Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Báo cáo rà soát thực trạng pháp luật và thực tiễn quản lý Nhà nước về ngoại thương ở Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.74 KB, 74 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
VỤ PHÁP CHẾ
*****
BÁO CÁO
RÀ SOÁT THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ
THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
NGOẠI THƯƠNG Ở VIỆT NAM
Chuyên gia thực hiện: 1. PGS, TS Bùi Ngọc Sơn
2. TS Nguyễn Minh Hằng
3. TS Mai Ngọc Anh
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
Hà Nội - Tháng 5/2013
MỤC LỤC
Trang
Chương 1: ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH VÀ CHIẾN LƯỢC
NGOẠI THƯƠNG CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
4
I. Định hướng chính sách và chiến lược ngoại thương từ năm 1986 đến
nay
4
II. Nhận xét và đánh giá 11
Chương 2: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ
XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA VÀ DỊCH VỤ CỦA VIỆT NAM
13
I. Thực trạng hệ thống pháp luật về quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa của
Việt Nam
13
II. Thực trạng hệ thống pháp luật điều chỉnh xuất nhập khẩu dịch vụ
23
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM


HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ XUẤT
NHẬP KHẨU HÀNG HÓA VÀ DỊCH VỤ CỦA VIỆT NAM
39
I. Đánh giá thực trạng và kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lý
xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam
39
II. Đánh giá thực trạng và kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lý
xuất khẩu nhập khẩu dịch vụ của Việt Nam
49
Kết luận
52
Danh mục tài liệu tham khảo
53
PHỤ LỤC I: HỆ THỐNG VĂN BẢN QUY PHẠM LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT
ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG VỀ HÀNG HÓA
54
PHỤ LỤC II: DANH MỤC MỘT SỐ VĂN BẢN QUY PHẠM LUẬT ĐIỀU CHỈNH
HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG VỀ DỊCH VỤ
67
PHỤ LỤC III: CÁC LUẬT, PHÁP LỆNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG
NGOẠI THƯƠNG
70
2
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ hiện nay, các
quốc gia đều rất quan tâm đến việc thiết lập chính sách và pháp luật ngoại
thương phù hợp. Ở Việt Nam, chính sách và pháp luật ngoại thương phải phù
hợp với các cam kết quốc tế và phục vụ mục tiêu hội nhập. Mặt khác, đây cũng

là công cụ để nhà nước kiểm soát, quản lý hoạt động ngoại thương một cách
hiệu quả, tránh những ảnh hưởng tiêu cực của quá trình hội nhập vào tiến trình
phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Trong suốt thời gian qua, nhất là từ khi Việt nam gia nhập WTO, chúng ta
đã có những quyết sách phù hợp về mặt chính sách và pháp luật ngoại thương.
Tuy vậy, cũng không thể phủ nhận rằng, hệ thống pháp luật ngoại thương của
Việt nam hiện nay còn nhiều tồn tại cần phải khắc phục trong thời gian sớm
nhất.
Mục tiêu của báo cáo này là trên cơ sở rà soát các chính sách và pháp luật
ngoại thương của Việt Nam, đánh giá những thành tựu đã đạt được, những điểm
còn tồn tại, báo cáo đưa ra một số khuyến nghị mang tính định hướng trong việc
hoàn thiện chính sách và pháp luật ngoại thương của Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu của báo cáo là các văn kiện của Đảng trong các kỳ
đại hội khác nhau, các nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ, các Quyết định,
Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản có liên quan, trong đó có nêu
định hướng và chính sách phát triển ngoại thương. Đối tượng nghiên cứu của
báo cáo cũng là các văn bản luật và dưới luật có liên quan đến hoạt động ngoại
thương, từ xuất nhập khẩu hàng hóa đến xuất nhập khẩu dịch vụ.
Về phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian, đối với chính sách ngoại thương,
báo cáo nghiên cứu từ thời kỳ đổi mới (năm 1986) cho đến nay. Về thực trạng
pháp luật điều chỉnh hoạt động ngoại thương, báo cáo nghiên cứu hệ thống pháp
luật thực định của Việt Nam. Các phụ lục trong báo cáo gồm các văn bản được
cập nhật đến tháng 2/2013.
Báo cáo được bố cục thành ba chương. Chương 1 và chương 2 dành cho
việc rà soát các chính sách, chiến lược ngoại thương cũng như rà soát hệ thống
pháp luật thực định của Việt Nam điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hóa và xuất nhập khẩu dịch vụ. Trong chương 3, chúng tôi sẽ đánh giá thực
trạng pháp luật và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
về ngoại thương của Việt Nam.
3

Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
Chương 1: ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH VÀ CHIẾN LƯỢC NGOẠI
THƯƠNG CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
I. Định hướng chính sách và chiến lược ngoại thương từ năm 1986 đến nay
1. Giai đoạn 1986-1995:
Công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế được Đảng Cộng Sản Việt Nam
khởi xướng từ Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa VI) họp cuối năm 1986.
Cùng với việc xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chính sách mới về
ngoại thương được ban hành. Năm 1988, Việt Nam xóa bỏ chính sách độc
quyền ngoại thương và khẳng định tầm quan trọng của ngoại thương với sự phát
triển kinh tế, chuyển sang mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cho các
đối tượng khác nhau trong nền kinh tế. Ngay từ những năm đầu thực hiện “đổi
mới” và “mở cửa, nghị quyết của Đại hội Đảng đã thể hiện “xuất khẩu là mũi
nhọn có ý nghĩa quyết định đối với nhiều mục tiêu kinh tế trong 5 năm này
(1986-1990), đồng thời cũng là khâu chủ yếu của toàn bộ các quan hệ kinh tế
đối ngoại”
1
.
Sự thay đổi về mặt chính sách của nhà nước trong lĩnh vực ngoại thương
từ năm 1986 có thể kể đến như sau:
- Khẳng định tầm quan trọng của ngoại thương trong các hoạt động đối
ngoại và đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.
- Nhà nước chuyển các hoạt động ngoại thương từ cơ chế tập trung, bao
cấp sang hạch toán kinh doanh. Xóa bỏ bao cấp và bù lỗ cho kinh doanh xuất
nhập khẩu.
- Nhà nước mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp cho các
cơ sở sản xuất thuộc các thành phần kinh tế. Sự độc quyền kinh doanh xuất nhập
khẩu như trước đây không còn.
Như vậy, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đều

có thể xuất nhập khẩu hàng hóa, đồng thời phải tự hạch toán lỗ lãi chứ không
được sự bao cấp của nhà nước.
- Thực hiện chính sách mở cửa, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
ngoại thương. Trong thời kỳ trước năm 1986, Việt Nam chỉ thực hiện hoạt động
ngoại thương với các nước thuộc khối XHCN cũ. Từ năm 1986, Việt Nam mở
rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại với nhiều các quốc gia trên thế giới, trong đó
có cả các quốc gia TBCN.
1
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
của Đảng Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội trong 5 năm 1986-1990. Báo điện tử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
4
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
- Tăng cường sự quản lý thống nhất của nhà nước đối với mọi hoạt động
ngoại thương bằng luật pháp và chính sách. Hình thành hệ thống biện pháp,
chính sách khuyến khích xuất khẩu. Quản lý nhập khẩu chủ yếu thông qua chính
sách thuế; Giảm thiểu các biện pháp quản lý phi thuế quan như hạn ngạch, giấy
phép xuất nhập khẩu
Những thay đổi trong quản lý và chính sách ngoại thương là những thay
đổi lớn hết sức quan trọng, đã góp phần tích cực vào sự phát triển buôn bán của
nước ta với nước ngoài, đặc biệt là với thị trường các nước phát triển.
Nhờ thực hiện chính sách mở cửa, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
kinh tế đối ngoại, đến năm 1995, nước ta đã quan hệ buôn bán với hơn 100 nước
và lãnh thổ thuộc đủ các châu lục trên thế giới; đã ký Hiệp định hợp tác thương
mại với EU; bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ (12/7/1995); gia
nhập ASEAN (28/7/1995). Đó là những điều kiện thuận lợiü để đẩy nhanh tốc
độ phát triển kinh tế, mở rộng buôn bán và hợp tác kinh tế với các nước và các
tổ chức kinh tế khu vực.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991-1995), sau khi

tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng VI - Đại hội của Đổi Mới,
của phát huy tinh thần tự lực, tự cường, quyết tâm xóa bỏ tư duy quản lý kinh tế
cũ, Đại hội đã thông qua Báo cáo chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm
2000 trong đó quan điểm của Đảng về việc phát triển ngoại thương được Đại hội
thông qua là “ (1)Phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh
tranh của hàng hoá, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của sản xuất và đời sống, hướng
mạnh về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có
hiệu quả. (2) Mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế,
các công ty và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền,
bình đẳng và cùng có lợi. Phát huy tinh thần độc lập tự chủ, không ỷ lại vào bên
ngoài, khai thác tối đa mọi lợi thế và nguồn lực của đất nước là điều kiện cơ
bản để mở rộng có hiệu quả kinh tế đối ngoại, bảo đảm cho nền kinh tế luôn
luôn phát triển trong thế chủ động.”
2
Để thực hiện các quan điểm phát triển này,
Đại hội cũng thông qua những định hướng chính sách lớn với các năm nội dung
cơ bản là: “(1)Đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia,
mọi tổ chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và
cùng có lợi. Củng cố và tăng cường vị trí ở các thị trường quen thuộc và với các
bạn hàng truyền thống, tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới,
phát triển các quan hệ mới; (2)Tăng nhanh kim ngạch và cải tiến cơ cấu xuất
khẩu theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô,
2
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII của Đảng: Thông qua "Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế
- xã hội đến năm 2000, ngày 27-6-1991. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
5
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định. áp dụng
các chính sách tỷ giá và thuế khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu; (3) Chính sách

nhập khẩu phải phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản xuất và đổi mới công
nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hoá, đáp ứng
nhu cầu cần thiết về đời sống; (4)Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất, nhập
khẩu và quản lý ngoại tệ; (5) Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền hạn thành
viên của nước ta trong các tổ chức quốc tế; gia nhập các tổ chức và hiệp hội
kinh tế quốc tế khác khi cần thiết và có điều kiện.”
3
Như vậy, chiến lược ngoại thương trong giai đoạn này là:
- Phát huy lợi thế tương đối của Việt Nam để có thể cạnh tranh trên thị
trường quốc tế
- Đẩy mạnh xuất khẩu, thay thế nhập khẩu bằng những mặt hàng sản
xuất trong nước
- Củng cố các thị trường cũ, khai thác các thị trường mới tiềm năng
- Tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô xuất khẩu
Những chiến lược xuất khẩu nói trên của Việt Nam đã tạo ra những kết
quả rất lớn. Trong Báo cáo tổng kết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng đã nêu: “(1)Trong 5 năm (1991 - 1995) tổng kim ngạch xuất khẩu đạt
trên 17 tỷ USD (kế hoạch là 12 - 15 tỷ USD), bảo đảm nhập các loại vật tư, thiết
bị và hàng hoá đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống, góp phần cải thiện
cán cân thanh toán thương mại. Tổng kim ngạch nhập khẩu trên 21 tỷ USD, kể
cả phần nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; tỷ trọng
nhập khẩu vật tư, thiết bị tăng lên, đáp ứng được nhu cầu phát triển; (2) Quan
hệ mậu dịch đã mở rộng với trên 100 nước và tiếp cận nhiều thị trường mới;
(3)Nhà nước đã mở rộng quyền xuất, nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế, ban hành một số chính sách khuyến khích xuất khẩu ”
4
.
2. Giai đoạn 1996-2006
Tiếp nối cho sự đúng đắn của các chính sách và chiến lược được đề ra ở
giai đoạn trước, trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước tiếp tục khẳng định

chính sách mở cửa và tăng cường hoạt động ngoại thương cũng như khẳng định
tầm quan trọng của ngoại thương trong xu thế hội nhập.
3
Chương II Phần 4 Các chính sách và giải pháp về vốn và kinh tế đối ngoại, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần VII của Đảng: Thông qua "Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, ngày 27-6-
1991. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
4
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng:
Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 – 2000. Báo Điện tử Đảng Cộng sản
Việt Nam.
6
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
Trong Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về phương
hướng và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội từ 1996-2000, Đại hội đã nhất trí
tiếp tục thực hiện những định hướng chiến lược lớn 10 năm 1991-2000 và cùng
với đó đưa ra những mục tiêu cụ thể cho giai đoạn 1996-2000 trong đó ngoài
những mục tiêu phải hoàn thành về xuất khẩu, nhập khẩu, hướng đi lớn của
ngoại thương Việt Nam trong giai đoạn này là “(1) Củng cố vị trí ở các thị
trường quen thuộc, khôi phục quan hệ với thị trường truyền thống, tìm thị
trường và bạn hàng mới, giảm sự tập trung quá mức vào một vài thị trường.
Tạo một số thị trường và bạn hàng lâu dài về những mặt hàng xuất, nhập
khẩu chủ yếu, giảm xuất, nhập qua thị trường trung gian. Thực hiện nhất
quán các chính sách khuyến khích xuất khẩu, bao gồm cả việc bảo hiểm về
giá cho hàng xuất khẩu, điều tiết tỷ giá hối đoái hợp lý, có lợi cho xuất
khẩu.(2) Tiếp theo việc gia nhập ASEAN và chuẩn bị cho việc tham gia Khối mậu
dịch tự do (AFTA), cần xúc tiến việc tham gia Diễn đàn kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC), Tổ chức thương mại quốc tế (WTO), từng bước tham gia các hoạt
động của Hệ thống toàn cầu về ưu đãi thương mại với các nước đang phát triển
(GSTP), áp dụng các chuẩn mực thương mại quốc tế và lựa chọn tham gia một số

hiệp hội xuất khẩu quốc tế về từng mặt hàng xuất khẩu.”
Tiếp nối những thành công từ định hướng xuyên suốt trên, Đại hội đại
biểu lần thứ IX đã khẳng định phương hướng phát triển của ngành ngoại thương
trong 5 năm tiếp theo (2001-2005): đó là hướng các nguồn lực của nền kinh tế
đến xuất khẩu, nhập khẩu có định hướng, bảo hộ có lựa chọn; mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm của Việt Nam thông qua tiến hành gia nhập các tổ
chức quốc tế song phương và đa phương trong đó quan trọng nhất là gia nhập tổ
chức thương mại thế giới (WTO)
5
.
Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg ngày 27 tháng 10 năm 2000 của Thủ tướng
Chính phủ về chiến lược xuất – nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001 –
2010, đã xác định: tiếp tục chủ trương dành ưu tiên cao nhất cho xuất khẩu,
tăng tốc xuất khẩu trên mọi lĩnh vực; tạo nguồn hàng có chất lượng, có giá trị
gia tăng và sức cạnh tranh cao để xuất khẩu; góp phần giải quyết việc làm cho
xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001 – 2010 phải đạt mức tăng
trưởng bình quân từ 15%/năm trở lên. Phấn đấu cân bằng cán cân thương mại
vào những năm 2009 – 2010 và xuất siêu ở thời kỳ sau năm 2010. Cơ cấu xuất
khẩu phải chuyển dịch mạnh theo hướng gia tăng các sản phẩm chế biến chế tạo,
chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, bên cạnh đó
phải quan tâm khai thác mặt hàng chủ yếu sử dụng nguyên vật liệu tại chỗ, sử
5
Mục 4 Chương IV: Chiến lược phát triển kinh tế 2001-2010. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
7
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
dụng nhiều lao động. Chú trọng nâng cao giá trị gia công và chất lượng từng sản
phẩm xuất khẩu, giảm xuất khẩu hàng chế biến thô, tăng tỉ trọng hàng chế biến

