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản gây ra;
- Giữ gìn vệ sinh, bảo vệ và tôn tạo cảnh quan môi trường tại địa phương nơi có hoạt động khai thác khoáng
sản.
b) Việc lập dự toán, cấp phát và quyết toán nguồn thu phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản để chi
cho các nội dung nêu tại điểm a mục này được thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và

pháp luật về ngân sách nhà nước hiện hành"
13
cứu, kiểm kê, xây dựng các công cụ và kỹ thuật khác nhau nhằm mục đích bảo
tồn, sử dụng và quản lý đất ngập nước. Tuy nhiên, những cố gắng này chưa đáp
ứng được yêu cầu sử dụng khôn khéo, phát triển và bảo tồn bền vững đất ngập
nước. Chất lượng môi trường và hệ sinh thái đất ngập nước ven đô thị, khu công
nghiệp, vùng nuôi trồng thuỷ sản và sản xuất lúa nước, v.v , đang bị suy thoái
mạnh, đa dạng sinh học cũng có dấu hiệu suy giảm, v.v Không ít vùng đất
ngập nước bị coi là đất hoang hoá, bị chiếm dụng thành đất nông nghiệp, đất ở,
đô thị hoặc khu công nghiệp khiến cho diện tích đất có giá trị này ngày càng bị
thu hẹp, tài nguyên suy giảm, môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Tình trạng trên, là hệ quả tất yếu của việc quản lý đất ngập nước ở nước ta
chưa được tiến hành một cách đồng bộ, thiếu các quy định về quản lý, bảo tồn,
sử dụng khôn khéo và phát triển bền vững, thiếu những quy định rõ ràng về hệ
thống quản lý nhà nước, thiếu sự thống nhất về cơ chế phối hợp giữa các bộ,
ngành, địa phương, cũng như thiếu các chế tài cần thiết trong các hoạt động liên
quan đến đất ngập nước.
Đặc biệt, cho đến thời điểm này, Việt Nam chưa có luật riêng phù hợp với
đặc thù của loại hình đất ngập nước trong khi các văn bản liên quan chưa bao
quát toàn diện các vấn đề đặt ra đối với quản lý và bảo tồn loại đất này. Các văn
bản chủ yếu mới chỉ đề cập đến phân hạng và phân cấp quản lý các khu đất ngập
nước, các khía cạnh kinh tế, các giải pháp thiên bảo vệ.
Trước thực trạng và những thách thức lớn trong việc quản lý đất ngập
nước, cần xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về bảo tồn và phát triển
bền vững đất ngập nước, nâng cao hiệu quả và hiệu lực của hệ thống thể chế
quản lý về đất ngập nước, tăng cường nâng cao nhận thức, giáo dục đào tạo về
đất ngập nước, v.v
3.8. Điều 114 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định về ký quỹ cải
tạo, phục hồi môi trường trong hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên cụ thể
như sau: “Tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên thiên nhiên phải thực hiện ký

quỹ cải tạo, phục hồi môi trường theo các quy định sau đây: a) Trước khi khai
thác phải thực hiện việc ký quỹ tại tổ chức tín dụng trong nước hoặc quỹ bảo vệ
môi trường của địa phương nơi có khai thác tài nguyên thiên nhiên; mức ký quỹ
phụ thuộc vào quy mô khai thác, tác động xấu đối với môi trường, chi phí cần
14
thiết để cải tạo, phục hồi môi trường sau khai thác; b) Tổ chức, cá nhân ký quỹ
được hưởng lãi suất phát sinh, được nhận lại số tiền ký quỹ sau khi hoàn thành
cải tạo, phục hồi môi trường; c) Tổ chức, cá nhân không thực hiện nghĩa vụ cải
tạo, phục hồi môi trường hoặc thực hiện không đạt yêu cầu thì toàn bộ hoặc một
phần số tiền ký quỹ được sử dụng để cải tạo, phục hồi môi trường nơi tổ chức,
cá nhân đó khai thác.
Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể mức ký quỹ cải tạo, phục hồi môi
trường đối với từng loại hình tài nguyên và việc tổ chức thực hiện quy định tại
Điều này”.
Hiện tại, việc ký qũy phục hồi môi trường mới chỉ được áp dụng cho hoạt
động khoáng sản theo quy định tại Nghị định 160/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Khoáng sản. Điều 35 Nghị định này quy định: “Tổ
chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản phải ký quỹ phục hồi môi trường
và đất đai tại Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam.
Mức tiền ký quỹ để phục hồi môi trường và đất đai căn cứ vào quy trình,
tiến độ khai thác, phục hồi và dự toán chi phí phục hồi môi trường và đất đai
xác định trong báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế mỏ và báo cáo đánh giá tác
động môi trường hoặc bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phê duyệt hoặc xác nhận theo quy định của pháp luật
về bảo vệ môi trường.
Tiền ký quỹ được tính lãi suất như đối với tiền gửi không kỳ hạn của Quỹ
bảo vệ môi trường Việt Nam.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn
thủ tục đăng ký, quản lý, sử dụng tiền ký quỹ để phục hồi môi trường trong khai

