BÀI LÀM
I. Khái quát về văn bản pháp luật khiếm khuyết
Trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản pháp luật của các chủ thể
có thẩm quyền, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau mà đã cho ra đời
những văn bản pháp luật khiếm khuyết; thậm chí trên thực tế, việc ban hành văn
bản pháp luật khiếm khuyết đã xảy ra khá phổ biến ở nhiều cấp, nhiều ngành
buộc các cơ quan Nhà nước và người có thẩm quyền phải sử dụng biện pháp
thích hợp để xử lí nhằm hoàn thiện chúng.
Trước hết, văn bản pháp luật khiếm khuyết được hiểu là văn bản còn
thiếu sót, chưa hoàn chỉnh, không đảm bảo về chất lượng mà Nhà nước yêu cầu.
Đó là các văn bản pháp luật (chủ yếu là các văn bản quy phạm pháp luật) có nội
dung không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng; vi phạm về thẩm
quyền ban hành; văn bản pháp luật có nội dung trái với qui định của pháp luật;
nội dung không phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc
tham gia; văn bản pháp luật có sự vi phạm các qui định về thể thức và thủ tục
ban hành; có nội dung không phù hợp với thực trạng và qui luật vận động của
đời sống xã hội, không đảm bảo yêu cầu về mặt kỹ thật pháp lí.
Để xử lí các văn bản pháp luật khiếm khuyết, dựa vào tính chất, mức độ
khiếm khuyết của văn bản pháp luật và bản chất của mỗi biện pháp xử lí; hệ
thống pháp luật hiện hành cho phép chủ thể có thẩm quyền lựa chọn các biện
pháp thích hợp để xử lí văn bản pháp luật khiếm khuyết. Trong tất cả các biện
pháp để xử lí văn bản khiếm khuyết được qui định bởi pháp luật hiện hành thì
biện pháp hủy bỏ và biện pháp bãi bỏ văn bản pháp luật khiếm khuyết là hai
biện pháp làm chấm dứt sự tồn tại của một văn bản pháp luật trên thực tế, đồng
thời làm chấm dứt hiệu lực pháp lí của văn bản đó; và đây cũng là hai biện pháp
đang có nhiều tranh luận xung quanh.
II. Biện pháp hủy bỏ và biện pháp bãi bỏ văn bản pháp luật theo qui
định của pháp luật hiện hành
1. Thế nào là hủy bỏ, bãi bỏ văn bản pháp luật
1
Hủy bỏ là biện pháp xử lí được áp dụng đối với văn bản pháp luật bao
gồm cả văn bản qui phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành
chính có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng, như: nội dung của văn bản
pháp luật bất hợp pháp, ban hành văn bản trái thẩm quyền nội dung, sai phạm
về thủ tục ban hành dẫn đến làm mất cơ sở pháp lí của việc giải quyết công việc
phát sinh.
Bãi bỏ theo từ điển tiếng việt thông dụng (Nxb giáo dục - 1995) thì đó là
biện pháp xử lí được hiểu là “bỏ đi, không thi hành nữa”. Đối tượng áp dụng
của biện pháp bãi bỏ là các văn bản qui phạm pháp luật có một trong các dấu
hiệu như: nội dung văn bản qui phạm pháp luật không phù hợp với đường lối,
chính sách của Đảng, đại đa số nội dung trong văn bản không phù hợp với
quyền lợi chính đáng của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; nội
dung của văn bản không phù hợp với nội dung của văn bản pháp luật do cơ
quan nhà nước cấp trên ban hành, phần lớn nội dung của văn bản qui phạm pháp
luật không phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội là đối tượng mà văn bản điều
chỉnh, phần lớn nội dung của văn bản pháp luật không phù hợp với các điều ước
quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia, văn bản qui phạm pháp luật không
còn cần thiết tồn tại trong thực tiễn nữa.
2. Sự không nhất quán khi sử dụng thuật ngữ “hủy bỏ” và “bãi bỏ”
trong hệ thốngcác văn pháp luật ở nước ta
Theo Hiến pháp, Quốc hội “bãi bõ” các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối
cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội (Điều 84). Đối với văn
bản của chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền “hủy bỏ”, nếu trái
với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội (Điều 91). Cũng chính trong điều
91 này có nhắc tới thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội “bãi bỏ các
nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương”.