sâu bằng công nghệ mới trong kim ngạch xuất khẩu. Nhập khẩu cả thời kỳ 2001
-2010 được duy trì ở mức tăng trưởng bình quân 14%/năm. Chú trọng nhập
khẩu công nghệ cao để đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp chế biến nông
lâm thủy sản và công nghiệp nhẹ, đồng thời, phải gắn với việc phát triển, sử
dụng các công nghệ được sản xuất trong nước. Hạn chế nhập khẩu các sản
phẩm, công nghệ trong nước đã sản xuất được. Tăng cường tiếp cận các thị
trường cung ứng công nghệ nguồn và có khả năng đầu tư hiệu quả, như Tây Âu,
Mỹ, Nhật…
Như vậy, so với giai đoạn trước, trong giai đoạn 1995-2005, chính sách
ngoại thương Việt Nam là tăng cường khuyến khích xuất khẩu nhưng phải đảm
bảo cân bằng cán cân thương mại, đặc biệt là phải thực hiện các biện pháp,
chính sách tuân theo chuẩn mực quốc tế nhằm phục vụ cho các mục tiêu hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Các chiến lược ngoại thương được nhấn mạnh trong giai đoạn này bao
gồm: chú trọng sản xuất các mặt hàng sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước, sử
dụng nhiều lao động để xuất khẩu, từ đó khai thác lợi thế cạnh tranh; nhập khẩu
các máy móc có trình độ công nghệ tiên tiến hiện đại phục vụ sự nghiệp CNH-
HĐH đất nước.
Sau 5 năm thực hiện chiến lược phát triển xuất khẩu 2001-2010, hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn.
Việt Nam có kinh tế tăng trưởng cao trong giai đoạn 2001 -2007 (tăng trưởng
bình quân 7,75%/năm tính theo giá cố định 1994), kinh tế vĩ mô tương đối ổn
định, đầu tư tăng cao… đã tạo cơ sở tăng cường quy mô xuất khẩu sản phẩm và
tăng nhu cầu nhập khẩu nguyên, nhiên vật liệu, máy móc thiết bị và công nghệ.
Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhất là việc ký kết Hiệp định thương mại
Việt – Mỹ (BTA), gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), tham gia các
khu vực thương mại tự do (FTA)… đã mở ra những thời cơ, thuận lợi lớn về
môi trường kinh doanh quốc tế cho phát triển thị trường xuất khẩu, phát triển
hoạt động xuất khẩu hàng hóa của nước ta.
3. Giai đoạn từ 2006 đến nay

Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ của ngành ngoại thương trong kế
hoạch 5 năm 2006-2010. Đó là: “(1)Tận dụng điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế, chủ động và khẩn trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và
quản lý, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của
8
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
sản phẩm và dịch vụ Việt Nam tại thị trường trong nước và trên thế giới. Đẩy
nhanh xuất khẩu, chủ động về nhập khẩu, kiềm chế và thu hẹp dần nhập
siêu Phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm tới lên hơn hai lần 5 năm
trước;(2) Thực hiện tốt đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước;
chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn và đầy đủ hơn với khu vực và thế
giới Chuẩn bị tốt các điều kiện để bảo đảm thực hiện các cam kết khi nước ta
gia nhập WTO.” Và cuối cùng, một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mang tính dài
hạn nhằm phát huy nội lực, thay đổi cơ chế quản lý, hỗ trợ việc hội nhập sâu
rộng là “(3) Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo
đảm lợi ích quốc gia và phù hợp với các quy định, thông lệ quốc tế ”
Để chuẩn bị cho một giai đoạn phát triển mới, nhất là chuẩn bị gia nhập
WTO, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 156/2006/QĐ-TTg ngày
30 tháng 6 năm 2006 phê duyệt Đề án Phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 –
2010, với mục tiêu tổng quát: phát triển xuất khẩu với tốc độ cao và bền vững.
Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng
có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công
nghệ và chất xám cao, giảm dần tỉ trọng hàng xuất khẩu thô. Tốc độ tăng trưởng
kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân 17,5%/năm, đến năm 2010 đạt khoảng
72,5 tỉ USD. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ bình quân
16,3%/năm, đến năm 2010 đạt khoảng 12 tỉ USD. Xuất khẩu nhóm hàng nông,
lâm thủy sản chiếm 13,7%, nhóm nhiên liệu - khoáng sản chiếm khoảng 9,6%,
nhóm hàng công nghiệp và công nghệ cao chiếm khoảng 54% và nhóm hàng

hóa khác chiếm 22,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. Thị trường
Châu Á chiếm khoảng 45%, Châu Âu chiếm khoảng 23%, Châu Mỹ chiếm
khoảng khoảng 24%, Châu Đại Dương chiếm khoảng 5% và thị trường khác
chiếm khoảng 3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa vào năm 2010.
Kiềm chế mức nhập siêu hợp lý, thông qua thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa và dịch
vụ, phát triển sản xuất các sản phẩm có lợi thế so sánh để bảo đảm nhu cầu trong
nước, tiến tới cân bằng xuất khẩu – nhập khẩu vào những năm đầu sau năm
2010.
Chiến lược xuất khẩu giai đoạn 2005 - 2010 còn nêu lên các vấn đề về cơ
sở hạ tầng, về qui hoạch sản xuất và thị trường xuất khẩu như sau:
- Chú trọng nâng cao giá trị gia công và chất lượng từng sản phẩm xuất
khẩu; giảm xuất khẩu hàng chế biến thô, tăng tỷ trọng hàng chế biến sâu bằng
công nghệ mới; giảm gia công, đẩy mạnh sản xuất hàng XK sử dụng nguyên, vật
liệu chất lượng cao trong nước với công nghệ mới; cải thiện cơ sở hạ tầng cơ sở
nuôi, trồng, sử dụng các loại giống cây, con có sản lượng, chất lượng cao và
công nghệ chế biến thích hợp đi đôi với các biện pháp bảo vệ môi trường.
9
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
- Phải có qui hoạch vùng nguyên liệu cho từng nhóm sản phẩm; quy trình
quản lý sản xuất phải được tổ chức lại một cách khoa học và tiết kiệm nhất; từng
bước xây dựng tiêu chuẩn chất lượng quốc gia cho các loại hàng hóa xuất khẩu
với nhãn hiệu “sản xuất tại Việt Nam”.
- Sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng được những yêu cầu đa dạng của thị
trường thế giới, đặc biệt là yêu cầu về chất lượng, mẫu mã hàng hóa. Mỗi loại
hàng hóa phải hình thành được thị trường chính, chủ lực và tập trung khả năng
mở rộng các thị trường này, đồng thời chủ động mở rộng sang các thị trường
khác theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ buôn bán; phải có đối
sách cụ thể với từng thị trường và từng bước giảm dần việc xuất khẩu qua các
thị trường trung gian. Định hướng chung là tận dụng mọi khả năng để duy trì tỷ

trọng xuất khẩu hợp lý vào các thị trường đã có ở Châu Á, đặc biệt là thị trường
Nhật, đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu trực tiếp vào các thị trường sức mua lớn như
Mỹ, Tâu Âu, thâm nhập, tăng dần tỷ trọng XK vào các thị trường Đông Âu, Nga
và khu vực Châu Mỹ, Châu Phi.
- Giảm nhập siêu và cân bằng cán cân thương mại.
Giai đoạn 2006-nay là giai đoạn Việt Nam hội nhập kinh tế sâu rộng với
sự kiện quan trọng là Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Vì thế,
tiếp nối các chính sách và chiến lược ngoại thương của những giai đoạn trước,
trong giai đoạn này, chúng ta có định hướng là tiếp tục khai thác lợi thế tương
đối của Việt Nam, cộng với những cơ hội của hội nhập để khai thác tối đa các
thị trường xuất khẩu, phát triển các thị trường mới. Đặc biệt, việc gia nhập WTO
cũng đòi hỏi các chính sách ngoại thương cũng như các công cụ, biện pháp được
áp dụng phải phù hợp với những quy định của WTO và những cam kết của Việt
Nam. Vì vậy, một trong các chức năng của chính sách ngoại thương là thực hiện
các cam kết hội nhập của Việt Nam.
Ngoài ra, một định hướng quan trọng của chính sách ngoại thương, đó là
xuất khẩu, nhập khẩu phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu
xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng
cao, sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám
cao, giảm dần tỉ trọng hàng xuất khẩu thô.
Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã xác định
phương hướng, nhiệm vụ trong giai đoạn 2011-2015 là: “Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác
tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc
gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Nhiệm vụ của
10
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho đẩy mạnh