thác khoáng sản”.
Hiện nay, Quy định về môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản
- Ngày 29/5/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
71/2008/QĐ-TTg về ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai
thác khoáng sản.
15
Theo đó, số tiền kỹ quỹ tối thiểu phải bằng chi phí thực tế để cải tạo, phục
hồi môi trường sau khai thác khoáng sản. Việc nhận ký quỹ của các tổ chức, cá
nhân được phép khai thác khoáng sản sẽ do Quỹ bảo vệ môi trường đảm trách.
Khoản tiền ký quỹ được tính toán căn cứ vào quy mô khai thác, tác động
xấu đến môi trường, đặc thù của vùng mỏ sau khai thác, chi phí cần thiết để cải
tạo, phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản. Nguyên tắc tính toán số tiền
ký quỹ là dựa trên cơ sở dự báo tác động xấu nhất tới môi trường sinh thái do
hoạt động khai thác khoáng sản gây ra.
Trường hợp giấy phép khai thác khoáng sản có thời hạn khai thác dưới 3
năm phải thực hiện ký quỹ 1 lần. Mức tiền ký quỹ bằng 100% dự toán tổng chi
phí phục hồi môi trường. Đối với giấy phép khai thác khoáng sản có thời hạn từ
3 năm trở lên thì được phép ký quỹ nhiều lần. Trong trường hợp được ký quỹ
nhiều lần, tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản có thể lựa chọn việc ký quỹ 1
lần toàn bộ số tiền ký quỹ cho suốt thời hạn khai thác khoáng sản.
Tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản phải thực hiện ký quỹ lần
đầu tiên 30 ngày trước khi bắt đầu tiến hành hoạt động khai thác khoáng sản .
Các tổ chức, cá nhân đang khai thác khoáng sản mà chưa ký quỹ phải hoàn
thành việc này trước 31/12/2008.
Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản không thực hiện việc ký quỹ sẽ bị
đình chỉ hoạt động hoặc thu hồi giấy phép, đồng thời tiến hành xử phạt vi phạm
hành chính và tổ chức, cá nhân này phải chịu trách nhiệm khắc phục các hậu quả
gây ra đối với môi trường theo quy định của pháp luật.
Bãi bỏ Thông tư số 126/1999/TTLT/BTC-BCN-BKHCNMT ngày
22/10/1999 hướng dẫn việc ký quỹ để phục hồi môi trường trong khai thác