Về thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong việc xử lí quyết định, chỉ
thị, thông tư của bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, Hiến pháp sử
dụng thuật ngữ “bãi bỏ” (Điều 114). Tiếp đó, Điều 124 của Hiến pháp qui định:
“Chủ tịch Ủy ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những
2
văn bản sai trái của các cơ quan trực thuộc Ủy ban nhân dân và các văn bản
sai trái của Ủy ban nhân dân cấp dưới; đình chỉ thi hành nghị quyết sai trái
của Hội đồng nhân dân cấp dưới, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp
mình bãi bỏ những nghị quyết đó”.
Từ những qui định trên, có thể thấy rằng, các thuật ngữ “hủy bỏ” và “bãi
bỏ” được Hiến pháp ghi nhận nhưng không có tiêu chí nhất định. Để phù hợp
với Hiến pháp, Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật đã lặp lại các thuật
ngữ này (Ví dụ: Điều 8,9, 82,83,84,90, 91).
Các luật khác như Luật tổ chức Quốc hội và Luật về hoạt động giám sát
Quốc hội cũng sử dụng từ “hủy bỏ” và “bãi bỏ”. Điều đáng lưu ý là, trong cùng
một ngữ cảnh, nhưng các đạo luật lại sử dụng hai thuật ngữ khác nhau. Theo
Luật tổ chức Quốc hội thì khi tiến hành hoạt động giám sát, hội đồng dân tộc,
các ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan hữu quan xem xét
và theo thẩm quyền đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ những văn bản
trái pháp luật (Điều 41 Luật tổ chức Quốc hội). Còn theo Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật (số 02/2002/QH11
ngày16/12/2002) thì khi phát hiện văn bản qui phạm pháp luật có dấu hiệu trái
hiến pháp và pháp luật, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội yêu cầu
cơ quan ban hành văn bản xem xét lại văn bản để đình chỉ việc thi hành, sửa đổi
hoặc “hủy bỏ” (Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật về việc bổ sung Điều 82a “Hội đồng dân tộc và các Ủy
ban của Quốc hội giám sát văn bản qui phạm pháp luật”). Hiện tượng này còn
có thể liệt kê thêm nữa trong các qui định của pháp luật hiện hành.
Dưới bất kỳ góc độ nào thì “hủy bỏ” và “bãi bỏ” văn bản đều gắn với
thẩm quyền của các chủ thể nhất định. Trong khi đó, hệ thống các qui định hiện
hành được xây dựng không dựa trên một tiêu chí nhất định và sử dụng không
nhất quán.
2. Vấn đề về ranh giới để phân biệt “bãi bỏ” và “hủy bỏ” trong hệ
thống pháp luật hiện hành
“Hủy bỏ” và “bãi bỏ” văn bản pháp luật là thẩm quyền của các chủ thể
nhất định hoặc là những biện pháp xử lý trong quá trình giám sát, kiểm tra văn
bản pháp luật. “Hủy bỏ” và “bãi bỏ” giống nhau ở chỗ: đều là những hành vi
tuyên bố vô hiệu hóa một văn bản và hậu quả là văn bản bị “hủy bỏ” hoặc “bãi
3
bỏ” sẽ hết hiệu lực pháp lý; đây là một hậu quả xảy ra đối với tất cả các văn bản
bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ, bất luận là văn bản được ban hành dưới hình thức nào,
bởi cơ quan nào và không phụ thuộc vào việc chủ thể nào thực hiện hành vi hủy
bỏ hay bãi bỏ.
Chính điểm giống nhau đó mà khiến cho nhiều khi ranh giới giữa hai biện
pháp bãi bỏ và hủy bỏ văn bản pháp luật khiếm khuyết trong hệ thống pháp luật
hiện hành thiếu rõ ràng. Sự không rõ ràng này cũng là bắt nguồn từ nguyên
nhân lớn nhất đó là sự không nhất quán khi sử dụng thuật ngữ “hủy bỏ” và “bãi
bỏ” như đã phân tích ở trên. Các qui định trong Luật ban hành văn bản qui
phạm pháp luật cũng chỉ có qui định chung chung mà không có ranh giới để xác
định trường hợp nào thì văn bản bị bãi bỏ, trường hợp nào thì bị hủy bỏ và hậu
quả pháp lí của hai biện pháp này có gì giống và khác nhau. Dẫn tới các cơ quan
nhà nước khi xử lí văn bản pháp luật cũng tùy nghi lựa chọn một trong hai biện
pháp này thậm chí còn sử dụng không nhất quán.