công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc
tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ
gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu
cực của quá trình hội nhập quốc tế. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở
rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về
vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến.
Như vậy, về định hướng hoạt động ngoại thương trong thời gian tới là vẫn
tiếp tục tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó đặc biệt nhấn
mạnh vấn đề gắn phát triển và hội nhập kinh tế với vấn đề phát triển bền vững
và giữ vững nền độc lập, tự chủ. Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta phải có
những biện pháp để kiểm soát hoạt động ngoại thương một cách hiệu quả nhằm
duy trì sự ổn định của thị trường trong nước.
II. Nhận xét và đánh giá
Như vậy, xét về từng thời kỳ, trước năm 1986 chúng ta thực hiện chủ
trương Nhà nước độc quyền ngoại thương. Từ 1986 đến 1996 chúng ta thực hiện
chủ trương Nhà nước thống nhất quản lý ngoại thương, từng bước trao quyền
kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa cho các doanh nghiệp sản xuất thuộc các
thành phần kinh tế và tiếp đó là các doanh nghiệp thương mại Nhà nước. Từ
1996 đến 2006 là thời kỳ thực hiện chủ trương tự do hóa dưới sự quản lý của
nhà nước đối với hoạt động ngoại thương, thực hiện lộ trình hội nhập kinh tế
quốc tế, thực hiện chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu và thay thế nhập khẩu, dần
dần chủ động hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Từ 2006
chúng ta thực hiện chủ trương nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động
ngoại thương, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp/sản phẩm của Việt
nam trên thị trường quốc tế nhằm tận dụng những lợi thế, cơ hội từ quá trình hội
nhập.
Về mặt định hướng, kể từ thời kỳ đổi mới, chúng ta luôn coi ngoại thương

là một trong những mũi nhọn hàng đầu của công cuộc phát triển kinh tế đất
nước. Trong từng thời kỳ, Đảng và Nhà nước đã đưa ra các định hướng chính
sách và chiến lược phù hợp. Các định hướng và chính sách này, một mặt, giúp
cho nền ngoại thương của Việt Nam có những bước phát triển khá ấn tượng, mặt
khác, giúp cho Việt nam thực hiện các mục tiêu phát triển và hội nhập kinh tế.,
đó là (1) gia tăng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam để đẩy mạnh xuất khẩu,
hạn chế nhập siêu; (2) chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; (3) tiếp tục đổi mới
11
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
thể chế kinh tế và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật. Việc thực hiện các mục tiêu
này đòi hỏi phải sử dụng tốt các công cụ quản lý ngoại thương.
Chủ trương phát triển xuất nhập khẩu và hội nhập quốc tế kịp thời của
Đảng, sự quản lý đúng đắn của Nhà nước, sự chỉ đạo điều hành năng động và
quyết liệt của Chính phủ, sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, của các cấp,
các ngành và của toàn dân. Về cơ bản, các mục tiêu, chủ trương và giải pháp lớn
được xác định trong chiến lược phát triển xuất khẩu là phù hợp và với việc tổ
chức thực hiện tốt nên đã những mục tiêu quan trọng đã được hoàn thành.Các
chính sách ngoại thương cũng phù hợp với các yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc
tế, giúp Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế trong các điều ước quốc tế song
phương và đa phương về thương mại.
Những đổi mới trong cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, mở cửa thị trường…
cũng như những chính sách nhằm mở rộng quyền kinh doanh cho các doanh
nghiệp trong nước đã góp phần quan trọng và tạo ra sự chuyển biến tích cực
trong hoạt động đầu tư, sản xuất và xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Chúng ta
đã thực hiện chủ trương khuyến khích mọi thành phần kinh tế được hoạt động
kinh doanh ở tất cả các ngành nghề mà không bị cấm kinh doanh, nới lỏng các
điều kiện kinh doanh xuất nhập khẩu và khuyến khích đầu tư sản xuất hàng xuất
khẩu ở mức cao hơn sản xuất phục vụ tiêu dùng trong nước. Do vậy, các hộ kinh
doanh, các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế, cả các doanh nghiệp

trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều tập trung vào nỗ lực
đẩy mạnh xuất khẩu.
Mặc dù chúng ta có định hướng và chiến lược ngoại thương cụ thể song
trên thực tế việc sử dụng các công cụ quản lý ngoại thương để cụ thể hóa các
sách lược đó còn một số điểm chưa tốt, điều đó xuất phát từ cả hai nguyên nhân
là công cụ chưa được xây dựng hoàn thiện và hệ thống cơ quan chức năng được
giao quyền sử dụng công cụ còn chưa rõ ràng, chồng chéo và thiếu tính đầu mối
và tính phối hợp.
Ngoài ra, trong các chiến lược phát triển ngoại thương của Việt Nam
thường đưa ra những mục tiêu có tính tham vọng cao. Chẳng hạn như phấn đấu
cân bằng cán cân thương mại vào những năm 2009, 2010 và xuất siêu vào thời
kỳ sau 2010. Tuy vậy, mục tiêu này hiện nay vẫn chưa đạt được. Điều này cho
thấy những hạn chế, khiếm khuyết trong thực tiễn quản lý, điều hành hoạt động
xuất nhập khẩu chưa được như kỳ vọng trong thời gian qua cũng như sự cần
thiết phải điều chỉnh các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, trong đó có ngoại
thương trong giai đoạn tới. Để làm được điểu này cần phát triển công tác nghiên
cứu, dự báo chiến lược về đối ngoại nói chung và ngoại thương nói riêng một
cách bài bản.
12
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
Chương 2: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ
XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA VÀ DỊCH VỤ CỦA VIỆT NAM
I. Tổng quan hệ thống pháp luật về quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa
của Việt Nam
Kể từ năm 1986 cho đến nay, hệ thống pháp luật về quản lý xuất nhập
khẩu hàng hóa của Việt Nam đã có nhiều cải cách, trong đó không thể không
nhắc đến 2 cải cách quan trọng đó là:
- Điều chỉnh hệ thống pháp luật cho phù hợp với nền kinh tế đổi mới
nhiều thành phần, chấm dứt chế độ “Nhà nước độc quyền ngoại thương”. Điều

này được thể hiện qua việc Nhà nước ta đã ban hành một loạt các sắc thuế bao
gồm Luật thuế xuất nhập khẩu (1988), Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (1990), sử
dụng hệ thống mã tính thuế hài hòa (HS) (1992)
- Điều chỉnh hệ thống pháp luật để đáp ứng tối đa việc đồng bộ hóa các
quy định trong nước với các quy định quốc tế, phù hợp với cam kết về mở cửa
thị trường: Ban hành Luật Thương mại (1997, 2005), Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu (2005), các Pháp lệnh liên quan đến phòng vệ thương mại . Các văn
bản này đã tạo nên một khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh nhất từ trước đến nay.
Thực tế hiện nay, hoạt động quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa được điều
chỉnh bởi hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật tương đối lớn nhằm đưa ra
các biện pháp quản lý các khía cạnh của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa,
bao gồm các biện pháp quản lý hoạt động thương mại của thương nhân, các biện
pháp quản lý về xuất xứ hàng hóa và diện mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu, các
biện pháp quản lý bằng công cụ thuế, các biện pháp phòng vệ thương mại, các
biện pháp phi thuế quan, các biện pháp xúc tiến thương mại và các biện pháp ưu
đãi kinh tế… Danh mục các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến xuất
nhập khẩu hàng hóa được chi tiết tại Phụ lục I kèm theo.
1. Các biện pháp quản lý hoạt động của thương nhân trong lĩnh vực
xuất nhập khẩu hàng hóa
Nhằm kiểm soát hoạt động của thương nhân trong lĩnh vực xuất nhập
khẩu hàng hóa, pháp luật Việt Nam có những quy định cụ thể về quyền kinh
doanh xuất nhập khẩu của họ. Cụ thể:
- Đối với thương nhân Việt Nam không có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài:
Quyền xuất nhập khẩu hàng hóa của thương nhân Việt Nam không có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định tại Nghị định số 12/2006/NĐ-CP của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán
13
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương

hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng
hóa với nước ngoài. Theo đó, trừ hàng hóa thuộc Danh mục cấm xuất khẩu, tạm
ngừng xuất khẩu, hàng hóa thuộc Danh mục cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập
khẩu
6
, các thương nhân này được xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa không phụ
thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh. Chi nhánh thương nhân được xuất
khẩu, nhập khẩu hàng hóa theo ủy quyền của thương nhân.
- Đối với thương nhân là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (bao
gồm cả doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài):
Quyền xuất nhập khẩu hàng hóa của thương nhân là doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài được quy định tại Thông tư số 09/2007/TT-BTM của Bộ
Thương mại (nay là Bộ Công Thương) hướng dẫn thi hành Nghị định số
23/2007/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm 2007, quy định chi tiết Luật Thương mại
về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua
bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Theo
đó, các thương nhân này được quyền xuất khẩu những mặt hàng không thuộc
danh mục cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu và các mặt hàng không thuộc
danh mục hàng hóa không được quyền xuất khẩu
7
; được quyền nhập khẩu các
mặt hàng không thuộc danh mục hàng cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu và
các mặt hàng không thuộc danh mục hàng hóa không được quyền nhập khẩu
8
.
- Đối với thương nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam:
Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu đối với thương nhân nước ngoài không
có hiện diện tại Việt Nam được quy định tại Nghị định số 90/2007/NĐ-CP ngày
31/5/2007 quy định về quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu của thương nhân
nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam. Theo đó, các thương nhân này