khoáng sản (vốn được ban hành dựa trên Nghị định 68/CP ngày 1/11/1996 đã bị
thay thế bởi Nghị định 160/2005/NĐ-CP). Tuy nhiên, đây chỉ là văn bản quy
định về ký quỹ trong hoạt động khai thác khoáng sản, còn các loại tài nguyên
khác chưa quy định mà Đất cũng là tài nguyên khi các chủ đầu tư sử dụng cũng
phải ký quỹ để đảm bảo sử dụng đúng mục đích hiệu quả và không hủy hoại ô
nhiễm đất.
16
4. Giữa các văn bản về bảo vệ môi trường đất còn có sự mâu thuẫn,
chồng chéo
4.1. Pháp luật hiện hành quan niệm về đất có mặt nước được sử dụng vào
mục đích nuôi trồng thuỷ sản cũng chưa có sự thống nhất trong các văn bản.
Theo công ước Ramsar ngày 02/02/1971thì đất vùng ngập mặn được hiểu là
những vùng đất ngập nước, sình lầy, đất than bùn hoặc vùng nước tự nhiên hoặc
nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời, nước đọng hay nước chảy, nước ngọt hay
lợ hay mặn, kể cả vùng nước biển có độ sâu không quá 6 mét khi thuỷ triều thấp
và như vậy nó bao gồm cả đất nuôi trồng thuỷ sản. Nhưng theo Điều 13 Luật
Đất đai năm 2003 thì căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, đất đai được phân
thành ba nhóm: Nhóm đất nông nghiệp
3
; Nhóm đất phi nông nghiệp và Nhóm
đất chưa sử dụng. Theo đó, đất có mặt nước sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản
thuộc loại đất nông nghiệp và theo Điều 78 và Điều 79 Luật đất đai năm 2003
thì có hai loại đất được sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản là đất có mặt nước nội
địa và đất có mặt nước ven biển. Về điều kiện tự nhiên, đất có mặt nước nuôi
trồng thuỷ sản thường nằm ở vị trí gắn liền với vấn đề quốc phòng, an ninh như
biên giới biển, về sinh thái môi trường, du lịch, giao thông đường thuỷ, khai thác
khoáng sản,dầu khí Tuy nhiên,pháp luật hiện hành lại chưa có các quy định cụ
thể về việc sử dụng loại đất này nhằm đảm bảo khai thác giá trị kinh tế của loại
đất này mang lại, vừa không gây ô nhiễm môi trường.
4.2. Quy định về thủ tục cho thuê đất để khai thác khoáng sản có sự mâu

thuẫn: Điều 89 Khoản 3 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP quy định UBND cấp có
thẩm quyền cho thuê đất và có thẩm quyền cấp phép thăm dò, khai thác khoáng
sản, việc cấp phép được thực hiện đồng thời với quyết định cho thuê đất
4
.
Nhưng tại Điều 125 về trình tự, thủ tục san lấp cho thuê đất lại quy định: Dự án
thăm dò khai thác khoáng sản phải có giấy phép kèm theo bản đồ thăm dò khai
3
Bao gồm các loại đất: a) Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng
cây hàng năm khác; b) Đất trồng cây lâu năm; c) Đất rừng sản xuất; d) Đất rừng phòng hộ; đ) Đất rừng đặc
dụng; e) Đất nuôi trồng thủy sản; g) Đất làm muối; h) Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ;
4
Điều 89 khoản 3 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP "Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho thuê đất và có thẩm
quyền cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản thì việc cấp phép được thực hiện đồng thời với việc quyết định
cho thuê đất.Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho thuê đất mà không có thẩm quyền cấp phép
thăm dò, khai thác khoáng sản thì việc quyết định cho thuê đất được thực hiện sau khi người có nhu cầu sử dụng
đất đã được cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản".
17
thác mỏ. Có nghĩa là giấy phép thăm dò khai thác khoáng sản phải có trước
quyết định cho thuê đất là điều kiện bắt buộc để cho thuê đất
5
.
4.3. Quy định về tiêu chuẩn môi trường đất chưa thống nhất
Quyết định số 35/2002/QĐ-BKHCNMT ngày 25/6/2002 của Bộ trưởng Bộ
Khoa học, Công nghệ và Môi trường về việc công bố Danh mục tiêu chuẩn Việt
Nam về môi trường bắt buộc áp dụng có phân các tiêu chuẩn môi trường Việt
Nam thành 5 nhóm trong đó Nhóm 4 là Tiêu chuẩn về chất lượng đất, gồm có 1
tiêu chuẩn: Giới hạn tối đa cho phép của dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật
trong đất.(Hiện nay Bộ Tài nguyên đã ban hành Quyết định 22/2006/QĐ-
BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc bắt buộc áp dụng tiêu chuẩn