Tuy nhiên, hiện nay qua sự thể hiện ý chí của các nhà lập hiến, lập pháp,
ý chí của các chủ thể xây dựng văn bản pháp luật trong hệ thống các văn bản
pháp luật hiện hành thì có thể lý giải về ranh giới này theo hướng sau:
“Bãi bỏ” ứng với khả năng làm chấm dứt hiệu lực trong tương lai của văn
bản, hay nói đúng hơn văn bản bị bãi bỏ chỉ mất hiệu lực pháp luật kể từ thời
điểm văn bản xử lí nó có hiệu lực pháp luật; còn “hủy bỏ” ứng với khả năng
tuyên bố một văn bản qui phạm pháp luật không có hiệu lực ngay cả trong quá
khứ. Nếu liên tưởng, chúng ta có thể thấy nó cũng tương tự như việc tiến hành
bãi bỏ một bộ nào đó hay hủy bỏ cuộc bầu cử để tiến hành bầu lại.
Bởi vì, đối với một văn bản mà có các dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm
trọng (dấu hiệu trái pháp luật) thì văn bản không có giá trị áp dụng từ trước thời
điểm bị tuyên bố vô hiệu hóa (và thậm chí, ngay từ lúc vừa được ban hành).
Như vậy, về nguyên tắc, các quan hệ pháp luật được xác lập và thực hiện trên
cơ sở các qui định của văn bản sai trái đó đều không hợp pháp và không có giá
trị. Nói một cách khác, văn bản không chỉ chấm dứt hiệu lực trong tương lai
như trường hợp bãi bỏ - biện pháp áp dụng đối với dạng văn bản có một trong
các dấu hiệu khiếm khuyết như đã liệt kê đối với biện pháp bãi bỏ ở mục “1”
trên đây, mà còn bị tuyên bố là đã không có hiệu lực từ trong quá khứ. Do đó,
đối với trường hợp hủy bỏ văn bản sẽ xảy ra vấn đề phức tạp đó là cần khắc
phục hậu quả mà văn bản trái pháp luật đó gây ra. Và nếu đặt ra vấn đề khôi
phục lại hiện trạng ban đầu, bồi thường thiệt hại cho các đối tượng chịu sự tác
4
động trực tiếp của văn bản thì người gánh trách nhiệm đó không phải ai khác
ngoài Nhà nước.
Như vậy, văn bản pháp luật bị hủy bỏ sẽ hết hiệu lực pháp luật kể từ thời
điểm văn bản đó được qui định là có hiệu lực pháp lí. Điều đó có nghĩa Nhà
nước hoàn toàn không thừa nhận giá trị pháp lí của văn bản bị hủy ở mọi thời
điểm, cho dù trên thực tiễn, trước khi bị hủy nó đã từng được coi là có hiệu lực
và có thể đã được thi hành. Và với qui định của pháp luật hiện hành thì nếu văn
bản bị hủy bỏ là văn bản qui phạm pháp luật và văn bản hành chính thì pháp
luật không qui định về trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành
văn bản. Khác với hủy bỏ, văn bản bị bãi bỏ chỉ mất hiệu lực pháp luật kể từ
thời điểm văn bản xử lí nó có hiệu lực pháp luật, do vậy, biện pháp bãi bỏ
không phát sinh trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành văn bản
pháp luật sai trái đó. Thực trạng đó lại làm phát sinh điểm bất hợp lí trong pháp
luật: cùng ban hành pháp luật sai trái, gây ra những thiệt hại cho xã hội nhưng
có trường hợp phải bồi thường, có trường hợp không phải bồi thường.