được thực hiện quyền xuất khẩu cũng giống như thương nhân là doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, về thủ tục đăng ký và cấp giấy phép thực
hiện quyền xuất khẩu còn phải nộp thêm một số văn bản như giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh, báo cáo tài chính, số tài khoản
2. Các biện pháp quản lý diện hàng hóa xuất nhập khẩu, phương thức
xuất nhập khẩu và xuất xứ hàng hóa
6
Danh mục cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, hàng hóa thuộc Danh mục cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập
khẩu được quy định tại Phụ lục của Nghị định 12/2006/NĐ-CP.
7
Danh mục hàng hóa không được quyền xuất khẩu được quy định tại Phụ lục 2 của Quyết định 10/2007/QĐ-
BTM công bố lộ trình thực hiện hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán
hàng hoá
8
Danh mục hàng hóa không được quyền nhập khẩu được quy định tại Phụ lục 3 của Quyết định 10/2007/QĐ-
BTM công bố lộ trình thực hiện hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán
hàng hoá
14
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
- Đối với diện hàng hóa xuất nhập khẩu
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, việc quản lý các loại hàng hóa xuất
nhập khẩu được thực hiện thông qua hình thức cấm (cấm tuyệt đối hoặc cấm
trong một khoảng thời gian nhất định - tạm ngừng); hình thức quản lý theo hạn
ngạch thuế quan; hình thức quản lý bởi sự cho phép và/ hoặc phê chuẩn của các
cơ quan chuyên ngành;
+ Đối với hình thức cấm:
Hình thức này được thực hiện bằng việc ban hành các danh mục hàng hóa
cấm xuất khẩu, nhập khẩu, danh mục hàng hóa tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng
nhập khẩu, danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu theo lộ trình cam kết của Việt

Nam với Tổ chức thương mại thế giới.
Phụ lục I Nghị định 12/2006/NĐ-CP đưa ra danh mục hàng hóa cấm xuất
khẩu, nhập khẩu. Các mặt hàng trong danh mục này chủ yếu là loại hàng hóa
cấm xuất khẩu, nhập khẩu thông thường theo thông lệ quốc tế như vũ khí, đạn
dược, di sản văn hóa quý, động vật hoang dã (đối với xuất khẩu)
9
, vũ khí, đạn
dược, hóa chất độc hại (đối với nhập khẩu)
10
.
Đối với các quy định về danh mục hàng hóa tạm ngừng xuất khẩu, tạm
ngừng nhập khẩu: Trước đây, Việt Nam đã áp dụng biện pháp tạm ngừng xuất
khẩu, nhập khẩu đối với hai mặt hàng là đồ gỗ thành phẩm và hàng dệt may và
hiện nay đang áp dụng biện pháp tạm ngừng đối với hàng hóa là máy móc thiết
bị cũ đã qua sử dụng lạc hậu… Việc ngừng xuất khẩu, nhập khẩu các mặt hàng
này đều dựa trên những lý do đặc biệt (từ phía Việt Nam hoặc từ phía các đối tác
thương mại). Bộ trưởng Bộ Công Thương có thẩm quyền quyết định khôi phục
lại hoạt động lưu thông các loại hàng hóa này.
Danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu theo lộ trình cam kết của Việt Nam
với Tổ chức thương mại thế giới được Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ
Công Thương) ban hành kèm theo Quyết định số 10/2007/QĐ-BTM về công bố
lộ trình thực hiện hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực
tiếp đến mua bán hàng hoá.
- Đối với hình thức quản lý theo ngạch thuế quan:
9
Tuy nhiên, cũng có mặt hàng cấm xuất khẩu như mặt hàng gỗ xẻ mang nhiều ý nghĩa liên quan đến chính sách
bảo hộ ngành sản xuất đồ gỗ trong nước hơn là một loại hàng hóa bị cấm xuất khẩu theo thông lệ quốc tế.
10
Tương tự như trường hợp cấm xuất khẩu, một số mặt hàng cấm nhập khẩu như ôtô tay lái nghịch, các mặt
hàng tiêu dùng đã qua sử dụng mang nhiều ý ý nghĩa liên quan đến chính sách bảo hộ hơn là một loại hàng hóa

bị cấm nhập khẩu theo thông lệ quốc tế. Danh mục hàng tiêu dùng và thiết bị y tế đã qua sử dụng cấm nhập khẩu
được quy định chi tiết tại Phụ lục 01 Thông tư 04/2006/TT-BTM của Bộ Thương mại quy định chi tiết một số
điều tại Nghị định số 12/2006/NĐ-CP.
15
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
Trong Phụ lục 2 Nghị định 12/2006/NĐ-CP, Chính phủ đã quy định 4 mặt
hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam chịu hạn ngạch thuế quan đó là muối, thuốc
lá nguyên liệu, trứng gia cầm và đường tinh luyện, đường thô. Theo đó, Bộ
Thương mại (nay là Bộ Công Thương) đã cụ thể theo mã HS dùng trong Biểu
thuế xuất nhập khẩu danh mục các mặt hàng áp dụng hạn ngạch thuế quan trong
Thông tư 04/2006/TT-BTM. Tổng lượng hạn ngạch do Bộ Công Thương công
bố hàng năm
11
, bên cạnh đó, hàng năm Việt Nam còn cam kết bổ sung hạn
ngạch thuế quan với mức thuế suất ưu đãi 0% riêng cho một số chủng loại hàng
hóa có xuất xứ từ Lào và Campuchia
12
.
+ Đối với hình thức quản lý bởi sự cho phép/phê chuẩn của các cơ quan
chuyên ngành
13
:
Các hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu yêu cầu phải có giấy phép được quy
định cụ thể tại Nghị định số 12/2006/NĐ-CP, bao gồm hàng hóa xuất, nhập khẩu
theo giấy phép của Bộ Công Thương; hàng hóa xuất, nhập khẩu theo giấy phép
của Bộ, cơ quan chuyên ngành; và hàng hóa xuất, nhập khẩu theo các quy định
riêng.
- Đối với các phương thức xuất nhập khẩu hàng hóa
Các phương thức xuất nhập khẩu hàng hóa bao gồm các phương thức kinh

doanh xuất nhập khẩu thông thường và các phương thức xuất nhập khẩu khác
như quy định tại Nghị định số 12/2006/NĐ-CP đó là: (i) tạm nhập tái xuất, tạm
xuất tái nhập và chuyển khẩu; (ii) gia công hàng hoá có yếu tố nước ngoài (gồm
gia công hàng hoá cho nước ngoài và đặt gia công hàng hoá ở nước ngoài); (iii)
đại lý mua bán hàng hoá (gồm đại lý mua bán hàng hoá cho nước ngoài và thuê
thương nhân nước ngoài làm đại lý bán hàng tại nước ngoài); (iv) quá cảnh hàng
hoá qua lãnh thổ Việt Nam được thực hiện thông qua các Hiệp định liên chính
phủ giữa Việt Nam và một số nước có chung đường biên giới như Trung quốc,
Lào, Campuchia.
- Đối với xuất xứ của hàng hóa
Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu cần xác định xuất xứ trong trường hợp
được hưởng ưu đãi về thuế và các ưu đãi khác hoặc theo quy định của điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Các quy định chung về xuất xứ hàng hóa đã
được cụ thể trong Nghị định số 19/2006/NĐ-CP ngày 20/02/2006 của Chính phủ
11
Xem Thông tư số 16/2008/TT-BCT của Bộ Công Thương hướng dẫn việc nhập khẩu các mặt hàng thuộc danh
mục quản lý nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan năm 2009.
12
Xem Phụ lục 01 Thông tư số 04/2009/TT-BCT của Bộ Công Thương hướng dẫn việc nhập khẩu theo hạn
ngạch thuế quan năm 2009 với thuế suất thuế nhập khẩu 0% đối với hàng hoá có xuất xứ từ Lào.
13
Thực hiện theo Quyết định số 41/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế về cấp phép nhập
khẩu hàng hóa
16
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
quy định chi tiết Luật Thương mại về xuất xứ hàng hoá, Thông tư số
07/2006/TT-BTM của Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) hướng dẫn thủ
tục cấp và quản lý việc cấp Giấy chứng nhận xuất xứ theo Nghị định số
19/2006/NĐ-CP, Thông tư số 08/2006/TT-BTM của Bộ Thương mại hướng dẫn

cách xác định xuất xứ đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có xuất xứ không
thuần tuý theo Nghị định số 19/2006/NĐ-CP, Thông tư số 10/2006/TT-BTM
của Bộ Thương mại sửa đổi Thông tư số 08/2006/TT-BTM, Quyết định số
018/QĐ-BTM của Bộ trưởng Bộ Thương mại về việc ban hành Quy chế cấp
chứng nhận xuất xứ điện tử, Thông tư 07/2009/TT-BCT của Bộ Công
Thương về việc cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng dệt may đối với một
số chủng loại hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ

, Thông tư 07/2009/TT-BCT
của Bộ Công Thương về việc cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng dệt may
đối với một số chủng loại hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ

. Ngoài ra, còn có
những quy định về xuất xứ ưu đãi như Thông tư số 21/2010/TT-BCT của Bộ
trưởng Bộ Công Thương về thực hiện quy tắc xuất xứ trong Hiệp định thương
mại hàng hóa ASEAN…
3. Các biện pháp quản lý bằng công cụ thuế
Nhóm các văn bản quy định về thuế bao gồm Luật Quản lý thuế (2006),
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (2005), Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (2008)

Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam và hàng hóa từ thị trường trong nước
vào khu phi thuế quan và từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước thuộc
đối tượng chịu thuế xuất khẩu nhập khẩu. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định một
số hàng hóa không thuộc đối tượng chịu thuế như hàng viện trợ nhân đạo, hàng
từ khu phi thuế quan xuất khẩu ra nước ngoài… Đối tượng nộp thuế xuất khẩu,
nhập khẩu là tổ chức cá nhân có hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
- Đối với hàng hoá xuất khẩu
Theo quy định tại Nghị định số 40/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007 của
Chính phủ quy định về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá xuất

khẩu, nhập khẩu, giá tính thuế đối với hàng hoá xuất khẩu là giá FOB, DAF
không bao gồm phí bảo hiểm và phí vận tải.
Thuế suất của từng loại mặt hàng khác nhau được quy định tại Biểu thuế
xuất khẩu ban hành kèm theo Nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 08/12/2005
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
- Đối với hàng hoá nhập khẩu
17
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
Theo quy định tại Nghị định số 40/2007/NĐ-CP, giá tính thuế đối với
hàng nhập khẩu là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên được xác
định theo quy định của pháp luật về trị giá hải quan (theo trị giá giao dịch của
hàng hoá nhập khẩu, trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt, trị giá
giao dịch của hàng hoá nhập khẩu tương tự, trị giá tính thuế theo trị giá khấu trừ,
theo trị giá tính toán và có thể dùng phương pháp suy luận để xác định trị giá
tính thuế).
Theo Nghị định số 149/2005/NĐ-CP, thuế suất với hàng hoá nhập khẩu
được quy định cụ thể cho từng mặt hàng, gồm thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi
đặc biệt và thuế suất thông thường. Các loại thuế suất được quy định trên
nguyên tắc phù hợp với danh mục hàng chịu thuế trong phạm vi khung thuế suất
do Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành; đảm bảo nguồn thu ngân sách và bình
ổn thị trường; bảo hộ sản xuất trong nước phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên. Hiện nay, Chính phủ đang chỉ đạo điều chỉnh giảm thuế
nhập khẩu đối với nhóm hàng là nguyên liệu đầu vào của sản xuất, những
nguyên liệu trong nước chưa sản xuất được hoặc có sản xuất nhưng chưa đáp
ứng đủ nhu cầu.
4. Các biện pháp phòng vệ thương mại như chống trợ cấp, chống bán
phá giá, các biện pháp tự vệ khẩn cấp
Các biện pháp tự vệ được điều chỉnh bởi Pháp lệnh số 42/2002/PL-
UBTVQH10 ngày 25/5/2002 của Ủy ban thường vụ quốc hội về tự vệ trong

nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam (2004) và Nghị định số
150/2003/NĐ-CP ngày 08/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam. Theo
đó nội dung được điều chỉnh bao gồm: (i) điều kiện được phép áp dụng biện
pháp tự vệ; (ii) thủ tục điều tra; (iii) cách thức áp dụng biện pháp tự vệ; (iv)
nhân nhượng.
Các biện pháp chống bán phá giá được điều chỉnh bởi Pháp lệnh số
20/2004/PL-UBTVQH11 ngày 29/4/2004 về chống bán phá giá hàng hóa nhập
khẩu vào Việt Nam và Nghị định số 90/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
một số điều của pháp lệnh chống bán phá giá vào Việt Nam, các quy định bao
gồm: (i) điều kiện áp dụng biện pháp chống bán phá giá; (ii) cách thức xác định
bán phá giá; (iii) thủ tục điều tra và (iv) cách thức áp dụng biện pháp chống bán
phá giá.
Các biện pháp chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam được quy
định cụ thể tại Pháp lệnh số 22/2004/PL-UBTVQH11 ngày 20/8/2004 về chống
trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và Nghị định số 89/2005/NĐ-CP quy
18
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh chống trợ cấp hàng hóa nhập
khẩu vào Việt Nam. Những nội dung chính của Pháp lệnh và Nghị định bao gồm
định nghĩa trợ cấp; điều tra trợ cấp đối với hàng nhập khẩu cách và thức áp
dụng.
5. Các biện pháp phi thuế quan
Các biện pháp phi thuế quan bao gồm các biện pháp an toàn thực phẩm,
chất lượng sản phẩm hàng hóa, kiểm dịch động vật, thực vật và kiểm tra y tế
biên giới, các biện pháp kiểm soát về quyền sở hữu trí tuệ có liên quan đến
thương mại…
Về các tiêu chuẩn liên quan đến an toàn thực phẩm, chất lượng sản phẩm
hàng hóa, pháp luật Việt Nam có các Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kĩ thuật

(2007), Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (2007), Luật Sở hữu trí tuệ (2006),
Luật Khoa học và Công nghệ (2000) và một số pháp lệnh (Pháp lệnh An toàn và
kiểm tra bức xạ…) và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành.
Về các tiêu chuẩn liên quan đến kiểm dịch động vật, thực vật và kiểm tra
y tế biên giới, pháp luật Việt Nam có các văn bản như Luật Thủy sản (2004),
Pháp lệnh Thú y (2004), Luật An toàn thực phẩm (2010), Pháp lệnh Bảo vệ và
kiểm dịch thực vật (2001), Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm (2007), Luật
Đa dạng sinh học (2008) và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành.
Về các biện pháp kiểm soát quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương
mại, chúng ta có Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH 11 ngày 29 tháng 11 năm
2005; Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Sở hữu trí tuệ số 36/2009/QH
12 ngày 19 tháng 06 năm 2009; Luật Hải quan số 29/2001/QH 10 ngày 29 tháng
06 năm 2001; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan số
42/2005/QH 11 ngày 14 tháng 06 năm 2005; Nghị định số 105/2006/NĐ-CP
ngày 22 tháng 09 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản
lý Nhà nước về sở hữu trí tuệ và Nghị định số 119/2010/NĐ-CP ngày 30 tháng
12 năm 2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
105/2006/NĐ-CP; Nghị định số 154/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2005
của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải
quan, kiểm tra, giám sát hải quan; Thông tư 44 /2011/TT- BTC của Bộ Tài
chính hướng dẫn công tác chống hàng giả và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong
lĩnh vực hải quan. Ngoài ra, cũng còn phải kể đến các điều ước quốc tế có liên
quan như như Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ về thiết lập quan
hệ quyền tác giả; Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Thụy Sỹ về bảo hộ
SHTT và hợp tác trong lĩnh vực SHTT; Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa
19
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
Kỳ; Công ước Bern về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật có hiệu lực tại Việt