Việt Nam về môi trường. Tuy nhiên, Quyết định này chưa quy định về tiêu
chuẩn trong môi trường đất).
Trong khi đó, Điều 10 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định hệ
thống tiêu chuẩn môi trường quốc gia gồm có tiêu chuẩn về chất lượng môi
trường xung quanh và tiêu chuẩn về chất thải. Nhóm tiêu chuẩn về chất lượng
môi trường xung quanh bao gồm có 5 loại tron đó c ótiêu chuẩn môi trường đối
với đất phục vụ cho các mục đích về sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản
và mục đích khác.
Như vậy, cách phân loại và thiết kế hệ thống tiêu chuẩn về môi trường
trong Luật Bảo vệ môi trường có nhiều điểm khác biệt với cách phân loại và
thiết kế hệ thống tiêu chuẩn môi trường đã Quyết định 35/2002/QĐ-
BKHCNMT. Chính vì thế, khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có hiệu lực,
các quy định về tiêu chuẩn môi trường trong Quyết định 35/2002/QĐ-
BKHCNMT cần có sự sửa đổi, bổ sung cho đảm bảo tính thống nhất của hệ
thống pháp luật.
4.4. Cùng hành vi tương tự nhau nhưng mức xử phạt quy định khác nhau
trong các văn bản khác nhau:
5
Điều 125 khoản 2 điểm d Nghị định số 181/2004/NĐ-CP: "Sau khi có văn bản thoả thuận địa điểm hoặc văn
bản cho phép đầu tư hoặc văn bản đồng ý cho xây dựng công trình của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên
địa điểm đã được xác định, người xin giao đất, thuê đất nộp hai (02) bộ hồ sơ tại Sở Tài nguyên và Môi trường
nơi có đất; hồ sơ gồm có: ; d) Trường hợp dự án thăm dò, khai thác khoáng sản phải có giấy phép kèm theo
bản đồ thăm dò, khai thác mỏ; trường hợp sử dụng đất vào mục đích sản xuất gạch ngói, làm đồ gốm phải có
quyết định hoặc đăng ký kinh doanh sản xuất gạch ngói hoặc dự án đầu tư được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xét duyệt";
18
Theo Nghị định 182/2004/NĐ-CP quy định về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai nhưng các hành vi gây ô nhiễm môi trường đất chưa được
quy định rõ ràng cụ thể mà chỉ quy định chung chung là gây ô nhiễm môi trường
đất. Ngòai ra, mức xử phạt cao nhất theo quy định của Nghị định 182/2004/NĐ-

CP chỉ là 30.000.000 đồng là mức quá thấp trong khi Nghị định 81/2006/NĐ-CP
quy định mức xử phạt cao nhất là 500.000.000 đồng.
Mặt khác, quy định hạn mức trong văn bản Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính 2008 thì : Phạt tiền tối đa đến 500.000.000 đồng được áp dụng đối với
hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: bảo vệ môi trường; chứng
khoán; xây dựng; đất đai; ngân hàng; sở hữu trí tuệ; quản lý rừng, bảo vệ rừng
và quản lý lâm sản; nghiên cứu, thăm dò và khai thác nguồn lợi hải sản, dầu khí
và các loại khoáng sản khác. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là biện pháp khắc phục hậu
quả, khôi phục hiện trạng ban đầu là vấn đề đang được xác hội quan tâm. Trong
khi đó vấn đề này chưa được quy định cụ thể về cách thức, biện pháp, giám sát,
nghiệm thu đối với lĩnh vực môi trường.
5. Các văn bản về bảo vệ môi trường đất còn chưa phù hợp dẫn đến
những khó khăn trong quá trình áp dụng
* Điều 89, Điều 90 Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn
thi hành Luật Đất đai năm 2003 quy định: Mọi dự án khai thác khoáng sản, khai
thác nguyên liệu cho sản xuất gạch ngói, làm đồ gốm đều phải thuê đất
6
. Trên
thực tế, nhà đầu tư đã phải chi trả một khoản tiền để bồi thường giải phóng mặt
bằng, hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người sử dụng đất hợp pháp,
nhưng sau đó đất này trở thành đất Nhà nước và doanh nghiệp phải thuê lại. Nếu
ở khu vực đất này có những loại khoáng sản có giá trị kinh tế cao, thời gian khai
thác lâu dài, doanh nghiệp mới dám bỏ vốn đầu tư khai thác. Đối với những loại
khoáng sản có giá trị thấp như vật liệu san lấp hoặc có trữ lượng ít và thời gian
khai thác ngắn, không doanh nghiệp nào dám bỏ tiền ra đầu tư khai thác các mỏ
trong quy hoạch, vì sẽ dẫn đến thua lỗ.
* Về ký quỹ phục hồi môi trường được quy định tại Điều 15 Luật Khoáng
sản, điều 30 Nghị định 76/2000/NĐ-CP của Chính phủ, nay là Điều 35 Nghị
6
Điều 89 Khoản 1 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP "Tổ chức, cá nhân được phép thăm dò, khai thác khoáng sản