3. Kiến nghị
Với những phân tích, nhận xét ở trên về hai biện pháp hủy bỏ và bãi bỏ
văn bản pháp luật thì việc qui định và thực hiện việc hủy bỏ văn bản quy phạm
pháp luật cần hết sức thận trọng, ngay cả ở những nước mà chế định về chế độ
trách nhiệm của Nhà nước được coi là tương đối hoàn thiện thì việc hủy bỏ văn
bản qui phạm pháp luật cũng được tiếp cận một cách dè dặt, chủ yếu dưới góc
độ nghiên cứu. Bởi lẽ, việc hủy bỏ văn bản dẫn tới trách nhiệm của Nhà nước
trong việc khôi phục các quyền bị xâm hại của tổ chức, cá nhân, trong đó có
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Trong điều kiện nước ta, cần tính đến
tính khả thi của qui định về hủy bỏ văn bản pháp luật; đồng thời tăng cường
trách nhiệm của Nhà nước phải được đề cao ngay từ giai đoạn xây dựng soạn
thảo và ban hành văn bản để phòng ngừa và hạn chế tối đa những khiếm khuyết
và sai sót của văn bản.
Hơn nữa, xoay quanh vấn đề trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn thiệt hại
của chủ thể ban hành văn bản với trường hợp văn bản bị hủy bỏ; để tránh phát
sinh điểm bất hợp lí là cùng ban hành văn bản pháp luật sai trái, gây ra những
thiệt hại cho xã hội nhưng có trường hợp phải bồi thường, có trường hợp không
phải bồi thường; và để đảm bảo tính khả thi, khoa học của qui định về hủy bỏ
5
văn pháp luật, đối với việc xử lý văn bản qui phạm pháp luật và văn bản hành
chính nên sử dụng thuật ngữ “bãi bỏ” thay vì “hủy bỏ”. nói cách khác, chỉ nên
qui định về biện pháp hủy bỏ đối với văn bản áp dụng pháp luật mà không nên
qui định việc hủy bỏ đối với văn bản qui phạm pháp luật và văn bản hành chính,
mà đối với văn bản hành chính và văn bản qui phạm pháp luật chỉ nên áp dụng
biện pháp bãi bỏ. Vì hai lý do: Môt là, văn bản qui phạm pháp luật không trực
tiếp làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật nên không thể trực
tiếp gây thiệt hại trong khi đó hủy bỏ luôn kéo theo việc bồi thường thiệt hại do
việc thực hiện văn bản mà không bồi thường; hai là, nếu quyết định bồi thường
thì khó có thể xác định thiệt hại trong thực tiễn và có thể xảy ra trường hợp
không đủ khả năng tài chính để bồi thường thiệt hại do việc thực hiện văn bản
gây ra.
III. Kết luận
Sự vận động không ngừng của đời sống kinh tế - xã hội luôn đặt ra yêu
cầu cấp bách đối với sự tham gia điều chỉnh của hệ thống pháp luật; đồng thời
đặt ra nhiệm vụ cho pháp luật là tạo môi trường pháp lí thuận lợi, tạo điều kiện
cho đời sống kinh tế - xã hội phát triển.
Tuy nhiên, trong quá trình vận động của mình, hệ thống pháp luật cũng
đã xuất hiện những điểm hạn chế, thể hiện ở một số không ít các văn bản pháp
luật cho ra đời mà không mang tính khả thi, không đáp ứng được yêu cầu của
hoạt động quản lí nhà nước và phát triển kinh tế xã hội. Điều đó kéo theo việc
hệ thống pháp luật lại qui định các biện pháp xử lí văn bản pháp luật khiếm
khuyết đó. Nhưng chính trong vấn đề qui định về biện pháp xử lí văn bản pháp
luật khiếm khuyết của hệ thống pháp luật hiện hành cũng đang còn nhiều điểm
bất cập, mà biểu hiện cụ thể nhất đó là việc qui định hai biện pháp “hủy bỏ” và
“bãi bỏ” như đã trình bày ở phần trên.
Trong tương lai, công tác xây dựng và ban hành văn bản pháp luật ở Việt
Nam, cần thống nhất và rạch ròi trong việc sử dụng thuật ngữ “hủy bỏ” và “bãi
bỏ”, điều này còn phụ thuộc rất nhiều vào tư duy của các chủ thể ban hành văn
bản pháp luật, đòi hỏi ở các chủ thể một tinh thần trách nhiệm cao hơn trong
công tác xây dựng văn bản pháp luật và đảm bảo cho nó “sống” được sau khi ra
đời.
6