Nam từ 26-10-2004; Công ước Geneva về bảo hộ người sản xuất bản ghi âm
chống sự sao chép trái phép có hiệu lực tại Việt Nam từ 6-7-2005; Công ước
Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp Luật mẫu của Tổ chức Hải quan thế
giới…
Xét về nhiều phương diện, việc xử lý hàng hoá XNK có yếu tố xâm phạm
quyền SHTT sẽ thu được hiệu quả nhất nếu tiến hành ngay khi hàng hoá đi qua
biên giới, chưa đưa vào mạng lưới phân phối, lưu thông tại nội địa. Do đó, với
chức năng kiểm tra, kiểm soát và làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá XNK,
các cơ quan Hải quan trên thế giới đều có nhiệm vụ kiểm soát biên giới nhằm
bảo hộ quyền SHTT. Ở Việt Nam, cơ quan Hải quan thực hiện nhiệm vụ bảo hộ
quyền SHTT liên quan đến hàng hoá XNK trên cơ sở các quy định của pháp luật
hiện hành. Bên cạnh đó, Hải quan Việt Nam còn thực thi hệ thống các điều ước
quốc tế về SHTT như đã liệt kê ở trên. Theo đó, cơ quan Hải quan có quyền
thực hiện biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở
hữu trí tuệ bao gồm: (i) Tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá bị nghi
ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; (ii) Kiểm tra, giám sát để phát hiện hàng
hoá có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
14
.
Để yêu cầu áp dụng các biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất, nhập khẩu
liên quan đến sở hữu trí tuệ, người yêu cầu phải có đơn đề nghị gửi Cơ quan Hải
quan, xuất trình các bằng chứng về quyền sở hữu trí tuệ hợp pháp của mình
được pháp luật bảo hộ, bằng chứng về việc hàng hóa đã xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ. Đồng thời, họ phải nộp một khoản tiền bảo chứng để bảo đảm bồi thường
thiệt hại trong trường hợp đề nghị tạm dừng làm thủ tục hải quan của họ không
đúng.
Thời gian tạm dừng là 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định, tuy nhiên, thời
hạn này có thể bổ sung không quá 10 ngày sau khi người nộp đơn có đơn xin gia
hạn kèm khoản tiền đảm bảo hoặc chứng từ bảo lãnh theo quy định của pháp
luật và thông báo cho người nộp đơn, chủ hàng và các bên có liên quan biết

(theo mẫu). Kết thúc thời hạn tạm dừng mà không nhận được đơn yêu cầu xử lý
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người nộp đơn hoặc văn bản của cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền hoặc toà án xác nhận đã tiếp nhận đơn
yêu cầu giải quyết tranh chấp về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến lô
hàng bị tạm dừng làm thủ tục hải quan; kết quả xác định tình trạng pháp lý về sở
hữu trí tuệ khẳng định rằng lô hàng bị tạm dừng làm thủ tục hải quan không xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ; có Quyết định của các cơ quan có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp về sở hữu trí tuệ, trong đó khẳng định lô hàng bị tạm dừng thủ
14
Xem Điều 200 khoản 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 và Điều 216 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung 2009
20
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
tục hải quan không phải là hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; có Quyết định
tạm dừng làm thủ tục hải quan bị đình chỉ hoặc thu hồi theo quyết định giải
quyết khiếu nại; người nộp đơn rút đơn yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan
thì Cơ quan Hải quan sẽ giải tỏa, làm thủ tục thông quan cho lô hàng. Người yêu
cầu tạm dừng phải thanh toán các khoản chi phí phát sinh cho chủ lô hàng do
việc tạm dừng làm thủ tục hải quan không đúng gây ra. Chi phí phát sinh bao
gồm phí lưu kho bãi, xếp dỡ, bảo quản hàng hoá. Thiệt hại từ việc tạm dừng làm
thủ tục hải quan do hai bên thoả thuận hoặc được xác định theo thủ tục tố tụng
dân sự. Còn nếu như người yêu cầu tạm dừng chứng minh được chủ hàng hóa
xuất, nhập khẩu đã vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, thì chủ hàng và hàng hóa vi
phạm sẽ được xử lý theo các quy định của pháp luật.
Về các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính, ngành Hải
quan thực hiện trên cơ sở quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
2002
15
; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm vi phạm hành chính năm 2008, Nghị định 128/2008/NĐ-CP
ngày 16/12/2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lý vi

phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2008; Nghị định 97/2007/NĐ-CP ngày
07/6/2007 quy định việc xử lý vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết
định hành chính trong lĩnh vực hải quan Luật Sở hữu trí tuệ 2005 cũng quy
định thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính về SHTT của cơ quan Hải quan
(Điều 200 khoản 1). Theo đó có các biện pháp như: tạm giữ người; tạm giữ hàng
hóa, tang vật, phương tiện vi phạm; khám người; khám phương tiện vận tải, đồ
vật; khám nơi cất giấu Cơ quan Hải quan có thể áp dụng các hình thức xử phạt
vi phạm hành chính (theo Điều 214 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung 2009)
như: cảnh cáo, phạt tiền (ít nhất bằng một lần nhưng không vượt quá năm lần trị
giá hàng vi phạm), hình phạt bổ sung là tịch thu hàng hóa xâm phạm. Cũng tại
Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung 2009, Điều 214 cũng quy định các biện
pháp khắc phục hậu quả như: buộc tiêu hủy hoặc cho đưa vào sử dụng nhưng
không nhằm mục đích thương mại; buộc tái xuất hàng nhập khẩu giả mạo sau
khi đã loại bỏ yếu tố xâm phạm; buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hàng quá
cảnh xâm phạm.
6. Các biện pháp xúc tiến thương mại
Xúc tiến thương mại là một hoạt động được quy định tại Luật Thương mại
2005 và được hướng dẫn chi tiết thi hành tại Nghị định số 37/2006/NĐ-CP của
Chính phủ. Các hoạt động xúc tiến thương mại, theo quy định tại các văn bản
trên đều không có sự phân biệt rành mạch giữa xúc tiến thương mại trong nước
và xúc tiến thương mại quốc tế (hướng đến xuất khẩu).
15
Văn bản này sắp hết hiệu lực
21
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
Bên cạnh đó, xúc tiến thương mại còn được thể hiện thông qua chương
trình xúc tiến thương mại quốc gia và chương trình thương hiệu quốc gia.
Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia là một chương trình được xây

dựng trên cơ sở định hướng phát triển xuất khẩu, thị trường trong nước và
thương mại miền núi, biên giới và hải đảo, phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế xã hội theo từng thời kỳ, theo đó, nhà nước hỗ trợ kinh phí để thực hiện
một số nội dung xúc tiến thương mại được quy định tại “Quy chế xây dựng,
quản lý và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia ban” được hành
kèm theo Quyết định số 72/2010/QĐ-TTg, theo đó, nội dung chương chương
trình xúc tiến thương mại định hướng xuất khẩu bao gồm: thông tin thương mại,
nghiên cứu thị trường, xây dựng cơ sở dữ liệu các thị trường xuất khẩu trọng
điểm theo các ngành hàng; tuyên truyền xuất khẩu; tư vấn phát triển sản phẩm,
nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển xuất khẩu, thâm nhập thị trường nước
ngoài; đào tạo, tập huấn ngắn hạn trong và ngoài nước; tổ chức đoàn giao dịch
thương mại tại nước ngoài…
Chương trình Thương hiệu quốc gia là một chương trình xúc tiến thương
mại dài hạn, nhằm xây dựng, quảng bá tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và nhãn
hiệu hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam trên thị trường trong và ngoài nước, theo
đó, doanh nghiệp tham gia chương trình được hỗ trợ kinh phí để thực hiện một
số nội dung chương trình tại “Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình
Thương hiệu quốc gia” được ban hành kèm theo Quyết định số 984/QĐ-BCT,
được hỗ trợ về tư vấn đăng ký nhãn hiệu sản phẩm, tên thương mại, chỉ dẫn địa
địa lý, được sử dụng cơ sở dữ liệu thông tin thị trường…
Ngoài ra, hoạt động xúc tiến thương mại quốc tế còn được thực hiện
thông qua tín dụng xuất khẩu quy định tại Nghị định số 75/2011/NĐ-CP và bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu đang được thí điểm thực hiện theo Quyết định số
2011/QĐ-TTg.
7. Các biện pháp ưu đãi kinh tế
Đây là các quy định ưu đãi cho các khu vực hải quan riêng và thương mại
biên mậu.
- Đối với khu vực hải quan riêng (khu công nghiệp, khu chế xuất và các
khu kinh tế)
16