được Nhà nước cho thuê đất; trường hợp thăm dò khoáng sản không ảnh hưởng đến việc sử dụng đất hoặc khai
thác khoáng sản mà không ảnh hưởng lớp đất mặt hoặc không ảnh hưởng đến mặt đất thì không phải thuê đất"
19
định số 160/2005/NĐ-CP ngày 27-12-2005
7
, khó khăn trong việc ký quỹ là xác
định chính xác số tiền ký quỹ đối với từng loại hình khai thác. Bộ Khoa học
Công nghệ và Môi trường đã có công văn số 832 ngày 8/4/2002 về việc tính chi
phí phục hồi môi trường trong khai thác mỏ lộ thiên, nhưng nhiều định mức,
nhiều công thức tính theo hướng dẫn của công văn 832 chưa được ban hành
hoặc không có các định mức tương tự để vận dụng. Vì vậy nhiều ý kiến cho rằng
để việc kỹ quỹ phục hồi môi trường được thực thi, cần sớm ban hành các quy
định và cách tính đơn giản, thuận lợi phù hợp với thực tế, góp phần làm giảm
thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản gây ra.
* Quy định về chi phí thăm dò trong nội dung đề án thăm dò khoáng sản
không phù hợp với cơ chế thị trường và quyền tự chủ về tài chính của doanh
nghiệp; quy định về việc tổ chức được phép thăm dò trong trường hợp chi phí
thực tế thấp hơn mức chi phí tối thiểu do Chính phủ quy định thì phải nộp phần
chênh lệch đó vào ngân sách nhà nước là không còn phù hợp. Điều 28 Luật
Khoáng sản cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định về đề án thăm dò
khoáng sản; bỏ quy định về chi phí thăm dò tối thiểu vì không phù hợp với cơ
chế kinh tế thị trường và quyền tự chủ về tài chính của các doanh nghiệp.
* Chính sách thuế tài nguyên chưa khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư
chiều sâu đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mặt
hàng và làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Trong quy định về thuế tài nguyên
khoáng sản chỉ mới quy định về nguyên tắc tính thuế, chưa có quy định về chính
sách miễn giảm thúê tài nguyên khoáng sản. Điều 34 Luật Khoáng sản cần được
bổ sung quy định về việc ưu đãi, miễn giảm thuế tài nguyên khoáng sản.
* Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn chưa thực sự đồng bộ giữa
các cấp, chưa gắn với quy hoạch chi tiết của các ngành việc lập quy hoạch cấp

huyện, cấp xã còn chậm, chưa bảo đảm chất lượng phân cấp trách nhiệm quản lý
7
"Điều 35. Ký quỹ phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản
1. Tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản phải ký quỹ phục hồi môi trường và đất đai tại Quỹ bảo vệ
môi trường Việt Nam.
2. Mức tiền ký quỹ để phục hồi môi trường và đất đai căn cứ vào quy trình, tiến độ khai thác, phục hồi và dự
toán chi phí phục hồi môi trường và đất đai xác định trong báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế mỏ và báo cáo
đánh giá tác động môi trường hoặc bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt hoặc xác nhận theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
3. Tiền ký quỹ được tính lãi suất như đối với tiền gửi không kỳ hạn của Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam.
4. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thủ tục đăng ký, quản lý, sử dụng
tiền ký quỹ để phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản".
20
quy hoạch chưa rõ ràng. Công tác lập hồ sơ địa chính, đặc biệt công tác chỉnh lý
biến động chưa được quan tâm ở một số tỉnh việc theo dõi, cập nhật biến động
về đất đai chưa được thực hiện thường xuyên việc kiểm tra, nghiệm thu hồ sơ
địa chính chưa được coi trọng, chất lượng hồ sơ còn thấp. Công tác ứng dụng
công nghệ thông tin vào quản lý hệ thống hồ sơ địa chính ở nhiều tỉnh còn yếu.
* Trong quá trình thực thi Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về việc di dời các cơ sở gây ô nhiễm gặp rất nhiều khó khăn đối với
doanh nghiệp như thiếu vốn, thiếu mặt bằng sản xuất Một số vấn đề còn chưa
được quy định cụ thể như: khu vực nào là khu dân cư mà cần phải có khoảng cách
với các cơ sở nói trên và khoảng cách cụ thể đối với từng loại cơ sở; hướng dẫn
việc hỗ trợ việc giao đất, cho thuê đất đối với các cơ sở thuộc diện phải di dời để
đảm bảo khoảng cách an toàn đối với khu vực dân cư theo quy định nói trên.
Như vậy, đất đai với nhiều loại khác nhau, có những đòi hỏi về mức độ bảo
vệ khác nhau. Pháp luật hiện hành về bảo vệ môi trường đất chưa phải là công
cụ hữu hiệu để bảo vệ đất với tư cách là một thành phần quan trọng không thể
thiếu của môi trường.
III. Đánh giá về chính sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước về

chống tình trạng thoái hóa đất
Bảo vệ môi trường, xây dựng cuộc sống bền vững trên trái đất đã trở
thành nghĩa vụ của tất cả các nước trên thế giới. Vì vậy, Luật Bảo vệ môi trường
đã xác định: “Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để
mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt động bảo vệ
môi trường” (khoản 1 Điều 5 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005). Mặt khác,
nước ta về cơ bản vẫn là nước nông nghiệp số lao động và tổng thu nhập GDP từ
ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao. Trong đó, tình trạng tha hóa đất do
nước mặn xâm lấn, do xói mòn rửa trôi, rác thải chôn lấp xuống đất, các loại
thuốc bảo vệ thực vật, khai thác liên tục dẫn đến tình trạng tha hóa đất có xu
hướng từ đất “sống” sang đất không có khả năng canh tác ngày càng nhiều. Qua
nghiên cứu pháp luật bảo vệ môi trường, chúng ta dễ dàng nhận thấy chính sách
của Nhà nước ta về về chống tình trạng thoái hóa đất:
21
Một là, rất coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động nhằm
trước hết nâng cao ý thức bảo vệ môi trường từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và của nhân dân. Vì vậy, pháp luật bảo vệ môi trường của nước ta thể
hiện rõ phương thức đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục, vận động, kết hợp áp
dụng các biện pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác để xây dựng ý
thức tự giác, kỷ cương trong hoạt động bảo vệ môi trường. Việc tuyên truyền sẽ
giúp nâng cao ý thức của người dân không chỉ bảo vệ môi trường đất mà còn
liên quan đến các bộ phận khác như tài nguyên nước, rừng, trong tổng thể mối
quan hệ về môi trường
Hai là, ưu tiên đầu tư vốn để cải thiện, bồi bổ cho đất, nhất là những diện
tích bị xói mòn, bạc màu, rửa trôi và bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Trước hết, Nhà
nước tăng cường đầu tư cho chương trình cấp thoát nước, quản lý và xử lý có
hiệu quả nước thải, rác thải, chất thải rắn và chất thải nguy hại trong các thành
phố lớn, chương trình cấp nước sạch và vệ sinh môi trường ở nông thôn, bảo vệ
tài nguyên rừng. Nhà nước cũng quan tâm đến việc đa dạng hoá các nguồn vốn
đầu tư cho bảo vệ môi trường và bố trí các khoản chi riêng cho sự nghiệp môi