, các chính sách ưu đãi được quy định tại Nghị định số
29/2008/NĐ-CP, Quyết định số 100/2009/QĐ-TTg và Quyết định số
33/2009/QĐ-TTg, theo đó các ưu đãi bao gồm ưu đãi đầu tư, ưu đãi về thuế suất
thuế nhập khẩu, ưu đãi về cơ chế
16
Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 03 năm 2008 của Chính phủ quy định về Khu công nghiệp, Khu
chế xuất và các Khu kinh tế.
22
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
- Đối với hoạt động thương mại biên mậu: các vấn đề liên quan được quy
định tại Quyết định số 254/2006/QĐ-TTg, theo đó, các hoạt động được điều
chỉnh bao gồm: mua, bán, trao đổi hàng hoá của cư dân biên giới; buôn bán tại
chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu và xuất nhập khẩu
hàng hoá qua biên giới theo các phương thức được thoả thuận trong Hiệp định
thương mại song phương giữa Việt Nam và các nước có chung biên giới, bên
cạnh đó, còn có hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa qua cửa khẩu phụ, lối mở
biên giới nằm ngoài các khu kinh tế cửa khẩu được quy định tại Thông tư số
13/2009/TT-BCT của Bộ Công Thương.
Việc mua bán, trao đổi và xuất nhập khẩu hàng hóa theo hình thức thương
mại biên giới được thực hiện theo quy định tại Nghị định 12/2006/NĐ-CP.
Riêng đối với hàng hóa trao đổi, mua bán của cư dân biên giới được Bộ trưởng
Bộ Công Thương công bố trong từng thời kỳ.
Ngoài ra, hệ thống pháp luật về quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa còn bao
gồm các quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực này, đó là các quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong Nghị định số 06/2008/ND-CP và Nghị định số
112/2010/ND-CP quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực thương mại và các
Nghị định xử phạt chuyên ngành khác.
II. Tổng quan hệ thống pháp luật điều chỉnh xuất nhập khẩu dịch vụ
Về dịch vụ được xuất khẩu, nhập khẩu, theo quy định hiện hành thì hiện

nay có 02 văn bản quy định về Danh mục xuất, nhập khẩu dịch vụ đó là:
Quyết định số 28/2011/QĐ-TTg ngày 17 tháng 05 năm 2011 ban hành
danh mục dịch vụ xuất, nhập khẩu Việt Nam;
Thông tư số 08/2011/TT-BKĐT ngày 01 tháng 8 năm 2011 quy định nội
dung danh mục dịch vụ xuất, nhập khẩu Việt Nam.
Theo quy định tại Quyết định số 28/2011/QĐ-TTg thì bao gồm 12 nhóm
ngành dịch vụ xuất, nhập khẩu, mã hóa bằng bốn chữ số:
1. Dịch vụ vận tải (mã 2050);
2. Dịch vụ du lịch (mã 2360);
3. Dịch vụ bưu chính và viễn thông (mã 2450);
4. Dịch vụ xây dựng (mã 2490);
5. Dịch vụ bảo hiểm (mã 2530);
6. Dịch vụ tài chính (mã 2600);
7. Dịch vụ máy tính và thông tin (mã 2620);
23
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
8. Phí mua, bán quyền sử dụng giấy phép, thương hiệu, bản quyền (mã
2660);
9. Dịch vụ kinh doanh khác (mã 2680);
10. Dịch vụ cá nhân, văn hóa và giải trí (mã 2870);
11. Dịch vụ Chính phủ, chưa được phân loại ở nơi khác (mã 2910);
12. Dịch vụ Logistic (mã 9000).
Mỗi nhóm ngành dịch vụ nêu trên được chi tiết thành các phân nhóm, sản
phẩm và được mã hóa bằng bốn chữ số tại phụ lục ban hành kèm theo Quyết
định này.
Tại Thông tư số 08/2011/TT-BKĐT có quy định một số khái niệm trong
xuất khẩu, nhập khẩu dịch vụ như sau:
Danh mục dịch vụ xuất, nhập khẩu Việt Nam: là danh mục phân loại
các sản phẩm dịch vụ được xuất khẩu, nhập khẩu giữa đơn vị thường trú của

Việt Nam và đơn vị không thường trú. Khái niệm về đơn vị thường trú và không
thường trú được quy định thống nhất trong Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA)
và cán cân thanh toán quốc tế (BOP).
Dịch vụ xuất khẩu: là toàn bộ các dịch vụ do doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân trong nước - đơn vị thường trú của Việt Nam - cung cấp cho các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân nước ngoài - đơn vị không thường trú.
Dịch vụ nhập khẩu: là toàn bộ các dịch vụ do doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân trong nước - đơn vị thường trú của Việt Nam - tiêu dùng/nhận từ các doanh
nghiệp, tổ chức và cá nhân nước ngoài - đơn vị không thường trú.
Bên cạnh đó, Thông tư còn quy định nội dung các nhóm, phân nhóm dịch
vụ ví dụ Dịch vụ vận tải bao gồm các dịch vụ vận chuyển hành khách, vận
chuyển hàng hóa bằng các phương thức vận tải đường biển, đường hàng không,
đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa, đường ống, truyền tải điện, các dịch
vụ hỗ trợ và liên quan đến vận tải như bốc xếp hàng hóa, kho bãi, dịch vụ cảng
hàng không, cảng biển…, Dịch vụ bưu chính và viễn thông bao gồm các dịch vụ
bưu chính, chuyển phát và viễn thông
Ngoài ra, Thông tư ban hành kèm theo Phụ lục 1 Bảng mã tương thích
giữa Danh mục dịch vụ xuất, nhập khẩu Việt Nam (VCITS) với Hệ thống ngành
sản phẩm Việt Nam (VCPA) và Phụ lục 2 Bảng mã tương thích giữa Danh mục
dịch vụ xuất, nhập khẩu Việt Nam (VCITS) với Phân loại dịch vụ GNS/W/120
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) (W120).
24
Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế - Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
Từ quy định trên, ta có thể thấy danh mục dịch vụ được xuất, nhập khẩu
đã được quy định cụ thể và chi tiết. Tuy nhiên, chỉ quy định về danh mục được
thực hiện và nội dung cụ thể các nhóm, phân nhóm dịch vụ, còn phạm vi điều
chỉnh từng dịch vụ lại được quy định tại hệ thống các văn bản chuyên ngành
khác nhau, theo quản lý riêng của các Bộ, ngành.
Hệ thống văn bản pháp luật trong điều chỉnh lĩnh vực dịch vụ nói chung

và xuất nhập khẩu dịch vụ nói riêng rất đồ sộ và phức tạp. Các quy định được
thế hiện ở nhiều văn bản khác nhau từ Hiến pháp, Luật của Quốc hội, Nghị định
của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư, Quyết định của
Bộ trưởng cũng như các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Mỗi nhóm ngành dịch vụ được xuất, nhập khẩu được điều chỉnh bởi một
hệ thống pháp luật chuyên ngành riêng biệt như dịch vụ vận tải đường bộ được
điều chỉnh bởi hệ thống các văn bản như Luật giao thông đường bộ và các văn
bản hướng dẫn các Luật này, dịch vụ viễn thông được điều chỉnh bởi Luật viễn
thông, các Nghị định, Quyết định và Thông tư hướng dẫn, dịch vụ tài chính
được điều chỉnh bởi Luật ngân hàng, Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản
hướng dẫn, dịch vụ bảo hiểm được điều chỉnh bởi Luật kinh doanh bảo hiểm và
các văn bản hướng dẫn… bên cạnh đó, mỗi nhóm ngành cũng chịu sự điều chỉnh
của quy định khác có liên quan.
Do mỗi nhóm ngành dịch vụ được xuất, nhập khẩu của Việt Nam được
điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật riêng biệt và độc lập. Do vậy, báo cáo này chỉ
tập trung nghiên cứu, rà soát một số nhóm dịch vụ được xuất khẩu, nhập khẩu
lớn và có tiềm năng để từ đó có cái nhìn tổng quát chung trong toàn bộ các quy
định của pháp luật liên quan đến xuất nhập khẩu dịch vụ, Danh mục các văn bản
liên quan đến một số nhóm dịch vụ được xuất khẩu, nhập khẩu được chi tiết tại
Phụ lục II
1. Dịch vụ viễn thông
1.1 Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh
- Luật viễn thông;
- Luật Bưu chính;
- Luật Tần số vô tuyến điện;
- Nghị định số 25/2011/NĐ-CP ngày 6/4/2011 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật viễn thông;
- Nghị định 47/2011/NĐ-CP ngày 17/6/2012 quy định chi tiết thi hành
một số quy định của Luật bưu chính;
25

×