trường trong ngân sách nhà nước hàng năm.
Ba là, sử dụng có hiệu quả các công cụ điều tiết vĩ mô để khuyến khích
bảo vệ môi trường, thúc đẩy việc phát triển xã hội bền vững. Nhà nước đã từng
bước điều chinh các chính sách tài chính (thuế, phí và các chính sách khác)
nhằm khuyến khích và nâng đỡ các hoạt động kinh tế có lợi cho môi trường,
nâng cao chất lượng môi trường, đồng thời thu hẹp, hạn chế tiến tới xoá bỏ các
hoạt động kinh tế, ngành nghề, mặt hàng gây ô nhiễm, huỷ hoại, tàn phá môi
trường. Sử dụng tốt công cụ thuế, phí và các chính sách khác sẽ đảm bảo hướng
dẫn, khuyến khích, bảo vệ các hoạt động giữ gìn, tăng cường chất lượng môi
trường. Các biện pháp hỗ trợ về tài chính cũng có vai trò khuyến khích để người
gây ô nhiễm thay đổi, điều chỉnh hành vi, thói quen gây hại đến môi trường, trợ
giúp cho các đối tượng đang gặp khó khăn nhằm mục tiêu giúp họ tuân thủ tốt
hơn các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường. Nhà nước cũng xây dựng các chính
sách ưu đãi về đất đai khi di dời các cơ sở sản xuất ra khỏi khu vực dân cư, ưu
tiền giao đất, cho thuê đất đối với những cơ sở sản xuất các sản phẩm thân thiện
với môi trường.
22
Bốn là, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, khuyến khích nghiên cứu, áp
dụng và chuyển giao các thành tựu khoa học và công nghệ về bảo vệ môi
trường; hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường; mở rộng và
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về bảo
vệ môi trường; khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện hợp tác quốc
tế về bảo vệ môi trường; phát triển kết cấu hạ tầng bảo vệ môi trường; tăng
cường nâng cao năng lực quốc gia về bảo vệ môi trường theo hướng chính quy,
hiện đại.
Năm là, Nhà nước rất coi trọng việc xây dựng một hệ thống chế tài đầy đủ
với cơ chế phát hiện, xử lý nghiêm đối với những hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ
môi trường. Các biện pháp chế tài về dân sự, hành chính và hình sự cần được thiết
kế một cách đồng bộ. Trong đó phải ưu tiên nghiên cứu để hình thành cho được cơ
chế bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây ra, coi đây là

một yêu cầu bức xúc của xã hội hiện nay cần được tập trung giải quyết.
Sáu là, Thực hiện các Chương trình như 134, 135 về phủ xanh đất trống
đồi núi trọc, Chương trình trồng 5 triệu ha rừng, các chương trình thủy lợi xây
đắp ngăn chặn thau chua rửa mặn. Thông qua hệ thống công cụ thuế để giảm các
loại thuế nhập khẩu đối với máy móc nông nghiệp, phân hữu cơ, thực hiện việc
sử lý rác thải phân loại trong việc sản xuất phân lân vi sinh từ phế phẩm thải.
IV. ĐÁNH GIÁ VỀ HIỆU QUẢ THI HÀNH CÁC VĂN BẢN QUY
PHẠM PHÁP LUẬT VỀ LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐẤT
1. Những mặt đã đạt được
Kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 và sau này là Luật Bảo vệ
môi trường năm 2005 được ban hành, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường
đã được liên tục bổ sung, hoàn thiện. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đã
được Chính phủ, các bộ, ngành, các địa phương nhanh chóng cụ thể hoá, tạo ra
hành lang pháp lý khá thống nhất, đồng bộ về bảo vệ môi trường đất. Đặc biệt,
sau khi Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập (tháng 8 năm 2002), thì hệ
thống pháp luật về bảo vệ môi trường được quan tâm nhiều hơn, trong đó có môi
trường Đất. Nhờ vậy, pháp luật bảo vệ môi trường Đất đã đạt được những bước
phát triển đáng kể, thể hiện cụ thể như sau:
23
Thứ nhất, hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường ở nước ta từ năm 1993
đến nay nói chung các văn bản pháp luật đặc thù về bảo vệ tài nguyên Đất đã có
bước phát triển về chất cả về nội dung và hình thức, điều chỉnh tương đối đầy đủ
các hành vi, mối quan hệ phát sinh trong quá trình bảo vệ môi trường; các thành
tố tạo nên môi trường được đặt trong phạm vi, đối tượng điều chỉnh của pháp
luật bảo vệ môi trường. Các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường đã quy định
từ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về môi
trường, đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của mỗi cá nhân, tổ chức trong việc khai
thác, sử dụng và bảo vệ môi trường. Hệ thống các tiêu chuẩn môi trường cũng
đã từng bước được ban hành mới, hoặc sửa đổi, bổ sung để làm cơ sở pháp lý
cho việc xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể trong việc bảo vệ môi

trường. Các quy định pháp luật đã chú trọng tới khía cạnh toàn cầu của vấn đề
môi trường; xác định rõ bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân chứ không
phải chỉ là trách nhiệm riêng của Nhà nước.
Thứ hai, trong pháp luật bảo vệ môi trường Đất ở nước ta đã thể hiện khá
rõ nét nguyên tắc đặc thù của sự nghiệp bảo vệ môi trường lấy thuyết phục, giáo
dục, răn đe, phòng ngừa ô nhiễm, suy thoái môi trường làm biện pháp chính ưu
tiên áp dụng. Để thực hiện tốt định hướng này, Nhà nước đã đề cao trách nhiệm
không những của các cơ quan nhà nước, mà còn của các doanh nghiệp, các tổ
chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và mỗi công dân trong
việc bảo vệ môi trường. Đồng thời, Nhà nước cũng thiết kế một hệ thống các
biện pháp về trách nhiệm pháp lý mà các chủ thể phải gánh chịu khi vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường.
Thứ ba, pháp luật bảo vệ môi trường Đất ở nước ta đã giải quyết tương
đối tốt mối quan hệ giữa Luật Bảo vệ môi trường nói chung và các văn bản pháp
luật liên quan đến bảo vệ môi trường Đất, về cơ bản đã bảo đảm sự thống nhất
trong đa dạng, trong sự liên kết khá chặt chẽ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ,
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 cùng hệ thống các văn bản hướng dẫn thi
hành đã giữ được vai trò là trung tâm, là hạt nhân của hệ thống pháp luật bảo vệ
môi trường. Luật Bảo vệ môi trường đã quy định bao quát việc bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên và các thành tố của môi trường nói chung mà không phụ
thuộc vào các thành tố đó là loại tài nguyên thiên nhiên nào, do ai sử dụng và
24
mục đích sử dụng của từng thành tố môi trường. Bảo vệ môi trường được xác
định là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi cá nhân, tổ chức và theo phương châm
phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, kết hợp với xử lý ô
nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện môi trường, duy trì môi trường ở trạng thái
cân bằng, bền vững.
Các luật, pháp lệnh chuyên ngành khác như Luật Đất đai năm 2003, Luật
Tài nguyên nước (1998), Luật Dầu khí năm 1993 (sửa đổi năm 2000, 2008),
Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật Khoáng sản năm 1996 (sửa đổi,

bổ sung năm 2005), Luật Thủy sản năm 2003 quy định chế độ pháp lý về khai
thác, sử dụng các nguồn tài nguyên phục vụ cho mục dích phát triển kinh tế, xã
hội. Đồng thời, các văn bản pháp luật này cũng quy định bảo vệ nguồn tài
nguyên thiên nhiên với tư cách là bảo vệ các giá trị sinh thái (bảo vệ môi
trường). Cũng tương tự như vậy, trong các hoạt động phục vụ đời sống hàng
ngày hoặc trong các hoạt động sản xuất kinh doanh khác, ngoài việc quy định về
trật tự an toàn xã hội, đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được
hiệu quả, các văn bản pháp luật điều chỉnh các hoạt động này đều có quy định
nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Như vậy, giá trị kinh tế khi sử dụng các nguồn tài
nguyên thiên nhiên hay khi tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh được đảm
bảo, nhưng không phải vì thế mà có thể làm giảm sút chất lượng môi trường.
Khi đề cập đến khía cạnh bảo vệ môi trường, các văn bản pháp luật chuyên
ngành thường dẫn chiếu áp dụng các biện pháp phòng, chống, khắc phục ô
nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, gây sự cố môi trường theo quy định
của Luật Bảo vệ môi trường, hay áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng môi trường,
đánh giá tác động môi trường trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ
môi trường.
Thứ tư, bên cạnh việc tích cực ban hành các văn bản pháp luật liên quan
đến bảo vệ môi trường, Việt Nam đã từng bước tham gia vào các Công ước quốc
tế về bảo vệ môi trường. Trong đó phải kể đến: Công ước về Luật biển, Công
ước Viên về bảo vệ tầng ôzôn; Công ước về kiểm soát, vận chuyển qua biên giới
các phế thải nguy hiểm và tiêu hủy chúng (Công ước BASEL), Công ước về
buôn bán quốc tế các loài động thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng (Công
ước CITES), Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế
25

×